Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khác biệt giữa Từ Ái và Luyến Ái

26/03/201202:08(Xem: 5084)
Khác biệt giữa Từ Ái và Luyến Ái

lotus_52KHÁC BIỆT GIỮA TỪ ÁI VÀ LUYẾN ÁI
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffry Hopkin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 3/3/2012

Giống như nước muối, những thứ vui thú
gia tăng luyến ái bất chấp chúng được sử dụng nhiều như thế nào
Sự thực tập vị tha bằng việc nhìn chúng
giống như cầu vồng mùa hè,
hiện hữu xinh đẹp nhưng không thật,
Do vậy, tránh luyến ái và tham dục.
Bồ tát TOKMAY SANGPO


Để phát sinh lòng từ ái chân thật, chúng ta cần biết nó khác biệt với luyến ái như thế nào. Lòng yêu thương và trắc ẩn thông thường quyện kết với luyến ái, bởi vì động cơ của chúng là vị kỷ: chúng ta quan tâm đến những người nào đấy bởi vì họ tạm thời giúp đở chúng ta và người thân của chúng ta. Như Long Thọ nói trong Tràng Hoa Quý Báu rằng:

Mặc dù liên hệ với luyến ái đến những người khác
là một khuynh hướng để giúp đở hay không giúp đở
Qua bị tiêm nhiễm bởi tham dục
hay một khuynh hướng để làm tổn hại.

Bởi vì lòng yêu thương và trắc ẩn như vậy ở dưới thế lực của luyến ái, chúng không thể mở rộng đến những kẻ thù, chỉ người thân mà thôi - người phối ngẫu, con cháu, cha mẹ, v.v... Trái lại từ ái và bi mẫn phát triển với nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng và những quyền lợi của người khác, chúng sẽ vươn ra thậm chí đến những người làm tổn hại chúng ta. Từ lúc thơ ấu, tôi đã từng có một khuynh hướng từ ái và bi mẫn nhưng nó là thiên kiến. Khi hai con chó đang cắn nhau, tôi thường có một cảm giác mạnh mẽ đối với con bị thua. Ngay cả khi hai con bọ đấu nhau, tôi đã có một mối quan tâm mạnh mẽ đối cho con nhỏ hơn, nhưng tôi sẽ sân hận với con thắng trận. Điều ấy cho thấy rằng lòng từ ái và bi mẫn của tôi bị thành kiến.

Trong việc quay lưng với luyến ái, chúng ta không được quên lãng những nhu cầu cần thiết, chẳng hạn như thức ăn, chỗ ở, và ngủ nghĩ. Đúng hơn, chúng ta nên tách rời chính mình khỏi những sự xao lãng nông cạn gợi ra từ những tiếng reo như "Thứ này thật tuyệt vời" "Tôi phải có thứ này!" "Ô, phải chi chỉ mình tôi có thứ này!" Khi chúng ta buông thả cuộc sống mình với những tư tưởng như vậy, sự lòe lẹt và tiền bạc trở nên hấp dẫn hơn sự phát triển tâm linh: những cảm xúc đau khổ gia tăng, đưa đến rắc rối, quấy rầy chính mình và những ai chung quanh chúng ta, trong khi chúng ta suy nghĩ để tìm ra những phương pháp để thỏa mãn những cảm xúc này, lại chỉ tạo thêm rắc rối. Bị lèo lái tơi bời bởi luyến ái, chúng ta sẽ không tìm thấy được sự thoải mái.

Cách tốt nhất để vượt thắng sự luyến ái chướng ngại ẩn tàng là nhận ra rằng chính bản chất của đời sống là những gì được tập họp lại với nhau cuối cùng sẽ tan rả - cha mẹ, con cái, anh chị em, và bạn hữu. Bất chấp người thân yêu thương nhau như thế nào, cuối cùng họ phải chia lìa. Sai lầm là thấy những hoàn cảnh như những niềm vui cố hữu. Luyến ái được xây dựng trên khái niệm sai lầm này và luôn luôn sẽ tạo thêm đau khổ.

Vận may không phải thường trực; hệ quả là thật là nguy hiểm để quá luyến ái với những thứ đang diễn ra một cách tốt đẹp. Một quan điểm thường trụ là nguy hại. Khi chúng ta thấy hiện tại trở thành mối quan tâm chính của chúng ta, tương lai không bận tâm, chính tư tưởng ấy là điều xói mòn động cơ của chúng ta trong việc dấn thân trong những sự thực tập bi mẫn cho sự giác ngộ tương lai của những người khác. Một quan điểm về vô thường sẽ hổ trợ. Bằng việc thấy rằng bản chất thật sự của mọi thứ là tàn tạ, chúng ta sẽ không bị sốc bởi sự thay đổi khi chúng xảy ra, không ngay cả sự chết

NHỮNG CẢM XÚC QUẤY RẦY PHÁT SINH NHƯ THẾ NÀO

Tham dục và thù hận phát sinh trong nhận thức của chính chúng ta như rất chắc chắn. Một khi có một sự cụ thể rất chắc chắn, tồn tại của " tôi", sẽ có một sự phân biệt với người khác - một khi có " tôi", cũng có " người". Sự phân biệt được tháp tùng bởi sự luyến ái đến cái chính tôi cụ thể và sự sân giận đối với phía kia. Như hành giả - bác học Ấn Độ vào thứ kỷ thứ bảy là Nguyệt Xứng đã nói:

Bất lực như chiếc thùng đi lên và đi xuống một cái giếng
Qua sự phóng đại bẩm sinh cá thể, cái "tôi".
Và sau đó là sự phát sinh luyến ái đối với mọi thứ, "Đây là của tôi."

Những người đầu tiên nhận thức về sự tồn tại cái "tôi" cụ thể cũng nhận thức những sự tồn tại một cách cụ thể của mọi thứ có thể sở hữu được. Qua năng lực của tiến trình này - sự phân biệt tự thân và người khác và sự luyến ái đến các đối tượng - chúng ta lang thang qua những tình trạng tốt và xấu của cõi luân hồi, giống như cái thùng du hành một cách bất lực lên và xuống một cái giếng.

Thật quan trọng để nhận ra trong kinh nghiệm của chính mình rằng con người và sự vật xuất hiện giống như chúng tồn tại trong và tự chính chúng, nhưng không phải thế. Nếu con người hay đối tượng xuất hiện vui vẻ, hai dòng suối năng lực của hấp dẫn được sản sinh - luyến ái đến chính mình và luyến ái đến con người hay đối tượng làm vui lòng. Sự luyến ái đến cảm giác vui lòng tự nó lèo lái chúng ta vào trong những hành vi đau khổ và do thế đi vào trong cõi sinh tử. Cho đến khi mà chúng ta vẫn phủ nhận bản chất thật sự của con người và sự vật, chúng ta sẽ tin rằng cả hai tồn tại một cách cố hữu. Sẽ không lâu trước khi tham dục và thù hận đi vào khung cảnh.

BẢN CHẤT CỦA LUYẾN ÁI

Luyến ái làm gia tăng tham muốn, mà không phát sinh bất cứ sự thỏa mãn nào. Có hai loại tham muốn, chính đáng và không chính đáng. Thứ nhất là phiền não tìm thấy trong si mê, nhưng thứ hai thì không. Để sống, chúng ta cần những tài nguyên; do thế, tham muốn vì những thứ vật chất cần dùng là thích đáng. Những cảm giác chẳng hạn, "Thứ này tốt; tôi muốn thứ này. Điều này là hữu dụng," không phải là phiền não. Cũng có những thứ đáng ước ao để đạt đến như lòng vị tha, tuệ trí, và giải thoát. Loại tham muốn này là thích hợp; thực tế, tất cả mọi sự phát triển của con loài người đều đến từ tham muốn, và những nguyện vọng này không phải là phiền não.

Thí dụ, khi chúng ta đã phát triển một mối quan hệ với tất cả chúng sinh, và khao khát rằng tất cả nên có hạnh phúc, một sự khao khát như vậy là đáng giá bởi vì nó không có định kiến. Nó bao gồm tất cả chúng sinh. Thường thì sự yêu thương của chúng ta hiện tại bị giới hạn với gia đình và thân hữu, nó bị tác động một cách sâu đậm bởi luyến ái si mê. Nó là thành kiến.

Tham muốn chướng ngại ẩn tàng là luyến ái không thích đáng đến sự vật. Điều này không tránh khỏi đưa đến không thỏa mãn. Tự hỏi mình chúng ta có thật sự cần những thứ này nhất hay không, và câu trả lời là không. Loại tham muốn này là không có giới hạn, tự nó không có cách nào toại ý. Một cách cơ bản nó đưa đến khổ đau. Chúng ta phải đặt sự dừng lại trong loại tham muốn này.

Trong những tầng thực tập trước, thật khó để phân biệt giữa những tham muốn hữu ích và những tham muốn phiền não. Một hành giả có thể cảm thấy từ ái và bi mẫn nhưng vẫn nắm lấy ý tưởng si mê mà chính người ấy và đối tượng của từ ái và bi mẫn laf được thiết lập một cách cố hữu. Vào lúc khởi đầu của việc thực hành tâm linh ngay cả si mê vẫn có thể phục vụ như môt sự hổ trợ cho giác ngộ. Khi chúng ta trau dồi từ ái và bi mẫn lần đầu tiên mặc dù si mê và luyến ái liên hệ, nhưng thật là sai lầm nếu không thực tập nữa; điều lựa chọn duy nhất là tiếp tục. Để vượt thắng luyến ái, chúng ta không thể chỉ chặn đứng tâm mình khởi đến đối tượng. Thay vì thế, chúng ta phải vượt thắng qua sự thực tập về sự nhận thức đối kháng với si mê.

Tuy nhiên, khi chúng ta có luyến ái đến những sự kiện vật chất, điều tốt nhất là ngừng dứt khỏi những chính những hành vi thúc đẩy thêm luyến ái. Sự thỏa mãn là hữu ích khi tiếp xúc với những thứ vật chất, nhưng không liên hệ với sự thực tập tâm linh. Những đối tượng mà chúng ta trở nên luyến ái là điều gì đấy bị loại ra, trái lại tiến trình tâm linh là điều gì đấy được tiếp nhận - có thể được phát triển một cách giới hạn, ngay cả trong tuổi già.

Mặc dù trong lúc khởi đầu thật khó khăn để phân biệt giữa những tham muốn phiền não và những tham muốn không phiền não, nhưng qua sự khảo sát và phân tích liên tục chúng ta có thể dần dần xác định si mê và những cảm xúc phiền não, làm cho sự thực tập của chúng ta ngày cành thuần khiết hơn. Luyến ái là một phía, tập trung một cách hạn hẹp trên chính mình và chỉ ngắn hạn, càng trở nến luyến ái, càng thành kiến và hạn hòi. Ngay cả những thứ nhỏ nhoi sẽ quấy rầy chúng ta. Vô tư liên hệ đến sự vắng mặt của tâm tư hẹp hòi, nhưng không có nghĩa là chúng ta từ bỏ sự quan tâm [không thành kiến]. Bởi vì chúng ta cần một phạm vi rộng rãi những sự việc, cho nên chúng ta cần vô tư, không thành kiến, vì thế nhằm để cởi mở tâm tư hơn, thánh thiện hơn, vô tư là cần thiết. Luyến ái là khép cửa lại [với mọi thứ khác]. Đấy là chướng ngại. Các sinh viên những người quá luyến ái với một môn học sẽ trở nên phiến diện; nhiều môn học cần phải được nghiên cứu.

Những sản phẩm thông thường của đời sống tâm tư hẹp hòi của thế gian được tổng hợp trong những gì được gọi là "tám pháp thế gian" hay "bát phong":

thích / không thích
được / mất
ca ngợi / phiền trách
danh dự / nhục nhã

Cung cách trần tục của đời sống buồn bả khi bốn thứ không thuận lợi - không thích, mất, phiền trách, và nhục nhã - xảy ra đến chúng ta hay người thân, nhưng chúng ta vui mừng những thứ này xảy ra cho kẻ thù của chúng ta. Những kết quả này tất cả đều căn cứ trên vấn đề người ta hành động như thế nào, trái lại với lòng từ ái và bi mẫn chân thành căn cứ không trên hành động mà trên sự kiện căn bản rằng những chúng sinh này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, giống như chính mình, và vì thế tất cả là bình đẳng. Một số hành động là tích cực, và một khác là tiêu cực, nhưng các tác nhân của những hành vi đó là vì tất cả chúng sinh đều có khát vọng với hạnh phúc. Chúng ta luôn luôn cần nhìn vào khía cạnh ấy. Những hành vi là thứ yếu vì chúng đôi khi là tích cực và có lúc là tiêu cực - luôn luôn thay đổi - trái lại có một thứ không bao giờ thay đổi là con người muốn hạnh phúc và không muốn bất hạnh.

Khi một sự kiện sốc xảy ra, cho dù trong ngày hay trong giấc mơ, sự đáp ứng lập tức của chúng ta là cái "tôi", không phải người Tây Tạng, không phải người Mỹ, hay bất cứ chủng tộc nào; không phải Ấn Giáo, không phải Phật tử, hay bất cứ hệ thống nào khác, nhưng chỉ là cái "tôi". Điều này chỉ cho chúng ta trình độ nhân loại căn bản. Trền trình độ quan trọng ấy tất cả là giống nhau. Trẻ con không buồn nghĩ đến tôn giáo hay chủng tộc, giàu hay nghèo, chúng chỉ muốn nô đùa với nhau. Với tuổi trẻ ý nghĩa con người đồng nhất là tươi mát hơn nhiều. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta tạo nên nhiều thứ phân biệt; nhiều sự tạo tác nhân tạo hay là giả tạo thật sự là thứ yếu đã trở nên quan trọng hơn, và sự quan tâm căn bản về loài người bị gạt bỏ. Rắc rối là ở đấy.

Từ ái, yêu thương bị cuốn hút vào trong thành kiến bởi tham dục và thù hận cuối cùng phải chấm dứt. Thương yêu bị tác động bởi tham muốn phiền não nhất thiết mang đến thù hận là chỗ đối lập với từ ái, và cùng với điều ấy đi đến ghen tỵ và tất cả những loại rắc rối. Mặc dù tham dục tự nó không trực tiếp là tổn hại, nhưng nó gián tiếp đem đến tất cả những năng lực của tổn hại. Đó là tại sao tiến trình mở rộng từ ái yêu thương bắt đầu với việc phát triển tình bình đẳng, sau điểm chính là cho dù một con người là tốt hay xấu đến chúng ta nhưng sự kiện là người ấy cũng giống như chính chúng ta trong việc muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Vì lòng tham muốn này hiện hữu trong tất cả chúng sinh, sự tỉnh thức của chúng ta về nó có thể áp dụng đến mọi người, làm căn bản cho lòng từ ái yêu thương của chúng ta thật là vững vàng. Một khi chúng ta đặt sự nhấn mạnh trên sự tương đồng của họ với chính mình, từ ái có một nền tảng vửng chắc không bị dao động vào những hoàn cảnh tạm thời.

Trong sự thực tập của riêng tôi, thí dụ, khi tôi quan tâm đến một người đặc thù nào đấy đang tra tấn người Tây Tạng trên quê hương Tuyết Sơn của tôi, tôi không tập trung trên thái độ xấu và sự tiếp cận xấu của người ấy nhưng phản chiếu trên sự kiện rằng đây là một con người giống như tôi, cũng muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau nhưng tự động mang đến khổ đau cho người ấy và có khuynh hướng tàn phá chính hạnh phúc của người ấy. Khi tôi nhìn vào những sự kiện từ quan điểm này sự đáp ứng của tôi là từ ái và bi mẫn. Tôi chọn nhận thức này và khía cạnh này. Nếu tôi xem người ấy như một kẻ thù làm tổn hại người Tây Tạng, lòng từ ái sẽ không là sự đáp ứng của tôi.

Một trong những lý do chính tại sao mà tham dục và thù hận sinh khởi là chúng ta quá luyến ái với đời sống này. Chúng ta muốn nó là thường còn, rằng nó sẽ tồn tại mãi mãi, và vì thế chúng ta tập trung quá nhiều trên những hoàn cảnh tạm thời và đặt quá nhiều những lợi ích giá trị và vật chất. Cách duy nhất để tránh điều này là phản chiếu trên sự kiện rằng mọi thứ điều sẽ qua đi - và chính chúng ta cũng sẽ qua đời. Như hành giả Tây Tạng vào thế kỷ mười ba và mười bốn là Tokmay Sangpo nói:

Chính là sự thực tập về lòng vị tha để từ bỏ chấp thủ luyến ái về đời sống này -

Những người thân cận, những người đồng hành với nhau trong một thời gian dài, rồi sẽ chia lìa,

Sự giàu sang và vật phẩm đạt được với sự cố gắng sẽ bị bỏ lại sau lưng,

Và ngôi nhà khách thân thể sẽ bị bỏ lại bởi vị khách tâm thức.

Không cần biết chúng ta sống bao lâu, khoảng một trăm năm, cuối cùng chúng ta sẽ chết, đánh mất cuộc sống con người quý báu. Và điều này có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cuộc sống này sẽ tàn hoại, bất chấp chúng ta có tài sản nhiều như thế nào. Không có một sự giảu sang nào có thể kéo dài thêm sự sống của chúng ta. Vào ngày chấm dứt, không một thứ gì chúng ta tích lũy được có thể giúp chúng ta, chúng ta phải bỏ lại tất cả mọi thứ sau lưng. Trong sự quan tâm này, cái chết của một người giàu và cái chết của một con thú là giống nhau.

Trong vòng quanh quẩn của luyến ái đối tượng xuất hiện hoàn toàn tốt đẹp, nhưng thật sự nó không phải như thế. Khi luyến ái bắt đầu phát triển, hãy cố gắng tìm ra những phẩm chất tiêu cực trong đối tượng tham dục của mình. Một khi luyến ái đã bén rể thật rất khó để mà đèn nén hay loại bỏ, cơ hội tốt nhất là cố gắng xao lãng sự chú ý của chúng ta với đối tượng. cỏ lẻ ngay cả sự xa lìa chúng lại đằng sau một cách vật lý.

Luyến ái đến một người thân có thể rất mạnh mà nó đưa đến rối loạn với người thương vào thời điểm lâm chung. Nắm chặc tay người thương, nước mắt tràn lan bám víu người thân, ngay cả than khóc trước mặt người ấy - những hành động này có thể phá hủy bất cứ cơ hội nào để người ấy phát sinh một khung cảnh đạo đức của tâm bằng việc làm cho người ấy dính chặc với kiếp sống này. Một người thân nên cung ứng những điều kiện cho những tư tưởng đạo đức bẳng việc nhắc nhờ người sắp chết những hướng dẫn tôn giáo và nhắc nhở rằng sẽ có nhiều hiện tướng bất thường tạo ra bời nghiệp chướng trong sự chết. Thật thiết yếu để thấu hiểu rằng không có điểm nào trong việc quyến luyến với những hiện tướng vui mừng hay giận dữ bởi những người đang ở trong tình trạng kinh khủng của sự chết.

Ý CHÍ MẠNH MẼ

Thật quan trọng để gợi cảm hứng để mang đến sự cát tường với người khác và để phát triển sự ngưỡng mộ ấy vì thế nó trở nên càng lúc càng mạnh mẽ hơn. Điều này không phải là sự luyến ái hay dính mắc bởi vì nó không bị trộn lẫn với những cảm xúc phiền não. Sự ngưỡng mộ sinh khởi từ sự vô tư hay buông xả.

Một cá tính mạnh mẽ là cần thiết, nhưng không có việc trở thành vị kỷ. Chúng ta cần một ý chí mạnh mẽ để đạt đến sự thánh thiện. Để tạo nên một nguyện ước rằng chúng ta trở thành một chúng sinh có khả năng hổ trợ tất cả chúng sinh khắp hư không, chúng ta cần một tự ngã mạnh mẽ; với một cá tính hay tự ngã yếu đuối thì một mục tiêu như vậy là không thể đạt được. Loại tham muốn này là hợp lý và không phải là luyến ái hay dính mắc. Nó phải được tiếp nhận trong thực tập. Tham muốn không hợp lý phải được từ bỏ hay loại trừ bởi vì nó là hẹp hòi.

LÀM CHO CUỘC SỐNG ĐẦY NÀY ĐỦ Ý NGHĨA

Buông xả sự chấp thủ với đời sống này không có nghĩa là chúng ta phải dừng lại việc săn sóc chính mình và người khác. Khi tôi đề xuất rằng chúng ta xem thân thể như có bản chất của khổ đau, không có nghĩa rằng chúng ta phải quên lãng nó. Thân thể chúng ta có thể giúp chúng ta đạt được những mục tiêu vĩ đại. Như Tôn giả Tịch Thiên nói trong Hướng Dẫn Lối Sống Của Bồ Tátrằng:

Dựa trên chiếc thuyền thân thể con người,
Hãy giải thoát chính mình khỏi dòng sông mênh mang của khổ đau.

Sự thành công kỳ diệu và cội nguồn vô biên của bất cứ đời sống nào trong cõi luân hồi sẽ suy tàn một cách thiết yếu, nhưng thân thể phải được xem như cơ hội tự nhiên để mang lợi ích đến người khác. Như thế, tự nó phải được nuôi dưỡng và phát triển trong một thái độ buông xả. Thật cần thiết để chăm sóc điều kiện hiện tại của chúng ta trong một thể trạng của tâm hướng đến những đời sống tương lai.

Đức Phật dạy rằng chúng ta không nên thực tập cực đoan. Tra tấn chính mình là một cực đoan nên được tránh. Như Long Thọ nói trong Tràng Hoa Quý Báu [1]đã nói rằng:

Việc thực hành không phải được hoàn thành
Bằng việc hành hạ thân thể.
Vì các con không từng từ bỏ việc làm tổn thương người khác
Và không đang giúp đở người khác [bằng việc hành xác chính mình].

Khi chúng ta không quan tâm đến nhu cầu căn bản của thân thể, chúng ta làm tổn hại nhiều chúng sinh vi sinh sống trong thân thể. Chúng ta cũng nên tránh những cực đoan đối lập bằng việc sống xa hoa quá độ. Có thể tạo nên những thức ăn, quần áo, nhà cửa, và đồ đạc trong nhà quý giá mà không phát sinh những cảm xúc phiền não chẳng hạn như luyến ái; những nhân tố ngoại tại không phải tự nó hay trong nó là tốt hay xấu. Nhưng thật cũng không thích đáng nếu luyến ái gia tăng ngay cả đối với thức ăn, áo quần, v.v... thông thường.

Toại nguyện là chìa khóa. Nếu chúng ta có sự toại nguyện với những thứ vật chất, chúng ta thật sự giảu sang. Không toại nguyện, ngay cả nếu là một tỉ phú, chúng ta cũng không thấy hạnh phúc. Chúng ta sẽ luôn luôn cảm thấy đói khát và thêm và thêm nữa, như thế làm cho chúng ta không phú quý, mà chỉ là nghèo cùng. Nếu chúng ta tìm kiếm sự toại nguyện một cách ngoại tại, thì mãn nguyện sẽ không bao giờ xảy ra. Sự khao khát của chúng ta sẽ không bao giờ thỏa mãn. Kinh điển của chúng ta nói về một vị vua đạt được sự thống trị toàn thế giới, đến mức mà ông bắt đầu nghĩ về việc chiếm lấy lãnh thổ của những vị trời. Vào lúc kết thúc những phẩm chất tốt đẹp của ông đã bị tiêu tan bởi sự kiêu căng.

Toại nguyện là cần thiết cho hạnh phúc, vì thế hãy cố gắng thỏa mãn với thức ăn, quần áo, nhà cửa thích ứng. Đối với một cư sĩ, hưng phấn trong tình dục thông thường không bị xem là sái quấy, nhưng quá nhấn mạnh về điều đó có thể mang đến thảm họa. Mọi thứ cần được cảm nhận thức và thông qua trong một cung cách quân bình. Điều này là thiết yếu. Hưng phấn và luyến ái quá nhiều với tình dục có thể là hạt giống của ly hôn.

Độ lượng hay khoan dung cũng cần thiết. Khi Đức Phật là một sa môn trước khi giác ngộ, dường như những năng lực xấu ác ngoại tại đã đến để dày dò ngài. Ngài không đáp ứng với hành động hung hãn hay đe dọa của sức mạnh. Ngài chỉ trau dồi qua thiền quán từ ái và bi mẫn, và qua sự thực hành ấy đã phá hủy năng lực xấu ác.

Từ bỏ sự luyến ái với thế gian không có nghĩa là tách rời mình với thế giới. Khi chúng ta phát sinh một khát vọng chính đáng vì hạnh phúc của người khác, nhân tính sẽ gia tăng sức mạnh. Khi chúng ta trở nên buông xả hơn với thế giới, thay vì phủ nhận loài người, chúng ta sẽ trở nên nhân đạo hơn. Chính Đức Phật đã trình bày những thệ nguyện về lòng vị tha cho cư sĩ và cho tu sĩ, mà có nghĩa là ngài hình dung những hành giả với những gia đình. Chính mục tiêu của sự thực hành trong Đạo Phật là để hổ trợ người khác. Nhằm để làm như thế, chúng ta phải duy trì trong xã hội.

Nguyên tác: The different between love and attachment
Ẩn Tâm Lộ ngày 13-3-3012

Bài liên hệ:

1- Quan điểm của tôi

2- Những giai tầng phát triển

3- Tịnh hóa tâm thức

4- Nghĩ về thân và thù

5- Nhận ra thân hữu

6- Đánh giá đúng sự cân cần

7-Thói quen ân cần

8- Học tập để từ ái

9- Khác biệt giữa từ ái và luyến ái



[1]Bảo hành vương chính luận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/08/2017(Xem: 6875)
Thưa đại chúng, hôm nay là ngày 01 tháng bảy năm 2017, tại tu viện Thiện Hòa, thành phố Moenchenladbach , Đức quốc. Tôi có duyên với quý vị trong giờ phút này, và tôi xin chia sẻ pháp thoại “Đức Phật A Di Đà trong đời sống của tất cả chúng ta”.
10/05/2017(Xem: 6893)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 6508)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 8304)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 4058)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 5531)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 16476)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 11401)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 9733)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 14178)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567