Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nam Tuyền Trảm Mèo Qua Cái Nhìn Nhân Duyên

02/02/201122:13(Xem: 3030)
Nam Tuyền Trảm Mèo Qua Cái Nhìn Nhân Duyên
NAM TUYỀN TRẢM MÈO
QUA CÁI NHÌN NHÂN DUYÊN

Chân Hiền Tâm

Thời thiền sư Nam Tuyền …

Nhà Đông nhà Tây tranh nhau một con mèo. Nam Tuyền thấy liền đề khởi: “Nói được thì không chặt”. Chúng không nói được. Nam Tuyền chặt con mèo làm hai khúc.

Người xưa giải thích :

Hàng Tông sư một động một tịnh, một ra một vào, hãy nói ý chỉ thế nào? Câu chuyện chặt con mèo, trong tùng lâm khắp nơi bàn tán xôn xao. Có người nói: “Chỗ đề khởi liền phải”. Có người nói: “Ở chỗ chặt”. Hoàn toàn không dính dáng! Nam Tuyền nếu khi chẳng đề khởi, khắp nơi cũng tạo tác đạo lý. Đâu chẳng biết, cổ nhân có con mắt định càn khôn, có cây kiếm định càn khôn. Ông hãy nói rốt ráo là ai chặt con mèo? Chỉ khi Nam Tuyền đề khởi: Nói được tức chẳng chặt, chính khi ấy bỗng có người nói được thì Nam Tuyền chặt hay không chặt? Vì thế nói:

Chánh lệnh đương hành
Ngồi đoạn mười phương
Thoát ra xem ngoài trời
Ai là người trong ấy?

Kỳ thật đương thời vốn chẳng chặt, thoại này cũng chẳng ở chỗ chặt cùng chẳng chặt. Việc này thật biết rõ ràng như thế, chẳng ở trên tình trần ý kiến mà tìm. Nếu nhằm trên tình trần ý kiến mà tìm thì cô phụ Nam Tuyền. Chỉ nhằm trên mũi nhọn kiếm bén xem thì có cũng được, không cũng được, chẳng có chẳng không cũng được. Vì thế cổ nhân nói: “Cùng tắc biến, biến tắc thông”. Người nay chẳng hiểu biến thông, chỉ nhằm trên ngôn cú chạy. Nam Tuyền đề khởi thế ấy, không thể bảo người hạ được lời gì? Chỉ cần bảo người tự tiến, mỗi mỗi tự dụng tự biết. Nếu chẳng hiểu thế ấy, chợt dò tìm không đến. Tuyết Đậu đương đầu tụng ra:

Hai nhà đều hạng khách thiền xoàng
Khói bụi vạch tung vẫn mơ màng
Nhờ được Nam Tuyền hay hành lệnh
Một đao hai khúc mặc thiên bàn

Trích (Nam Tuyền chặt mèo – Bích Nham Lục)

Công án của người xưa không phải là chỗ có thể dùng ngôn từ để lạm bàn, cũng không phải là chỗ có thể dùng tri thức thế gian mà thấu được. Lời dẫn của công án đã ghi: “Nẻo ý chẳng đến nên khéo đề ra. Nói năng chẳng kịp phải mau để mắt. Nếu là điện xẹt sao băng, liền hay nghiêng hồ lộn núi …”. Vậy thì đâu thể dùng tri thức hiện đời mà biện được. Lời người xưa giải thich rõ ràng nhưng nếu không phải kẻ đã biết ‘rốt ráo ai là kẻ chặt mèo”, cứ theo sự ấy mà luận xa gần thì ngàn đời cũng không thể thông. Xem ra, giải thích cũng đồng không giải thích.

Công án người xưa đề khởi, kẻ hậu nhân thời nay không mấy người có phần. Song đã là Phật tử (không vì đã qui y thọ giới cũng không vì màu áo Phật tử, mà vì cái gốc của chúng ta vốn là Phật tử) nên không được phần tủy, nhất định cũng có phần da. Đâu thể không vận dụng phần da ấy làm kế sinh nhai cho một năm sắp tới, để tất cả được an khang, thịnh vượng, an lạc, hạnh phúc, như người người chúc tụng lẫn nhau, nhà nhà đều muốn như thế.

I. Phát huy trí tuệ

Tu hành rồi, lại được ở gần bậc tôn túc, vậy mà một con mèo cũng tranh nhau. Tranh, thì chặt thành hai khúc, cho mỗi bên một nửa.

Hai nhà đều là khách thiền xoàng nên không thể ngay nơi sự mà nhận được thực lý Tâm kinh đã nói: « Sắc tức thị không. Không tức thị sắc» nên mới sinh tâm tranh dành. Đã không thể ngay đó mà nhận thì chém.

Mèo còn, tranh tới tranh lui
Một khi mèo chết buông trôi dễ dàng.

Buông được, thì không trả lời tức đã trả lời.

Thứ gì đã rơi vào thế tương đãi, mà không nhận được bản chất của cái thế ấy, thì không tránh khỏi tranh nhau. Không tranh con mèo thì lại hơn thua trên lời nói. Một cử chỉ nhỏ nhiệm cũng không thoát khỏi con mắt ‘tinh vi’ của mình. Tranh quyền, tranh lợi, tranh hơn, tranh thua. Vào đạo rồi thì tranh thầy, tranh bạn, tranh đệ tử v.v… Đụng thứ gì cũng tranh là do không thấy được tính không của vạn pháp. Tổ Long Thọ nói : «Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là không». ‘Pháp nhân duyên’ là tên khác của pháp tương đãi.

Sao gọi là tương đãi? Đãi, là ‘đợi’. Tương, là ‘với nhau’. Con mèo hình thành nên bào thai rồi, cũng phải đợi đủ ngày đủ tháng mới ra đời. Đợi nhau mà có như thế, nên gọi là pháp tương đãi. Thứ gì đợi nhau mà có thì Phật Tổ nói ‘không có chất thật’. Nó không phải là pháp tự dưng mà có để có thể trường tồn vĩnh viễn. Đủ duyên mới có. Hết duyên liền không. Sanh và diệt, sống và chết cũng như thế. Đó là mặt hiện tượng duyên khởi của vạn pháp. Phật Tổ ra đời cũng phải theo qui luật ấy mà đi. Chỉ khác, chư vị nhận ra được bản chất của vạn pháp, nên rằng :

Phải quấy niệm hoa rơi buổi sớm
Lợi danh tâm lạnh với mưa đêm
Mưa tạnh, hoa trơ, non vắng lặng
Chim kêu một tiếng lại xuân tàn
(Trích Phòng núi hứng khởi - Trần Nhân Tông)

Tâm phải, quấy, lợi, danh đều phải buông sạch, vậy mà Tăng Đông đường Tây đường, một con mèo vẫn còn tranh, nói sao Tổ sư không chém?

Duyên dứt, mọi thứ hóa không. Con mèo chỉ còn là đống thịt thối. Hết chỗ bám !

An khang, thịnh vượng, an lạc, hạnh phúc cũng là pháp nhân duyên. Những thứ đó không phải tự dưng mà có, cũng không phải do cầu sinh mà được. Muốn có chúng, chúng ta phải gieo nhân lành. Đủ duyên, quả tốt mới xuất hiện. Không thể chỉ vin vào những lời chúc tốt lành mà có thể hình thành những điều như thế.

Đã là pháp nhân duyên thì đủ duyên mới có, hết duyên liền không, không có gì trường viễn khi nhân duyên đã tàn. Cho nên :

Chúc nhau vui vẻ cả làng
Chúc nhau thì chúc dặn dò mấy câu
Là rằng phúc thiện chớ quên
Người người no ấm ta thời ấm no
Hạnh phúc không giựt của người
Thì ta hạnh phúc cuộc đời cũng tươi
Bố thí, ừ bố thí đi !
Là nhân thịnh vượng, đời đời khỏi lo
An khang tráng kiện là nhờ
Không sát hại vật, không thâm của người
Thương người như thể thương thân
Người xưa đã dạy khắc ghi trong lòng
Nhân duyên, nên phải gieo trồng
Nhân duyên đều đủ mới thành quả vui
Nên rằng : Nhân phải gieo hoài
Đủ duyên mới có quả vui mà dùng

Đó là những việcphải làm, cuộc sống của chúng ta mới hạnh phúc và thịnh vượng. Những nhân đó được gieo không chỉ vì mục đích mình muốn đạt được, mà phải đi kèm với từ tâm thì cuộc sống của mình mới không có nạn tai. Muốn chuyển hóa nạn tai cũng cần đến tâm từ.

II. Phát huy lòng từ

Người đàn bà và con quỉ tranh nhau một đứa trẻ. Ai cũng nhận đó là con mình. Để kết thúc việc tranh cải, phán quán cho hai người cầm một chân đứa bé mà giật. Đứa bé về phía người nào thì người đó được con. Hai người vừa bắt đầu, thì có một người buông tay. Phán quan hỏi vì sao? Người ấy khóc mà trả lời : «Nếu cứ đà ấy mà kéo, thì con của tôi sẽ phân thây mà chết. Chi bằng mất nó mà tính mạng nó được bảo tồn». Nghe vậy, phán quan cho người đàn bà nhận lại đứa trẻ.

Nhà Đông nhà Tây, chỉ cần có chút từ tâm như mẹ xót con mà buông sự tranh dành, biết đâu đã cứu được con mèo. Tiếc là, đụng vật thì bị vật dẫn, đụng ngôn từ thì bị ngôn từ dẫn, rồi cứ theo đầu lưỡi ấy mà đi, quên mất nhân duyên đưa đến việc con mèo bị chém. Có tranh dành mới có việc chém mèo. Không tranh dành thì không có việc chém mèo. Chỉ cần phá bỏ cái nhân ‘tranh giành’ thì cái quả ‘bị chém’ nhất định không xảy ra.

Lòng từ, là thứ hóa giải nạn tai rất nhiều, nhưng ít ai biết được điều đó. Khi chúng ta khởi được tâm thương xót người, thì mọi tranh oán xem như chấm dứt.

Xá Ma là đệ nhất phu nhân của vua Ưu Đà Diên. Bà là tín nữ trung thành của đức Phật và hàng thánh chúng. Bà thường hay thân cận cúng dường đức Như Lai và ca ngợi công đức của ngài hết mực. Ngược lại, đệ nhị phu nhân, vì thiếu trí tuệ nên thường bị lòng ghen ghét chi phối. Bà tâu với vua Ưu Đà Diên rằng:

- Đức Như Lai và hàng đệ tử có chỗ không chánh với phu nhân Xá Ma.

Nhà vua nghe xong, tức giận lấy cung bắn Xá Ma. Phu nhân Xá Ma thương xót vua Ưu Đà Diên, bèn nhập từ tam muội. Mũi tên vừa bắn ra đã quay trở lại dừng ngay giữ trán vua. Mũi tên ấy cháy đỏ như một khối lửa, trong rất dễ sợ. Vua bắn ra ba phát thảy đều như vậy.

Vua Ưu Đà Diên thấy sự việc, lông tóc đều dựng đứng, kinh sợ mà nói với phu nhân Xá Ma :

- Khanh là Tiên nữ hay Long nữ, là Dạ doa hay La sát?

Phu nhân Xá Ma trả lời :

- Thiếp không phải là Tiên nữ cũng không phải Long nữ hay Dạ Xoa La sát mà thiếp là đệ tử của đức Phật. Thiếp nghe đức Phật thuyết pháp, thọ trì 5 giới làm cư sĩ. Vì thương đại vương, thiếp nhập từ tam muội. Dầu đại vương sinh lòng bất thiện với thiếp nhưng do bi nguyện nên thiếp không bị tổn hại.

(Trích Pháp hội vua Ưu Đà Diên – kinh Đại Bửu Tích)

Từ , nghĩa chính của nó là ban vui. Thấy người chưa vui muốn người được vui, thấy người đã vui giúp vui hơn nữa, với kẻ oán địch khởi tâm thương xót không có tâm trả báo v.v… đều là dạng của từ tâm nói đây.

Từ tam muội, là thứ có sẵn trong mỗi người, chỉ do vô minh chi phối mà ta không sử dụng được tâm từ ấy. Bị vô minh chi phối nên làm việc gì cũng mang tính qui ngã, mọi thứ chỉ tập trung cho mình và gia đình, không quan tâm việc ấy tổn hại đến ai. Khi tâm đã qui ngã thì từ tâm cũng mất. Nạn tai cũng theo đó phát sinh.

Một người điện tới hỏi tôi : Em làm ăn thất bại, gặp những việc không hay, làm sao hóa giải?

- Muốn giải quyết chuyện tiền bạc thì phải cúng dường và bố thí. Đó là cái nhân để được sung túc. Kinh dạy, với hàng Sa môn và Bà la môn, nếu đã hứa bố thí cho ai thứ gì thì phải y lời hứa ấy mà làm. Không thì việc làm ăn sẽ thất bại.

Một thời gian sau cô lại điện báo: Em llàm tất cả mọi thứ rồi nhưng không thấy tình thế xoay chuyển.

- Vì chưa đủ duyên. Thành tâm làm nữa đi !

Mội thời gian sau cô lại báo: Tình thế đã không xoay chuyển, lại còn thêm nhiều thứ buồn phiền bất an.

Tôi liền hỏi : Em làm nghề gì ?

- Dạ giám đốc một công ty.

- Em cúng dường bố thí cho Sa môn và người nghèo khó, vậy công nhân của em, em có lo cho họ được đầy đủ?

Cô không trả lời.

Có những thứ rất bình thường nhưng có khi không tỉnh để mà làm.

Có những thứ rất gần, cần phải chu toàn, có khi lại không để ý, cứ vọng đến những chuyện xa xôi.

Bóp chẹt đồng lương của người rồi mang tiền ấy đi cúng chùa cầu phước cho mình, không khác hứng nước vào chậu vỡ. Dù tài lộc có vào rồi cũng sẽ ra đi. Người bị phiền não ức chế thì mình cũng không thể an vui. Cúng dường bố thí kiểu đó, không thể chuyển đi nạn xấu của mình. Bởi mọi thứ vẫn đang trên đường qui ngã, không phải là lực của từ tâm. Phải là lực của từ tâm mới có thể hóa giải nạn tai muộn phiền cho mình. Cho nên, cúng dường bố thí cần có cả từ tâm.

Có từ tâm thì không vì phước riêng của mình mà bóp ngặt người khác.

Có từ tâm thì không lợi dụng chỗ thất thế của người để áp đảo người.

Có từ tâm thì đời sống của mình một trăm, cũng nên cho người được một hai phần. Mình ngồi máy lạnh cũng nên cho người được chiếc quạt máy, không thể hà tiện đến mức không đèn cũng không quạt trong một xó xỉn nóng bức.

Có từ tâm thì không thâm lạm tiền làm thêm của người, không cắt xén những thứ không đáng cắt xét, khiến người thêm nhọc.

Phải là lực của từ tâm, mới chuyển được nghiệp xấu của mình, mới không gây tạo ác nghiệp mới. Phu nhân Xá Ma hiện đời chỉ là một cư sĩ tại gia thọ trì 5 giới, nhưng do dụng được lực từ tâm của chính mình mà cung tên của kẻ sân giận không thể làm hại được. Uy lực của từ tâm là như thế.

Ngày mùng một tết là ngày vía đức Di Lặc. Di Lặc, dịch nghĩa là Từ thị. Vì muốn thành tựu chúng sinh nên từ lúc mới phát tâm ngài đã không ăn thịt. Do nhân duyên đó mà ngài có tên là Từ thị.

Di Lặc, biểu thị cho lòng từ rộng lớn. Đó cũng chính là từ tâm có sẳn trong mỗi chúng sinh. Thành tâm cúng dường Di Lặc đầu năm, không gì bằng khai phát tâm từ của chính mình. Chính là xả đi những gì không vừa lòng, phát huy những gì khiến người vui mà mình cũng vui. Không phải chỉ trong ba ngày đầu xuân mà bất kể lúc nào và bất cứ ở đâu. Xả được đến đâu thì an vui đến đó. Phát huy lòng từ đuợc càng nhiều thì nạn tai càng bớt, hạnh phúc an khang càng tăng. Đó là cái nhân giúp chúng ta được an bình và hạnh phúc trong hiện đời và mai sau.

Sang năm Tân mão, nguyện cho tất cả chúng sinh nói chung, chúng ta nói riêng (dù là trong đạo hay ngoài đạo) đều phát huy được trí tuệ và lòng từ của chính mình để cuộc sống của mình và muôn loài được an vui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2020(Xem: 6018)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
12/07/2020(Xem: 6206)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4631)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8463)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 5828)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 5954)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 17801)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5096)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 5745)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 8860)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567