Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một Giáo Lý Từ Trái Tim

01/11/201017:51(Xem: 4560)
Một Giáo Lý Từ Trái Tim
red_rose_50
MỘT GIÁO LÝ TỪ TRÁI TIM
Tarik Rinpoche- Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

Mặc dù không thể nói nhiều nhưng tôi muốn nói ít lời này. Tulku Urgyen Rinpoche và tôi cùng quê quán ở miền Đông Tây Tạng, nhưng chúng tôi vẫn có vẻ rất xa cách nhau. Vào thời ấy chúng tôi không có phương tiện để tới với kỹ thuật tân tiến. Bởi không có máy bay, không xe lửa, không xe hơi nên mọi người phải đi bộ hay đi ngựa, vì thế một khoảng cách mà ngày nay chúng ta thấy dễ dàng vượt qua bằng phương tiện vận chuyển hiện đại thì vào thời đó nó có vẻ rất dài. Mặc dù dĩ nhiên là chúng tôi có nghe nói về nhau, nhưng mãi tới khi lần đầu tiên tôi tới Thung lũng Kathmandu thì chúng tôi mới bắt đầu có một sự nối kết.

Khi tôi tới Nepal thì Tulku Urgyen Rinpoche đã ở đó. Vì có quen biết ngài, tôi cứ tiếp tục quấy rầy cho tới khi ngài chấp nhận trao truyền cho tôi Một Trăm Quán đảnh Cho với sự thiện tâm. Khi ấy Tulku Urgyen Rinpoche sống ở Kathmandu và vào lúc đó tôi rất nghèo và không thể có món cúng dường đáng kể nào cho sự truyền dạy này. Bởi ngài hết sức tốt lành và chúng tôi cùng xứ sở nên tôi may mắn được nhận tất cả những lễ quán đảnh. Từ đó trở đi chúng tôi đã duy trì một mối liên hệ samaya (hứa nguyện) rất thanh tịnh, không có bất kỳ sự tổn hại hay sao nhãng nào, giống như sự tương đồng của một vỏ trứng không vỡ bể. Bởi Tulku Urgyen Rinpoche là người có thiện tâm vĩ đại và một cảm thức trung thành mạnh mẽ nên khi đã biết rõ người nào thì ngài không bao giờ thay đổi những tình cảm đối với họ.

Về mặt thực hành thì giữa Kinh điển và Tantra, ngài tỏ ra uyên bác về giáo lý Kim Cương thừa hơn, và trong các truyền thống Sarma (Tân Tantra) và Nyingma thì ngài thành tựu trổi vượt hơn trong các thực hành Nyingma. Ngài không phải là người mà bạn có thể dễ dàng hỏi về sự chứng ngộ riêng của ngài. Tôi cũng chưa bao giờ nghe ngài nói rằng ngài đã từng có những kinh nghiệm đặc biệt hay những chứng ngộ cao cấp nào. Nhưng tôi không cảm thấy nghi ngờ gì rằng ngài chắc chắn là một hành giả phi thường. Bất kỳ ai đã gặp ngài đều có thể cảm nhận rằng ngài không tự phụ, không có những tham vọng về sự vĩ đại hay nổi tiếng, cũng không nuôi dưỡng sự oán giận nào. Ngài đối xử với mọi người thật tử tế, chân thành và không bao giờ quay lưng lại với bằng hữu..

Tulku Urgyen Rinpoche cũng không giả dối và hai lòng. Nếu ngài nói một điều gì thì bạn luôn luôn có thể tin rằng lời ngài nói và trái tim ngài chỉ là một. Xưa nay ngài không đạo đức giả, nói một đằng, làm một nẻo. Trong mối quan hệ với mọi người ngài không bao giờ không trung thực và không đáng tin cậy.

Về những mối quan hệ tâm linh, ngài có mối liên hệ với Karmapa, một trong những Lạt Ma quan trọng nhất trong những dòng thực hành vĩ đại. Đức Karmapa thì cùng đẳng cấp với Đức Đạt Lai Lạt Ma, Panchen Rinpoche và Sakya Trichen. Là một trong những guru của Karmapa, Tulku Urgyen Rinpoche đã dâng cho Ngài nhiều lễ quán đảnh và giáo lý từ Chokling Tersar.

Mặc dù ngài là người được Đức Karmapa tôn kính bằng cách quán tưởng trên đỉnh đầu, ngài không coi mình quá quan trọng hay lợi dụng sự nổi tiếng này. Khi ở trong một nhóm Lạt Ma hay ngồi trong một tập hội tôn giáo đông đảo, ngài luôn luôn từ chối việc làm chủ tọa, luôn luôn đòi cho bằng được một vị trí thấp kém. Nhận một chỗ ngồi thấp là một dấu hiệu của việc điều phục được tâm thức, và đây là cách ngài luôn luôn hành xử. Nếu không, bởi ngài là guru của Karmapa nên việc duy trì một sự hiện diện trang nghiêm là điều hoàn toàn hợp lý, nhưng vì là một ngakpa, ngài tự coi mình là thấp kém hơn bất kỳ Lạt Ma hay ngay cả những tu sĩ bình thường hay Tỳ kheo nào khác.

Thực sự khiêm tốn là dấu hiệu của việc có kinh nghiệm và chứng ngộ. Không có kinh nghiệm và chứng ngộ chúng ta trở nên bị dính mắc vào những thái độ thế tục – tự phụ đối với người dưới, ganh tị với người trên và tranh đua với những người ngang bằng ta. Điều này không thể tránh khỏi bởi năm cảm xúc độc hại là tham, sân, si, kiêu ngạo và ganh tị vẫn tồn tại trong dòng tâm thức của ta. Mặc dù một vài người có thể tự tô vẽ là người từ bỏ hay yogi, những cảm xúc tiêu cực này đôi lúc vẫn hiện diện rõ ràng. Tuy nhiên Tulku Urgyen Rinpoche thì hoàn toàn không giống như thế.

Mối liên hệ của chúng tôi là liên hệ của anh em; ngài đối xử với tôi như một người ngang hàng, như thể chúng tôi là anh em ruột. Khi ngài chia sẻ với tôi những điều ngài suy nghĩ thì không bao giờ thiếu sự nhất quán giữa lời nói và những gì ngài thực sự cảm nhận. Điều này không có nghĩa là những Lạt Ma khác thì không đáng tin, nhưng đối với tôi thì như thể Tulku Urgyen Rinpoche là người duy nhất tôi thực sự cảm thấy có thể giao phó và đặt trọn niềm tin. Điều này có thể do bởi tôi là người lạc hậu, hay bởi thời buổi đã thay đổi, nhưng đối với tôi ngài là người chính yếu mà tôi nương tựa.

Con người ấy, bề ngoài thì khiêm tốn trong khi bên trong hoàn toàn có thể tin cậy, giờ đây đã từ bỏ chúng ta. Ở một mặt các bạn có thể nói rằng ngài ra đi sau khi đã hoàn tất mọi công việc của ngài nhưng ở mặt khác có lẽ việc ngài mất đi là bởi tất cả chúng ta thiếu kém công đức.

Còn về tương lai, xin tất cả những vị trì giữ dòng truyền thừa và đệ tử của ngài ghi nhớ điều này: khi đi vào thực hành Kim Cương thừa thì samaya là điều cực kỳ quan trọng. Samaya được hình thành nhờ việc thọ nhận quán đảnh. Có nhiều điều để nói về nó nhưng nói ngắn gọn thì có những samaya của Thân, Ngữ, và Tâm, chúng được bao hàm trong thực hành ba nhánh coi những sắc tướng, âm thanh, và sự tỉnh giác là Thân, Ngữ, và Tâm giác ngộ. Mọi samaya được bao gồm trong điều này, ngay cả 100.000 samaya và 25 samaya chính yếu. Vì thế, xin tuân hành những samaya này hết thức cẩn trọng trong khi duy trì niềm tin bất biến nơi guru của các bạn.

Trong tất cả các thừa Phật Giáo, các bạn được giảng dạy rằng không nên coi vị dẫn dắt tâm linh của các bạn là một người bình thường. Đặc biệt là trong thực hành Kim Cương thừa, mọi sự tùy thuộc vào guru của các bạn; ngài là căn bản của mọi sự thành tựu. Vì thế hãy khẩn cầu ngài một cách chân thành, quán tưởng ngài trong không gian trước mặt, hòa hợp tâm các bạn với tâm ngài không chút phân cách, và thọ nhận bốn quán đảnh. Nhờ làm như thế các bạn sẽ nhanh chóng có kinh nghiệm chứng ngộ và có thể thoáng thấy cái như thị bẩm sinh – Phật tánh nội tại – trong một chốc lát duy nhất. Điều này vẫn đúng ngay cả khi guru không còn tồn tại trong thân tướng của ngài nữa; nếu khẩn cầu ngài các bạn vẫn có thể nhận ra bản tánh của ngài. Vì thế tất cả các bạn – những đệ tử – xin hết sức cẩn trọng trong việc duy trì mối liên hệ samaya với guru.

Hơn nữa, hãy luôn luôn tự nhắc nhở mình những lời mà đích thân các bạn nghe ngài nói và hết sức chú tâm để nhận ra ý nghĩa của chúng. Tóm lại, trong phạm vi học tập, quán chiếu và thiền định, các bạn nên kết hợp những điều các bạn đã nghe, quán chiếu về ý nghĩa của chúng và sau đó đưa chúng vào thực hành – việc làm như thế sẽ đáp ứng được những ước muốn của guru. Nó được gọi là sự cúng dường thực hành, là điều mà những sự cúng dường vật chất hậu hĩ hay to lớn – là những điều cũng tốt đẹp – chẳng bao giờ sánh kịp. Thay vào đó, các bạn nên chuyên chú vào cả lời nói lẫn hành động, với niềm tin bất biến và hãy nhất tâm cầu khẩn ngài. Không có gì siêu việt hơn sự ‘cúng dường thực hành’ này. Xin ghi nhớ rằng đây chính là điều tất cả chúng ta cần có.

Bây giờ đã tới lúc để hỏa thiêu thi hài quý báu của ngài. Thi hài cũng có thể được giữ gìn như một mardung, một thi hài được lưu giữ, hay bằng những phương pháp cũng tốt đẹp khác. Những phương pháp như thế rất cần thiết để ngăn ngừa công đức nói chung không bị suy giảm. Tuy nhiên, chúng ta đang ở trong thời đại mà những biến đổi xảy tới thật nhanh chóng. Hãy nhìn những gì đã xảy ra cho nhiều mardung ở Tây Tạng. Các linh vật này đã bị ném xuống những rãnh nước trong cuộc Cách mạng Văn hóa. Giống như bản thân tôi, những người Tây Tạng thì quỷ quyệt và dối trá, và chúng tôi không khôn lanh như thế. Những người Tây Tạng giúp ném đá vào những mardung khác nhau, kéo lê các mardung qua những đường phố và để cho chó ăn. Theo những cách này họ đã tạo ác nghiệp khủng khiếp. Khi nghĩ về điều này tôi tự hỏi đâu là điều tốt nhất trong tương lai, bởi không có gì tồn tại và thời đại hiện nay cũng có thể thay đổi. Như các bạn biết rằng mọi sự – từ sắc uẩn cho tới và kể cả sự giác ngộ có điều kiện, mọi sự phức hợp không có sự ngoại lệ nào – đều có bản tánh của tánh Không. Tôi có cảm tưởng rằng không có gì trong thế gian này cũng như không có duy nhất một chúng sinh nào có thể thoát khỏi sự kiểm soát của lẽ vô thường. Mọi chúng sinh trải qua sự sinh, lão, bệnh, và tử; không miễn trừ một ai. Cuối cùng, ngay cả toàn thể thế giới cũng sẽ bị lửa và nước hủy diệt. Do đó, tôi cảm thấy rằng tốt hơn là đừng để cho bất kỳ ai có thêm cơ hội tạo ác nghiệp khi thời đại này cũng thay đổi. Tôi cũng đã nói điều này với các con trai của Tulku Urgyen Rinpoche là Chokyi Nyima Rinpoche và Chokling Rinpoche.

Người ta đã quyết định rằng di hài sẽ được hỏa thiêu trong một lễ puja lửa và sau đó tôi hy vọng rằng một buổi lễ trang nghiêm cho các thánh tích sẽ được cử hành, những hình tượng tsa-tsa sẽ được thực hiện, và những stupa (tháp) sẽ được xây ở những nơi khác nhau bằng bất cứ cách thức nào thích hợp.

Có lẽ tôi không cần phải nói tới điều này, nhưng tôi vẫn cảm thấy rằng những con trai của Tulku Urgyen Rinpoche là những người đáng lưu ý. Họ thuộc dòng tộc Tsangsar độc nhất vô nhị được nói là bắt nguồn từ những bậc linh thánh. Trong dòng tộc này đã có rất nhiều Đạo sư thành tựu, phi thường, đáng kính và cao thượng. Tôi hy vọng rằng những con trai của Rinpoche sẽ tiếp nối di sản của họ.

Tất cả các bạn, những đệ tử của Tulku Urgyen Rinpoche, nếu các bạn tiếp tục duy trì mối liên hệ samaya với ngài trong suốt cuộc đời này, trong bardo và đời sau của các bạn thì chắc chắn là các bạn sẽ được lợi lạc. Hãy tuân theo lời chỉ dạy mà ngài đã ban cho các bạn, phụng sự ngài theo bất kỳ phương cách nào các bạn có thể. Không có gì vĩ đại hơn điều này. Nhờ làm guru vui lòng các bạn có thể giải trừ những chướng ngại. Khiến cho guru không hài lòng và khó chịu thì tương tự như vi phạm năm ác hạnh trầm trọng nhất. Giữ gìn mối liên hệ samaya với guru là nền tảng cho việc đạt được những thành tựu. Guru được coi là quan trọng hơn Bổn Tôn và những Hộ Pháp. Lòng sùng mộ đối với guru là thuốc trị bá bệnh cho mọi người.

Nhiều người trong các bạn đã đích thân nghe Tulku Urgyen Rinpoche giảng dạy. Xin hãy tiếp tục tuân theo lời chỉ dạy của ngài và duy trì mối liên hệ samaya. Không có gì tốt hơn điều ấy trong cuộc đời này, trong bardo và đời sau. Hãy hồi hướng công đức các bạn tạo được và lập những lời nguyện thanh tịnh rằng những ước nguyện của ngài sẽ được hoàn thành.

Để biểu thị rằng mọi sự đều vô thường, ngay cả một đấng cao quý siêu phàm như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc siêu vượt sự sinh và tử, đã vẫn hành xử như thể Ngài thị tịch ở Kushinagar (thành Câu thi na). Nhưng đây chỉ là ở bình diện thực tại bề ngoài. Tương tự như thế, Tulku Urgyen Rinpoche an trụ trong Pháp Giới và gần như bắt đầu quay trở lại. Nhưng việc trở lại thì hoàn toàn tùy thuộc vào sự quan tâm và những khuynh hướng của chúng sinh. Vì thế, đừng nghĩ rằng một Đạo sư đã để lại di hài một cách vô cảm, ngoài cõi này ra còn có nhiều cõi giới khác mà chúng sinh ở đó có thể được lợi lạc. Để tạo lập một mối liên kết cho tương lai các bạn cần có vô lượng công đức. Vì thế hãy tận lực tạo công đức và đáp ứng những nguyện ước của ngài. Đây là tất cả những gì tôi có thể nói. Xin mọi người hãy gìn giữ điều này trong tâm.

Tarik Rinpoche

Nguyên tác: “A teaching from the heart Spoken by Tarik Rinpoche”
http://www.dharma-media.org/media/sakya/tarik/a_teaching_from_the_heart.pdf

Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2017(Xem: 7787)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 7421)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 9441)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 4676)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 6749)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 20830)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 12276)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 10793)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 16148)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
10/07/2015(Xem: 6671)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]