Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tột Cùng Của Luân Hồi Là Khổ Đau - Tột Đỉnh Của Phật Pháp Là An Lạc

24/09/201007:25(Xem: 4513)
Tột Cùng Của Luân Hồi Là Khổ Đau - Tột Đỉnh Của Phật Pháp Là An Lạc
TỘT CÙNG CỦA LUÂN HỒI LÀ KHỔ ĐAU
TỘT ĐỈNH CỦA PHẬT PHÁP LÀ AN LẠC

Nguyên tác: - The Endpoint of Samsara Is Suffering, The Endpoint of Dharma Is Happiness
Tác giả: Tsenzhab Serkong Rinpoche I, Longueuil, Quebec, Canada, August 19, 1980
Anh dịch: Alexander Berzin - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển, 13/08/2010

Tất cả chúng sinh mong ước được vui vẻ, không ai mong cầu buồn rầu. Phật Pháp dạy những phương pháp để xa lánh khổ đau và đạt đến an lạc. Phật Pháp mà chúng ta thực tập là, nói một cách chữ nghĩa, là điều gì đấy ôm ấp chúng ta. Điều này có thể được giải thích trong nhiều cách. Nó ôm ấp chúng ta khỏi khổ đau và ôm ấp tất cả những nguồn cội của an lạc.

An lạc có thể hoặc là thân thể hay tinh thần. Cũng có hai loại khổ đau: thân thể và tinh thần. Nhiều người trong chúng ta, mặc dù chúng ta mong ước đạt đến an lạc, nhưng chúng ta mê mờ về những phương pháp để đạt đến điều này. Những phương pháp mà chúng ta sử dụng đưa chúng ta đến khổ đau.

Một số người trộm cắp và giết chóc để nuôi sống họ. Họ nghĩ điều này sẽ mang hạnh phúc đến cho họ. Thật sự thì không như thế. Có nhiều người khác cố gắng để đạt đến hạnh phúc bằng việc làm một người buôn bán, làm ruộng rẫy, và v.v…, trong khuôn khổ của luật pháp quốc gia. Nhiều người trở nên rất giàu có và nổi tiếng qua những phương pháp như thế. Loại hạnh phúc này là không là điều gì đấy sẽ còn mãi; nó không là niềm an lạc căn bản. Không kể là hạnh phúc hay tài sản vật chất mà chúng ta có nhiều như thế nào, chúng ta sẽ không bao giờ hài lòng rằng chúng ta có đủ. Ngay cả chúng ta sở hữu toàn bộ một quốc gia, nhưng chúng ta vẫn muốn thêm nữa.

Hành động mà chúng ta làm để đạt được hạnh phúc không bao giờ chấm dứt. Chúng ta cố gắng rão quanh bằng những phương tiện nhanh nhất mà chúng ta có, xe cộ, v.v… loại theo đuổi này không bao giờ chấm dứt. Đó là tại sao mà người ta nói vòng luân hồi tồn tại bất tận, nó chỉ đi vòng qua vòng lại. Tất cả chúng ta có thể thông hiểu điều này: những sự theo đuổi trần gian là không bao giờ chấm dứt.

Một bông hoa tươi đẹp khi mới, héo tàn khi cũ. Bất chấp những gì chúng ta đạt được trong cuộc đời này, nó sẽ đi đến chấm dứt. Nó sẽ đi đến sự chấm hết khi thời gian trôi đi và trôi mãi, đến cuối cuộc đời của chúng ta là lúc mà chúng ta có sự khổ đau tột cùng. Thí dụ, xe hơi. Quý vị đi ngang qua một bãi xe cũ, nơi mà những chiếc xe cũ bị bỏ đi. Đây là sự chấm dứt sau cùng, trong tình trạng nơi mà mọi thứ bị biến thành rác. Ngay cả khi chiếc xe còn sử dụng tốt, chúng ta đã lo lắng về điều này. Chúng ta lo lắng rằng những bộ phận của nó bị hư hao, thuế vụ và bảo hiểm phải trả định kỳ v.v và v.v… Chúng ta có thể mở rộng thí dụ này đến tất cả những sở hữu vật chất. Càng có nhiều về những thứ ấy, chúng ta càng lo lắng về chúng.

Phật Pháp dạy chúng ta phương pháp để đem đến niềm an lạc tinh thần. Để đạt đến một loại hạnh phúc tâm linh nào đấy, chúng ta không cần phải hành động với thân thể vật lý: chúng ta cần hành động với tâm thức chúng ta. Tuy thế, tâm thức có một dòng suối tương tục dài lâu, thậm chí trong những kiếp sống tương lai, và từ những đời sống trong quá khứ. Mỗi kiếp sống, chúng ta có một thân thể và chúng ta cố gắng để tiếp nhận hạnh phúc cho thân thể ấy, nhưng vào lúc chết tâm thức bỏ đi. Vì thế hạnh phúc chúng ta cần mong ước cho nó không chỉ là niềm hạnh phúc rộng lớn, vững vàng, mà cũng phải kéo dài cho đến tất cả những đời sống tương lai và nó không bị gián đoạn trong sự tương tục của nó.

Không kể loại hành động nào mà chúng ta thực hiện, tích cực xây dựng hay không đi nữa, đó không phải là Phật Pháp, nhưng những hành vi tích cực mà nó hoàn thành vì lợi ích cho những đời sống tương lai,thì đó là Phật Pháp.

Hạnh phúc hay bất hạnh đến từ những hành vi của chúng ta. Liên hệ đến những hành vi nghiệp nhân này, hành vi tiêu cực mang đến kết quả khổ đau và hành vi tích cực đem đến kết quả hạnh phúc. Bất cứ điều gì chúng ta có thể làm tốt trong kiếp sống này, gieo trồng trên những lĩnh vực, những dự án, và v.v…, điều này là kết quả của những hành vi tích cực mà chúng ta đã làm trong những kiếp sống trước. Nếu chúng ta bệnh hoạn, hay nếu chúng ta không vui hay có những đời sống ngắn ngủi, đây là kết quả của những hành vi tiêu cực mà chúng ta đã làm trong quá khứ.

Thí dụ, có hai người buôn bán, một thành công và một không thành công. Đây là qua nghiệp báo của kiếp trước. Chúng ta có thể thấy hai thương gia, một làm rất hăng say cực nhọc và không thành công trong khi người kia không làm việc năng nổ nhưng rất thành công. Một thí dụ khác, nếu quý vị giết hại chúng sinh, quý vị sẽ có một đời sống yểu mạng và bệnh hoạn. Quý vị có thể hỏi Geshe-la [1]của quý vị ở đây về tất cả những điều này.

Nếu quý vị hạn chế mình khỏi vi phạm những hành vi tiêu cực này, quý vị sẽ không bị sinh vào những cảnh giới thấp, nhưng như một con người hay trong cảnh giới chư thiên. Nhưng ngay cả nếu quý vị sinh ra như một con người hay một vị thiên thần, điều này cũng không mang đến niềm hạnh phúc thiết yếu – vì tất cả đều ở trong bản chất tự nhiên của khổ đau. Tại sao điều này là như thế? Nếu quý vị đạt đến một vị thế cao, quý vị rơi xuống một chỗ thấp; nếu quý vị ở trong vị trí thấp, quý vị vươn lên một vị trí cao hơn. Vì điều này, nên sẽ có một sự đối diện vô cùng với đau khổ. Thí dụ, nếu quý vị đói, quý vị ăn vào; nhưng nếu quý vị ăn quá nhiều, rồi thì quý vị bị bệnh. Nếu quý vị lạnh, quý vị mở máy sưởi và rồi thì quá nóng; quý vị phải hạ nhiệt độ xuống. Có tất cả mọi loại khổ đau như vậy.

Samara, luân hồi (sự hiện hữu tái diễn không thể kiểm soát) bao hàm những loại khổ đau này. Nó là kết quả của nghiệp báo và những loại cảm xúc và thái độ phiền não khác nhau. Chúng ta cần phát triển tuệ trí tỉnh thức về tính không hay vô phân biệt.

Chúng ta có thể thấy, những thí dụ về những ai tiếp cận sự chấm dứt vòng luân hồi sinh tử của họ, mười sáu vị a la hán và những tôn giả khác những người đạt được thể trạng này. Mặc dù chúng ta có thể đặt để sự chấm dứt vòng tồn tại luân hồi của chính chúng ta, nhưng chỉ làm điều này thì không đủ (tự lợi), bởi vì không ai tử tế đối với chúng ta hơn tất cả vô lượng chúng sinh. Thực phẩm hằng ngày đến từ những con vật dễ thương. Nếu chúng ta thụ hưởng thịt, điều này đến từ những con vật bị giết trong khi vẫn còn khỏe mạnh. Vào mùa đông, chúng ta mặc áo ấm và len sợi, là những thứ đến từ những con vật. Chúng thật là tốtlành đã cung cấp những điều này cho chúng ta. Chúng ta cần phải đền trả những sự tử tế của tất cả chúng sinh bằng việc đạt đến thể trạng Phật quả cho chính mình – rồi thì chúng ta có thể hoàn thành những khuynh hướng hổ trợ tất cả chúng sinh vô lượng.

Bích chi Phật và A la hán không thể hoàn thành tất cả những mục tiêu [vì các ngài] như những chúng sinh hạn chế. Chỉ duy nhất một bậc có thể làm điều ấy, đấy là một vị Phật, và vì điều này là những gì chúng ta phải hành động nhằm để giúp đở họ một cách thật sự. Chúng ta cần phải trở thành những vị Phật cho chính chúng ta.

Làm thế nào chúng ta có thể làm điều này? Bằng việc theo đuổi Phật Pháp. Ở Ấn Độ, có những bậc đại thành tựu cao thượng (mahasiddhas) chúng ta có những câu chuyện về cuộc đời của mười tám vị ấy, nhưng thật sự có vô số các vị như thế. Các ngài đạt đến giác ngộ ngay trong đời sống của các ngài. Ở Tây Tạng, có thí dụ về Milarepa, và nhiều vị đại đạo sư khác từ các trường phái Kagyu, Nyingma, Sakya, và Gelugpa.

Một khi chúng ta đạt đến thể trạng của một vị Phật, những nổ lực [cố gắng] về [việc thực hành] Giáo Pháp đi đến chỗ chấm dứt [vì đã đến chỗ vô công dụng hạnh]. Những hành vi chúng ta thực hiện trong Giáo Pháp rất khó khăn vào lúc đầu, nhưng nó sẽ dễ dàng hơn và dễ dàng hơn, và chúng ta trở nên hạnh phúc hơn và an lạc hơn khi chúng ta tiến bộ. Chúng ta hoàn thành hiện thực Giáo Pháp trong một thể trạng hoàn toàn an lạc (một khi đã thực chứng). Việc làm trần tục đưa khổ đau hơn đến cho chúng ta.

Thí dụ, khi người ta chết, đời sống của họ tiếp cận chỗ cuối cùng hay điểm tột cùng trong sự chết chỉ làm cho buồn rầu và đau khổ, không chỉ riêng cho chính họ, mà cũng đến những ai họ bỏ lại, thí dụ trong đám tang của họ. Chúng ta cần nghĩ về điều này và thực hiện một loại pháp hành nào đấy. Tiếp cận giây phút lâm chung, phút cuối của cuộc đời trong Phật Pháp với sự đạt đến giác ngộ chỉ đem đến an lạc, không chỉ cho chúng ta mà cũng cho những người khác.

Chúng ta cần hạn chế mình khỏi những việc làm mười điều bất thiện. Nếu chúng ta làm những hành vi tích cực, chúng ta trãi nghiệm hạnh phúc, nếu chúng ta làm việc tiêu cực, chúng ta trãi qua đau buồn. Chúng ta cần thẩm tra kết quả của những hành động của chúng ta và chúng ta cần thẩm tra tâm thức của chính chúng ta như nguyên nhân của những hành của chúng ta. Khi chúng ta thẩm tra, chúng ta thấy chúng ta có ba loại cảm xúc và thái độ độc hại: tham luyến, sân hận, và tâm thức vô minh đóng kín (ngu muội).

Từ những điều này, chúng ta có tám mươi bốn nghìn loại xúc cảm và thái độ phiền não. Tám mươi bốn nghìn vọng tưởng này là những kẻ thù chính yếu của chúng ta, vì thế nhìn vào bên trong, chứ không phải chung quanh chúng ta, [để thấy] những kẻ thù của chúng ta. Trong tám mươi bốn nghìn thứ này, những thứ chính là ba loại thuốc độc ấy, và thứ độc hại nhất là tâm vô minh đóng kín hay ngu muội, ngay trong dòng suối tâm của chính chúng ta.

Tóm lại, chúng ta cần nhìn vào bên trong chính chúng ta và cố gắng diệt tận những kẻ thù nội tại này. Đó là tại sao những thành viên của Phật Pháp được gọi là “người trong cuộc” (insider), bởi vì họ luôn luôn nhìn vào bên trong [ và vì ngoại đạo còn có nghĩa là những người theo đuổi những pháp ngoải tâm]. Nếu chúng ta chấm dứt những cảm xúc và thái độ phiền não này trong dòng tương tục tinh thần của tâm thức,thì sau đó chúng ta sẽ chấm dứt tất cả những khổ đau của chúng ta. Một người hành động để làm điều này được biết như một thành viên của Phật Pháp [hay một Phật tử đúng nghĩa thật sự].

Hành vi Phật Pháp của người nào đó thực hiện để loại trừ những cảm xúc và thái độ phiền não chỉ bên trong của riêng người ấy là hành vi Phật Pháp của cổ xe nhỏ hay tiểu thừa. Nếu chúng ta hành động để loại trừ vọng tưởng của chúng ta chỉ để xa lìa khổ đau của chính chúng ta, nhưng thấy người khác là quan trọng hơn và cố gắng để vượt thắng vọng tưởng của chúng ta vì thế chúng ta cũng có thể giúp họ tiêu trừ những xúc cảm và thái độ phiền não trong tâm thức họ, thế thì sau đó chúng ta là những hành giả Đại Thừa. Trên sự hành hoạt căn bản của thân thể này, chúng ta cần cố gắng để trở thành những hành giả Đại Thừa, và kết quả là chúng ta có thể đạt đến thể trạng giác ngộ của một vị Phật.

Điềm chính là luôn luôn cố gắng để làm lợi ích cho mọi người và không bao giờ làm tổn hại đến bất cứ người nào. “Án Ma Ni Bát Di Hông” (OM MANI PADME HUM), quý vị cần suy nghĩ, “Nguyện cho năng lực tích cực làm cho lợi ích này đến tất cả chúng sinh .”

Thân thể này chúng ta có như một căn bản hoạt động của chúng ta là rất khó khăn để đạt được: được sinh làm thân người là không dễ dàng để có được (nhân thân nan đắc). Thí dụ, hãy nhìn vào địa cầu. Phần lớn là đại dương, và hãy nghĩ có bao nhiêu con cá có trong những đại dương này. Số lượng lớn nhất của sự sống là thú vật và côn trùng. Nếu chúng ta nghĩ về toàn thể hành tinh và con số của thú vật và côn trùng có, chúng ta sẽ thấy sự hiếm hoi để được sinh ra như một con người.

Trong Phật Pháp, thân chứng và tuệ giác nội quán đến một cách rất chậm chạp. Không chỉ trong một vài ngày, vài tuần, hay vài tháng. Chỉ một số thậm chí rất ít con người thật sự nghĩ về Phật Pháp, chỉ riêng quán chiếu để thân chứng. Chúng ta cần hành động một cách liên tục trong một thời gian dài. Quý vị có một vị tiến sĩ Phật học phẩm hạnh ở đây, người có thể trả lời tất cả những câu hỏi của quý vị. Về đường dài, Phật Pháp tiếp tục sẽ lớn mạnh và truyền bá phổ biến rộng rãi. Nó đang phát triền và rất sống động. Khi Đức Phật lần đầu tiên giảng dạy, Ngài chỉ có năm đệ tử. Phật Pháp đã được truyền bá từ những vị này, và bây giờ được hiện diện đến một sự mở rộng vô cùng như thế trên thế giới.

Quý vị bây giờ có cùng phẩm chất của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, Đức Đạt Lai Lạt Ma, người sẽ đến đây trong tháng Mười. Bất cứ điều gì Đức Đạt Lai Lạt Ma ban cho quý vị, hãy đem vào trái tim và thực tập chúng một cách chân thành. Căn bản của giáo huấn là không bao giờ tổn hại bất cứ một tạo vật nào và không làm tổn thương tư tưởng – hay cố gắng để làm lợi ích với chúng. Đây là điểm chính. Nếu quý vị hành động như thế này, nó sẽ mang đến những lợi lạc vô cùng trong tương lai.

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level1_getting_started/general_introductory_material/endpoint_samsara_suffering_dharma_happiness.html


[1]Geshe học vị tương đương tiến sĩ Phật học. Geshe-la, tiếp vĩ ngữ "La" đặt sau tên gọi hay danh hiệu Geshe là để bày tỏ lòng quý trọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2020(Xem: 5982)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
12/07/2020(Xem: 6135)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4597)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8394)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 5801)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 5904)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 17709)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5063)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 5696)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 8776)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567