Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một Giáo Lý Từ Trái Tim

01/11/201017:51(Xem: 3935)
Một Giáo Lý Từ Trái Tim
red_rose_50
MỘT GIÁO LÝ TỪ TRÁI TIM
Tarik Rinpoche- Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

Mặc dù không thể nói nhiều nhưng tôi muốn nói ít lời này. Tulku Urgyen Rinpoche và tôi cùng quê quán ở miền Đông Tây Tạng, nhưng chúng tôi vẫn có vẻ rất xa cách nhau. Vào thời ấy chúng tôi không có phương tiện để tới với kỹ thuật tân tiến. Bởi không có máy bay, không xe lửa, không xe hơi nên mọi người phải đi bộ hay đi ngựa, vì thế một khoảng cách mà ngày nay chúng ta thấy dễ dàng vượt qua bằng phương tiện vận chuyển hiện đại thì vào thời đó nó có vẻ rất dài. Mặc dù dĩ nhiên là chúng tôi có nghe nói về nhau, nhưng mãi tới khi lần đầu tiên tôi tới Thung lũng Kathmandu thì chúng tôi mới bắt đầu có một sự nối kết.

Khi tôi tới Nepal thì Tulku Urgyen Rinpoche đã ở đó. Vì có quen biết ngài, tôi cứ tiếp tục quấy rầy cho tới khi ngài chấp nhận trao truyền cho tôi Một Trăm Quán đảnh Cho với sự thiện tâm. Khi ấy Tulku Urgyen Rinpoche sống ở Kathmandu và vào lúc đó tôi rất nghèo và không thể có món cúng dường đáng kể nào cho sự truyền dạy này. Bởi ngài hết sức tốt lành và chúng tôi cùng xứ sở nên tôi may mắn được nhận tất cả những lễ quán đảnh. Từ đó trở đi chúng tôi đã duy trì một mối liên hệ samaya (hứa nguyện) rất thanh tịnh, không có bất kỳ sự tổn hại hay sao nhãng nào, giống như sự tương đồng của một vỏ trứng không vỡ bể. Bởi Tulku Urgyen Rinpoche là người có thiện tâm vĩ đại và một cảm thức trung thành mạnh mẽ nên khi đã biết rõ người nào thì ngài không bao giờ thay đổi những tình cảm đối với họ.

Về mặt thực hành thì giữa Kinh điển và Tantra, ngài tỏ ra uyên bác về giáo lý Kim Cương thừa hơn, và trong các truyền thống Sarma (Tân Tantra) và Nyingma thì ngài thành tựu trổi vượt hơn trong các thực hành Nyingma. Ngài không phải là người mà bạn có thể dễ dàng hỏi về sự chứng ngộ riêng của ngài. Tôi cũng chưa bao giờ nghe ngài nói rằng ngài đã từng có những kinh nghiệm đặc biệt hay những chứng ngộ cao cấp nào. Nhưng tôi không cảm thấy nghi ngờ gì rằng ngài chắc chắn là một hành giả phi thường. Bất kỳ ai đã gặp ngài đều có thể cảm nhận rằng ngài không tự phụ, không có những tham vọng về sự vĩ đại hay nổi tiếng, cũng không nuôi dưỡng sự oán giận nào. Ngài đối xử với mọi người thật tử tế, chân thành và không bao giờ quay lưng lại với bằng hữu..

Tulku Urgyen Rinpoche cũng không giả dối và hai lòng. Nếu ngài nói một điều gì thì bạn luôn luôn có thể tin rằng lời ngài nói và trái tim ngài chỉ là một. Xưa nay ngài không đạo đức giả, nói một đằng, làm một nẻo. Trong mối quan hệ với mọi người ngài không bao giờ không trung thực và không đáng tin cậy.

Về những mối quan hệ tâm linh, ngài có mối liên hệ với Karmapa, một trong những Lạt Ma quan trọng nhất trong những dòng thực hành vĩ đại. Đức Karmapa thì cùng đẳng cấp với Đức Đạt Lai Lạt Ma, Panchen Rinpoche và Sakya Trichen. Là một trong những guru của Karmapa, Tulku Urgyen Rinpoche đã dâng cho Ngài nhiều lễ quán đảnh và giáo lý từ Chokling Tersar.

Mặc dù ngài là người được Đức Karmapa tôn kính bằng cách quán tưởng trên đỉnh đầu, ngài không coi mình quá quan trọng hay lợi dụng sự nổi tiếng này. Khi ở trong một nhóm Lạt Ma hay ngồi trong một tập hội tôn giáo đông đảo, ngài luôn luôn từ chối việc làm chủ tọa, luôn luôn đòi cho bằng được một vị trí thấp kém. Nhận một chỗ ngồi thấp là một dấu hiệu của việc điều phục được tâm thức, và đây là cách ngài luôn luôn hành xử. Nếu không, bởi ngài là guru của Karmapa nên việc duy trì một sự hiện diện trang nghiêm là điều hoàn toàn hợp lý, nhưng vì là một ngakpa, ngài tự coi mình là thấp kém hơn bất kỳ Lạt Ma hay ngay cả những tu sĩ bình thường hay Tỳ kheo nào khác.

Thực sự khiêm tốn là dấu hiệu của việc có kinh nghiệm và chứng ngộ. Không có kinh nghiệm và chứng ngộ chúng ta trở nên bị dính mắc vào những thái độ thế tục – tự phụ đối với người dưới, ganh tị với người trên và tranh đua với những người ngang bằng ta. Điều này không thể tránh khỏi bởi năm cảm xúc độc hại là tham, sân, si, kiêu ngạo và ganh tị vẫn tồn tại trong dòng tâm thức của ta. Mặc dù một vài người có thể tự tô vẽ là người từ bỏ hay yogi, những cảm xúc tiêu cực này đôi lúc vẫn hiện diện rõ ràng. Tuy nhiên Tulku Urgyen Rinpoche thì hoàn toàn không giống như thế.

Mối liên hệ của chúng tôi là liên hệ của anh em; ngài đối xử với tôi như một người ngang hàng, như thể chúng tôi là anh em ruột. Khi ngài chia sẻ với tôi những điều ngài suy nghĩ thì không bao giờ thiếu sự nhất quán giữa lời nói và những gì ngài thực sự cảm nhận. Điều này không có nghĩa là những Lạt Ma khác thì không đáng tin, nhưng đối với tôi thì như thể Tulku Urgyen Rinpoche là người duy nhất tôi thực sự cảm thấy có thể giao phó và đặt trọn niềm tin. Điều này có thể do bởi tôi là người lạc hậu, hay bởi thời buổi đã thay đổi, nhưng đối với tôi ngài là người chính yếu mà tôi nương tựa.

Con người ấy, bề ngoài thì khiêm tốn trong khi bên trong hoàn toàn có thể tin cậy, giờ đây đã từ bỏ chúng ta. Ở một mặt các bạn có thể nói rằng ngài ra đi sau khi đã hoàn tất mọi công việc của ngài nhưng ở mặt khác có lẽ việc ngài mất đi là bởi tất cả chúng ta thiếu kém công đức.

Còn về tương lai, xin tất cả những vị trì giữ dòng truyền thừa và đệ tử của ngài ghi nhớ điều này: khi đi vào thực hành Kim Cương thừa thì samaya là điều cực kỳ quan trọng. Samaya được hình thành nhờ việc thọ nhận quán đảnh. Có nhiều điều để nói về nó nhưng nói ngắn gọn thì có những samaya của Thân, Ngữ, và Tâm, chúng được bao hàm trong thực hành ba nhánh coi những sắc tướng, âm thanh, và sự tỉnh giác là Thân, Ngữ, và Tâm giác ngộ. Mọi samaya được bao gồm trong điều này, ngay cả 100.000 samaya và 25 samaya chính yếu. Vì thế, xin tuân hành những samaya này hết thức cẩn trọng trong khi duy trì niềm tin bất biến nơi guru của các bạn.

Trong tất cả các thừa Phật Giáo, các bạn được giảng dạy rằng không nên coi vị dẫn dắt tâm linh của các bạn là một người bình thường. Đặc biệt là trong thực hành Kim Cương thừa, mọi sự tùy thuộc vào guru của các bạn; ngài là căn bản của mọi sự thành tựu. Vì thế hãy khẩn cầu ngài một cách chân thành, quán tưởng ngài trong không gian trước mặt, hòa hợp tâm các bạn với tâm ngài không chút phân cách, và thọ nhận bốn quán đảnh. Nhờ làm như thế các bạn sẽ nhanh chóng có kinh nghiệm chứng ngộ và có thể thoáng thấy cái như thị bẩm sinh – Phật tánh nội tại – trong một chốc lát duy nhất. Điều này vẫn đúng ngay cả khi guru không còn tồn tại trong thân tướng của ngài nữa; nếu khẩn cầu ngài các bạn vẫn có thể nhận ra bản tánh của ngài. Vì thế tất cả các bạn – những đệ tử – xin hết sức cẩn trọng trong việc duy trì mối liên hệ samaya với guru.

Hơn nữa, hãy luôn luôn tự nhắc nhở mình những lời mà đích thân các bạn nghe ngài nói và hết sức chú tâm để nhận ra ý nghĩa của chúng. Tóm lại, trong phạm vi học tập, quán chiếu và thiền định, các bạn nên kết hợp những điều các bạn đã nghe, quán chiếu về ý nghĩa của chúng và sau đó đưa chúng vào thực hành – việc làm như thế sẽ đáp ứng được những ước muốn của guru. Nó được gọi là sự cúng dường thực hành, là điều mà những sự cúng dường vật chất hậu hĩ hay to lớn – là những điều cũng tốt đẹp – chẳng bao giờ sánh kịp. Thay vào đó, các bạn nên chuyên chú vào cả lời nói lẫn hành động, với niềm tin bất biến và hãy nhất tâm cầu khẩn ngài. Không có gì siêu việt hơn sự ‘cúng dường thực hành’ này. Xin ghi nhớ rằng đây chính là điều tất cả chúng ta cần có.

Bây giờ đã tới lúc để hỏa thiêu thi hài quý báu của ngài. Thi hài cũng có thể được giữ gìn như một mardung, một thi hài được lưu giữ, hay bằng những phương pháp cũng tốt đẹp khác. Những phương pháp như thế rất cần thiết để ngăn ngừa công đức nói chung không bị suy giảm. Tuy nhiên, chúng ta đang ở trong thời đại mà những biến đổi xảy tới thật nhanh chóng. Hãy nhìn những gì đã xảy ra cho nhiều mardung ở Tây Tạng. Các linh vật này đã bị ném xuống những rãnh nước trong cuộc Cách mạng Văn hóa. Giống như bản thân tôi, những người Tây Tạng thì quỷ quyệt và dối trá, và chúng tôi không khôn lanh như thế. Những người Tây Tạng giúp ném đá vào những mardung khác nhau, kéo lê các mardung qua những đường phố và để cho chó ăn. Theo những cách này họ đã tạo ác nghiệp khủng khiếp. Khi nghĩ về điều này tôi tự hỏi đâu là điều tốt nhất trong tương lai, bởi không có gì tồn tại và thời đại hiện nay cũng có thể thay đổi. Như các bạn biết rằng mọi sự – từ sắc uẩn cho tới và kể cả sự giác ngộ có điều kiện, mọi sự phức hợp không có sự ngoại lệ nào – đều có bản tánh của tánh Không. Tôi có cảm tưởng rằng không có gì trong thế gian này cũng như không có duy nhất một chúng sinh nào có thể thoát khỏi sự kiểm soát của lẽ vô thường. Mọi chúng sinh trải qua sự sinh, lão, bệnh, và tử; không miễn trừ một ai. Cuối cùng, ngay cả toàn thể thế giới cũng sẽ bị lửa và nước hủy diệt. Do đó, tôi cảm thấy rằng tốt hơn là đừng để cho bất kỳ ai có thêm cơ hội tạo ác nghiệp khi thời đại này cũng thay đổi. Tôi cũng đã nói điều này với các con trai của Tulku Urgyen Rinpoche là Chokyi Nyima Rinpoche và Chokling Rinpoche.

Người ta đã quyết định rằng di hài sẽ được hỏa thiêu trong một lễ puja lửa và sau đó tôi hy vọng rằng một buổi lễ trang nghiêm cho các thánh tích sẽ được cử hành, những hình tượng tsa-tsa sẽ được thực hiện, và những stupa (tháp) sẽ được xây ở những nơi khác nhau bằng bất cứ cách thức nào thích hợp.

Có lẽ tôi không cần phải nói tới điều này, nhưng tôi vẫn cảm thấy rằng những con trai của Tulku Urgyen Rinpoche là những người đáng lưu ý. Họ thuộc dòng tộc Tsangsar độc nhất vô nhị được nói là bắt nguồn từ những bậc linh thánh. Trong dòng tộc này đã có rất nhiều Đạo sư thành tựu, phi thường, đáng kính và cao thượng. Tôi hy vọng rằng những con trai của Rinpoche sẽ tiếp nối di sản của họ.

Tất cả các bạn, những đệ tử của Tulku Urgyen Rinpoche, nếu các bạn tiếp tục duy trì mối liên hệ samaya với ngài trong suốt cuộc đời này, trong bardo và đời sau của các bạn thì chắc chắn là các bạn sẽ được lợi lạc. Hãy tuân theo lời chỉ dạy mà ngài đã ban cho các bạn, phụng sự ngài theo bất kỳ phương cách nào các bạn có thể. Không có gì vĩ đại hơn điều này. Nhờ làm guru vui lòng các bạn có thể giải trừ những chướng ngại. Khiến cho guru không hài lòng và khó chịu thì tương tự như vi phạm năm ác hạnh trầm trọng nhất. Giữ gìn mối liên hệ samaya với guru là nền tảng cho việc đạt được những thành tựu. Guru được coi là quan trọng hơn Bổn Tôn và những Hộ Pháp. Lòng sùng mộ đối với guru là thuốc trị bá bệnh cho mọi người.

Nhiều người trong các bạn đã đích thân nghe Tulku Urgyen Rinpoche giảng dạy. Xin hãy tiếp tục tuân theo lời chỉ dạy của ngài và duy trì mối liên hệ samaya. Không có gì tốt hơn điều ấy trong cuộc đời này, trong bardo và đời sau. Hãy hồi hướng công đức các bạn tạo được và lập những lời nguyện thanh tịnh rằng những ước nguyện của ngài sẽ được hoàn thành.

Để biểu thị rằng mọi sự đều vô thường, ngay cả một đấng cao quý siêu phàm như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc siêu vượt sự sinh và tử, đã vẫn hành xử như thể Ngài thị tịch ở Kushinagar (thành Câu thi na). Nhưng đây chỉ là ở bình diện thực tại bề ngoài. Tương tự như thế, Tulku Urgyen Rinpoche an trụ trong Pháp Giới và gần như bắt đầu quay trở lại. Nhưng việc trở lại thì hoàn toàn tùy thuộc vào sự quan tâm và những khuynh hướng của chúng sinh. Vì thế, đừng nghĩ rằng một Đạo sư đã để lại di hài một cách vô cảm, ngoài cõi này ra còn có nhiều cõi giới khác mà chúng sinh ở đó có thể được lợi lạc. Để tạo lập một mối liên kết cho tương lai các bạn cần có vô lượng công đức. Vì thế hãy tận lực tạo công đức và đáp ứng những nguyện ước của ngài. Đây là tất cả những gì tôi có thể nói. Xin mọi người hãy gìn giữ điều này trong tâm.

Tarik Rinpoche

Nguyên tác: “A teaching from the heart Spoken by Tarik Rinpoche”
http://www.dharma-media.org/media/sakya/tarik/a_teaching_from_the_heart.pdf

Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/08/2014(Xem: 11135)
Chưa ai thực thụ hay đã “định cư„ Cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà để biết thế nào rồi...hiện hồn về kể cho chúng ta nghe. Thế nhưng bấy lâu, dựa theo kinh sách và óc tưởng tượng của mọi người đều phác họa một cảnh giới cực lạc đầy hoa thơm cỏ lạ, suối róc rách reo, chim muông ca hót, mây lững lờ trôi, gió vi vu thổi, rừng cây sum sê ăn trái, núi bốc hương thơm, sông hồ cá lững lờ lội, và cả châu báu kim cương, mã não, hổ phách…đầy đường đầy nhà muốn lúc nào cũng có…!
26/05/2014(Xem: 5562)
Tha lực theo nghĩa hẹp là lực tác động từ bên ngoài. Trong Phật giáo, tha lực là Phật lực hoặc Thánh lực (Bồ Tát) được tác ý làm cho nhân tốt trổ quả hoặc tạo nhân quả tốt cho chúng sanh hữu tình vì lòng bi mẫn của Đấng Thiện Thệ. Qua phương pháp phân tích văn bản đối chiếu hai nguồn Kinh tạng: Pali Tạng (Tạng kinh của Phật Giáo Nguyên Thủy) và Hán Tạng (Tạng kinh của Phật Giáo Đại Thừa). Bài tiểu luận này mổ xẻ hai chủ đề chính: tính tương đồng và logic giữa hai nguồn kinh tạng về tha lực.
14/05/2014(Xem: 5838)
1.1 Khái niệm về pháp niệm Phật và cảnh giới Tịnh Độ 1.2 Niệm Phật trong kinh điển Hán tạng và Nikaya 2.1 Ngài Huệ Viễn và pháp môn niệm Phật 2.2 Bốn cách niệm Phật của ngài Tông Mật (784-841) 2.3 Năm phương diện niệm Phật của Trí Giả Đại Sư 3.1 Vài suy nghĩ về pháp tu niệm Phật trong xã hội hiện đại 3.2 Tính chất giải thoát từ pháp môn Niệm Phật 3.3 Niệm Phật và lý tưởng Nhân Gian Tịnh Độ 4. Kết luận
13/04/2014(Xem: 9170)
Bối cảnh lịch sử của Phật giáo trước sự ra đời của phương pháp Thiền Tịnh song tu Trên phương diện Phật giáo sử, dễ dàng nhận thấy Thiền Tông và Tịnh Độ Tông xuất hiện trong khoảng thời gian trước và sau đời Tùy-Đường[1]; từ đó pháp niệm Phật Thiền hình thành và liên quan sự phát triển pháp Thiền Tịnh Song Tu. Vấn đề này, trước tiên cần tìm hiểu về ý nghĩa niệm Phật trong kinh điển Phật giáo Nguyên Thủy, cụ thể trong kinh A Hàm, kinh tạp A Hàm, kinh Tăng Chi và trong kinh điển Đại Thừa. Thời Phật tại thế đã dạy đệ tử xuất gia, tại gia về phương pháp niệm Phật như là phương thức quán niệm hỗ trợ cho pháp thiền định, bảo hộ đời sống an lành, đối trị mọi phiền não.
15/03/2014(Xem: 7376)
Tất cả chúng ta đều thấy rõ sự phổ biến về thực tập thiền quán trong xã hội đương thời bất chấp sự hội nhập tôn giáo. Mặc dù thiền quán có một vị trí nổi bật trong việc thực tập của Phật Giáo từ lúc khởi đầu của nó, nhưng Thân Loan đã phủ nhận sự thực tập của tự lực (tự cố gắng) và đối lập đến niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà như con đường để giác ngộ.
10/02/2014(Xem: 8069)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc
03/02/2014(Xem: 6543)
* Con người sống trên đời cần nên tạo phước đức Là người Phật tử, tôi biết được một sự thật là tiền tài, quyền lực, địa vị, danh vọng không thể che chở cho con mình mỗi khi gặp tai họa mà chỉ có phước đức, công đức mới là chiếc áo giáp vô hình chắc chắn khiến cho con
26/12/2013(Xem: 10396)
Thí dụ như có người ở nơi đồng vắng bị giặc cướp cầm gươm rượt theo muốn giết (dụ cho sanh tử, vô thường, không tha mạng sống). Người đó sợ hải quá, cắm đầu chạy riết, đến chỗ gặp một con sông chắn ngang qua (con sông sanh tử. Bờ bên này là sanh tử ngạn, bờ bên kia là giải thoát ngạn). Người ấy vừa chạy trốn vừa thoáng nghĩ trong đầu rằng - Nếu ta lội qua khỏi được con sông này, đến B
19/12/2013(Xem: 20080)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
17/12/2013(Xem: 12616)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránh và đề phòng không kịp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567