Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khai Thị và phát nguyện vãng sanh

03/04/201202:03(Xem: 5883)
Khai Thị và phát nguyện vãng sanh


phatadida

KHAI THỊ & PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH

Thích Giác Khang

------ O -----

KHAI THỊ

***

Đối vời ngườisắplâm chung: (có 4 điều cần hiểu để hành)

  1. Xác thân chết nhưng linh hồn còn chuyển biến liên tục mãi mãi.
  2. Lúc hấp hối hiện ra những việc thiện, ác hay vô ký (không thiện không ác) đã làm trong cuộc sống. Nếu tắt thở hiện ra việc thiện thì tái sanh về cõi thiện (người, trời) ; hiện ra việc ác thì tái sanh về cõi ác (địa ngục, ngạ quỷ, atula). Tốt nhất, chúng ta niệm Phật niệm Phật được nhất niệm và phát nguyện vãng sanh sẽ được Phật tiếp dẫn về Tây phương Cực lạc, vĩnh viễn thoát luân hồi sinh tử khổ.
  3. Phương cách niệm lục tự A Di Đà được nhất niệm thông qua 6 căn :

- Mắtnhìn hình Phật A Di Đà đặt ở hướng Tây tức hướng mặt trời lăn.

- Tainghe tiếng niệm Phật.

- Mũingửi mùi thơm của nhang.

- Miệngniệm « nam mô A Di Đà Phật ».

-Thânngồi kiết già, mặt quay về hướng Tây. Nếu nằm thì đầu quay về hướng bắc, chân hướng Nam, nằm nghiêng qua bên phải để lưng quay về hướng Đông, mặt quay về hướng Tây nhìn hình Phật.

- Ýluôn nghĩ, tưởng nhớ đến Phật A Di Đà.

  1. Lúc lâm chung thấy người hoặc cảnh giới: màu đen là quỷ, màu đỏ là atula, màu xanh là tiên, màu trắng là trời thì chúng ta từ chối khéo léo không đi theo, đợi khi màu vàng và Phật A Di Đà hiện ra tay cầm hoa sen thì linh hồn nhập vào hoa sen đó.

Đối với người thân trong gia đình: (có 7 điều cần hiểu để hành)

  1. Người sắp lâm chung hay bị hôn mê nên rất cần người nhắc nhở niệm Phật thường xuyên, có thể vị Chân sư khai thị hoặc Ban hộ niệm, tốt nhất là người thân cận nhưng phải khéo léo, dịu dàng,..để khi nhắc người bệnh vui vẻ chấp nhận niệm Phật.
  2. Nếu bị bệnh nan y, thân mình đau nhức, khó tập trung niệm Phật. Người nhà nấu nước gạo lức để ấm 37 độ cho uống (không uống lạnh hoặc nóng) rồi xem nước tiểu nếu màu vàng lợt thì bệnh nhân hết nhức và còn nhức khi nước tiểu màu vàng đậm là do nhiệt (không rang gạo lức) hoặc màu trắng là do hàn (rang gạo lức ngã màu vàng sậm).
  3. Người thân của người sắp lâm chung nên niệm Phật, tụng kinh, ăn chay rồi hồi hướng cho người bệnh và cứ tiếp tục cho đến 49 ngày sau khi mất.
  4. Trước và sau khi chết, cả người thân cũng như người đến thăm không đến hỏi han hoặc khóc. Vì nếu khóc hoặc hỏi han thì người sắp lâm chung niệm Phật không nhất niệm sẽ khó ra đi hoặc linh hồn nắm níu khó siêu thoát.
  5. Sau khi chết không đụng vào tử thi, phải chờ sau 8 tiếng đồng hồ mới thay đồ và liệm, cũng không bỏ vàng, nếp,… vào miệng người chết. Bởi vì các dây thần kinh cảm giác còn dính liền với linh hồn, khi va chạm dễ bị đau mà bị đọa vào súc sanh.
  6. Khi đã chết rồi không rước ban kèn trống làm mất thanh tịnh. Người thân, Ban hộ niệm hoặc mở băng niệm Phật mà thôi.
  7. Không đốt, không rải giấy tiền vàng bạc địa phủ. Không cúng và đãi khách đồ ăn mặn trong thời gian tổ chức đám tang.

Ấn chứng vãng sanh(có niệm Phật và phát nguyện vãng sanh)

  1. Tỉnh táo niệm Phật trước khi tắt thở. Khi nhắc niệm mà người sắp lâm chung:

- Mĩm cười: có ¾ hào quang của Đức A Di Đà chiếu vào thân thể.

- Gật đầu: có 2/4 hào quang của Đức A Di Đà chiếu vào thân thể.

- Chớp mắt: có ¼ hào quang của Đức A Di Đà chiếu vào thân thể.

  1. Chết sau 8 tiếng đồng hồ mà thân thể mềm mại, mặt tươi tỉnh như lúc còn sống.
  2. Sau 8 tiếng đồng hồ, trước khi liệm, nhờ người nào có định lực, tu hành, tốt nhất là các vị Sư chân chánh khéo léo, nhẹ nhàng rà soát châu thân xác định điểm nóng, ấm chỗ nào, nếu ở:

- Đỉnh đầu: đây là hiện tượng của 4 bậc Thánh, vãng sanh về cõi Trung phẩm.

- Trán: sanh về Hạ phẩm Thượng sanh. Nếu không phát nguyện sanh về cõi trời Vô sắc giới.

- Mặt: sanh về Hạ phẩm Trung sanh. Nếu không phát nguyện sanh về cõi trời Sắc giới.

- Ngực: sanh về Hạ phẩm Hạ sanh. Nếu không phát nguyện sanh về cõi người, trời dục giới.

Ngoài ra, nếu còn nóng, ấm ở: bụngsẽ sanh vào ngạ quỷ, đầu gốisẽ sanh vào súc sanh, bàn chânsẽ sanh vào địa ngục.

  1. Sau khi hỏa táng (thiêu), trường hợp 1,2,3 trên sẽ có xá lợi nhiều hay ít là do Phật lực chiếu vào. Người thân nên thờ xá lợi này sẽ giúp cho gia đình được yên ấm.

Cần khiêng những thức ăn:

- Kiêng ăn: hành, hẹ, tỏi, nén, ngò, kiệu,… để niệm Phật được trong sạch và linh nghiệm.

- Để tránh bệnh nan y như: ung thư, tiểu đường, bại liệt,…Cần tránh ăn: bột ngọt, dầu chiên, ớt, đồ nóng,…giá, măng, cà nâu, các loại nắm trồng bằng meo (nắm rơm, nấm đông cô,…). Nên ăn: bí rợ (bí đỏ), sà-lách-son, ngó sen, hạt sen, dưa gan muối, dưa leo muối,… các thứ đậu (đen, đỏ,…). Nấu nước gạo rang để ấm 37 độ thay nước uống trong ngày.

PHÁT NGUYỆN & NIỆM PHẬT

CẦU VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC

------ O ------

Quy mạng lễ A Di Đà Phật,

Ở phương Tây thế giới an lành,

Con nay xin phát nguyện vãng sanh,

Cúi xin Đức từ bi tế độ.

Nam mô Tây phương cực lạc, Thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

- Nam mô A Di Đà Phật ( 10 lần,… 108 lần, …)

- Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát ( 3 lần)

- Nam mô Quán Đại Thế Chí Bồ Tát ( 3 lần)

- Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát ( 3 lần)

- Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát ( 3 lần)

NGUYỆN

Nguyện con sắp đến lúc lâm chung,

Trừ hết tất cả các chướng ngại,

Tận mặt thấy Phật A Di Đà,

Liền được sanh về cõi Cực lạc.

HỒI HƯỚNG

Xin đem công đức niệm Phật này,

Hồi hướng bốn ân và ba cõi,

Nguyện khắp pháp giới các chúng sanh,

Đều sanh Cực lạc thành Phật đạo.

Ý kiến bạn đọc
21/07/201510:57
Khách
Chư Hành Vô Thường
Vi Sanh Diệt Pháp
Sanh Diệt Diệt Dĩ
Tịch Diệt Vi Lạc
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2017(Xem: 6792)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 6402)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 8143)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 3970)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 5355)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 16163)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 11290)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 9609)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 13862)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
10/07/2015(Xem: 5757)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567