Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tột Cùng Của Luân Hồi Là Khổ Đau - Tột Đỉnh Của Phật Pháp Là An Lạc

24/09/201007:25(Xem: 4535)
Tột Cùng Của Luân Hồi Là Khổ Đau - Tột Đỉnh Của Phật Pháp Là An Lạc
TỘT CÙNG CỦA LUÂN HỒI LÀ KHỔ ĐAU
TỘT ĐỈNH CỦA PHẬT PHÁP LÀ AN LẠC

Nguyên tác: - The Endpoint of Samsara Is Suffering, The Endpoint of Dharma Is Happiness
Tác giả: Tsenzhab Serkong Rinpoche I, Longueuil, Quebec, Canada, August 19, 1980
Anh dịch: Alexander Berzin - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển, 13/08/2010

Tất cả chúng sinh mong ước được vui vẻ, không ai mong cầu buồn rầu. Phật Pháp dạy những phương pháp để xa lánh khổ đau và đạt đến an lạc. Phật Pháp mà chúng ta thực tập là, nói một cách chữ nghĩa, là điều gì đấy ôm ấp chúng ta. Điều này có thể được giải thích trong nhiều cách. Nó ôm ấp chúng ta khỏi khổ đau và ôm ấp tất cả những nguồn cội của an lạc.

An lạc có thể hoặc là thân thể hay tinh thần. Cũng có hai loại khổ đau: thân thể và tinh thần. Nhiều người trong chúng ta, mặc dù chúng ta mong ước đạt đến an lạc, nhưng chúng ta mê mờ về những phương pháp để đạt đến điều này. Những phương pháp mà chúng ta sử dụng đưa chúng ta đến khổ đau.

Một số người trộm cắp và giết chóc để nuôi sống họ. Họ nghĩ điều này sẽ mang hạnh phúc đến cho họ. Thật sự thì không như thế. Có nhiều người khác cố gắng để đạt đến hạnh phúc bằng việc làm một người buôn bán, làm ruộng rẫy, và v.v…, trong khuôn khổ của luật pháp quốc gia. Nhiều người trở nên rất giàu có và nổi tiếng qua những phương pháp như thế. Loại hạnh phúc này là không là điều gì đấy sẽ còn mãi; nó không là niềm an lạc căn bản. Không kể là hạnh phúc hay tài sản vật chất mà chúng ta có nhiều như thế nào, chúng ta sẽ không bao giờ hài lòng rằng chúng ta có đủ. Ngay cả chúng ta sở hữu toàn bộ một quốc gia, nhưng chúng ta vẫn muốn thêm nữa.

Hành động mà chúng ta làm để đạt được hạnh phúc không bao giờ chấm dứt. Chúng ta cố gắng rão quanh bằng những phương tiện nhanh nhất mà chúng ta có, xe cộ, v.v… loại theo đuổi này không bao giờ chấm dứt. Đó là tại sao mà người ta nói vòng luân hồi tồn tại bất tận, nó chỉ đi vòng qua vòng lại. Tất cả chúng ta có thể thông hiểu điều này: những sự theo đuổi trần gian là không bao giờ chấm dứt.

Một bông hoa tươi đẹp khi mới, héo tàn khi cũ. Bất chấp những gì chúng ta đạt được trong cuộc đời này, nó sẽ đi đến chấm dứt. Nó sẽ đi đến sự chấm hết khi thời gian trôi đi và trôi mãi, đến cuối cuộc đời của chúng ta là lúc mà chúng ta có sự khổ đau tột cùng. Thí dụ, xe hơi. Quý vị đi ngang qua một bãi xe cũ, nơi mà những chiếc xe cũ bị bỏ đi. Đây là sự chấm dứt sau cùng, trong tình trạng nơi mà mọi thứ bị biến thành rác. Ngay cả khi chiếc xe còn sử dụng tốt, chúng ta đã lo lắng về điều này. Chúng ta lo lắng rằng những bộ phận của nó bị hư hao, thuế vụ và bảo hiểm phải trả định kỳ v.v và v.v… Chúng ta có thể mở rộng thí dụ này đến tất cả những sở hữu vật chất. Càng có nhiều về những thứ ấy, chúng ta càng lo lắng về chúng.

Phật Pháp dạy chúng ta phương pháp để đem đến niềm an lạc tinh thần. Để đạt đến một loại hạnh phúc tâm linh nào đấy, chúng ta không cần phải hành động với thân thể vật lý: chúng ta cần hành động với tâm thức chúng ta. Tuy thế, tâm thức có một dòng suối tương tục dài lâu, thậm chí trong những kiếp sống tương lai, và từ những đời sống trong quá khứ. Mỗi kiếp sống, chúng ta có một thân thể và chúng ta cố gắng để tiếp nhận hạnh phúc cho thân thể ấy, nhưng vào lúc chết tâm thức bỏ đi. Vì thế hạnh phúc chúng ta cần mong ước cho nó không chỉ là niềm hạnh phúc rộng lớn, vững vàng, mà cũng phải kéo dài cho đến tất cả những đời sống tương lai và nó không bị gián đoạn trong sự tương tục của nó.

Không kể loại hành động nào mà chúng ta thực hiện, tích cực xây dựng hay không đi nữa, đó không phải là Phật Pháp, nhưng những hành vi tích cực mà nó hoàn thành vì lợi ích cho những đời sống tương lai,thì đó là Phật Pháp.

Hạnh phúc hay bất hạnh đến từ những hành vi của chúng ta. Liên hệ đến những hành vi nghiệp nhân này, hành vi tiêu cực mang đến kết quả khổ đau và hành vi tích cực đem đến kết quả hạnh phúc. Bất cứ điều gì chúng ta có thể làm tốt trong kiếp sống này, gieo trồng trên những lĩnh vực, những dự án, và v.v…, điều này là kết quả của những hành vi tích cực mà chúng ta đã làm trong những kiếp sống trước. Nếu chúng ta bệnh hoạn, hay nếu chúng ta không vui hay có những đời sống ngắn ngủi, đây là kết quả của những hành vi tiêu cực mà chúng ta đã làm trong quá khứ.

Thí dụ, có hai người buôn bán, một thành công và một không thành công. Đây là qua nghiệp báo của kiếp trước. Chúng ta có thể thấy hai thương gia, một làm rất hăng say cực nhọc và không thành công trong khi người kia không làm việc năng nổ nhưng rất thành công. Một thí dụ khác, nếu quý vị giết hại chúng sinh, quý vị sẽ có một đời sống yểu mạng và bệnh hoạn. Quý vị có thể hỏi Geshe-la [1]của quý vị ở đây về tất cả những điều này.

Nếu quý vị hạn chế mình khỏi vi phạm những hành vi tiêu cực này, quý vị sẽ không bị sinh vào những cảnh giới thấp, nhưng như một con người hay trong cảnh giới chư thiên. Nhưng ngay cả nếu quý vị sinh ra như một con người hay một vị thiên thần, điều này cũng không mang đến niềm hạnh phúc thiết yếu – vì tất cả đều ở trong bản chất tự nhiên của khổ đau. Tại sao điều này là như thế? Nếu quý vị đạt đến một vị thế cao, quý vị rơi xuống một chỗ thấp; nếu quý vị ở trong vị trí thấp, quý vị vươn lên một vị trí cao hơn. Vì điều này, nên sẽ có một sự đối diện vô cùng với đau khổ. Thí dụ, nếu quý vị đói, quý vị ăn vào; nhưng nếu quý vị ăn quá nhiều, rồi thì quý vị bị bệnh. Nếu quý vị lạnh, quý vị mở máy sưởi và rồi thì quá nóng; quý vị phải hạ nhiệt độ xuống. Có tất cả mọi loại khổ đau như vậy.

Samara, luân hồi (sự hiện hữu tái diễn không thể kiểm soát) bao hàm những loại khổ đau này. Nó là kết quả của nghiệp báo và những loại cảm xúc và thái độ phiền não khác nhau. Chúng ta cần phát triển tuệ trí tỉnh thức về tính không hay vô phân biệt.

Chúng ta có thể thấy, những thí dụ về những ai tiếp cận sự chấm dứt vòng luân hồi sinh tử của họ, mười sáu vị a la hán và những tôn giả khác những người đạt được thể trạng này. Mặc dù chúng ta có thể đặt để sự chấm dứt vòng tồn tại luân hồi của chính chúng ta, nhưng chỉ làm điều này thì không đủ (tự lợi), bởi vì không ai tử tế đối với chúng ta hơn tất cả vô lượng chúng sinh. Thực phẩm hằng ngày đến từ những con vật dễ thương. Nếu chúng ta thụ hưởng thịt, điều này đến từ những con vật bị giết trong khi vẫn còn khỏe mạnh. Vào mùa đông, chúng ta mặc áo ấm và len sợi, là những thứ đến từ những con vật. Chúng thật là tốtlành đã cung cấp những điều này cho chúng ta. Chúng ta cần phải đền trả những sự tử tế của tất cả chúng sinh bằng việc đạt đến thể trạng Phật quả cho chính mình – rồi thì chúng ta có thể hoàn thành những khuynh hướng hổ trợ tất cả chúng sinh vô lượng.

Bích chi Phật và A la hán không thể hoàn thành tất cả những mục tiêu [vì các ngài] như những chúng sinh hạn chế. Chỉ duy nhất một bậc có thể làm điều ấy, đấy là một vị Phật, và vì điều này là những gì chúng ta phải hành động nhằm để giúp đở họ một cách thật sự. Chúng ta cần phải trở thành những vị Phật cho chính chúng ta.

Làm thế nào chúng ta có thể làm điều này? Bằng việc theo đuổi Phật Pháp. Ở Ấn Độ, có những bậc đại thành tựu cao thượng (mahasiddhas) chúng ta có những câu chuyện về cuộc đời của mười tám vị ấy, nhưng thật sự có vô số các vị như thế. Các ngài đạt đến giác ngộ ngay trong đời sống của các ngài. Ở Tây Tạng, có thí dụ về Milarepa, và nhiều vị đại đạo sư khác từ các trường phái Kagyu, Nyingma, Sakya, và Gelugpa.

Một khi chúng ta đạt đến thể trạng của một vị Phật, những nổ lực [cố gắng] về [việc thực hành] Giáo Pháp đi đến chỗ chấm dứt [vì đã đến chỗ vô công dụng hạnh]. Những hành vi chúng ta thực hiện trong Giáo Pháp rất khó khăn vào lúc đầu, nhưng nó sẽ dễ dàng hơn và dễ dàng hơn, và chúng ta trở nên hạnh phúc hơn và an lạc hơn khi chúng ta tiến bộ. Chúng ta hoàn thành hiện thực Giáo Pháp trong một thể trạng hoàn toàn an lạc (một khi đã thực chứng). Việc làm trần tục đưa khổ đau hơn đến cho chúng ta.

Thí dụ, khi người ta chết, đời sống của họ tiếp cận chỗ cuối cùng hay điểm tột cùng trong sự chết chỉ làm cho buồn rầu và đau khổ, không chỉ riêng cho chính họ, mà cũng đến những ai họ bỏ lại, thí dụ trong đám tang của họ. Chúng ta cần nghĩ về điều này và thực hiện một loại pháp hành nào đấy. Tiếp cận giây phút lâm chung, phút cuối của cuộc đời trong Phật Pháp với sự đạt đến giác ngộ chỉ đem đến an lạc, không chỉ cho chúng ta mà cũng cho những người khác.

Chúng ta cần hạn chế mình khỏi những việc làm mười điều bất thiện. Nếu chúng ta làm những hành vi tích cực, chúng ta trãi nghiệm hạnh phúc, nếu chúng ta làm việc tiêu cực, chúng ta trãi qua đau buồn. Chúng ta cần thẩm tra kết quả của những hành động của chúng ta và chúng ta cần thẩm tra tâm thức của chính chúng ta như nguyên nhân của những hành của chúng ta. Khi chúng ta thẩm tra, chúng ta thấy chúng ta có ba loại cảm xúc và thái độ độc hại: tham luyến, sân hận, và tâm thức vô minh đóng kín (ngu muội).

Từ những điều này, chúng ta có tám mươi bốn nghìn loại xúc cảm và thái độ phiền não. Tám mươi bốn nghìn vọng tưởng này là những kẻ thù chính yếu của chúng ta, vì thế nhìn vào bên trong, chứ không phải chung quanh chúng ta, [để thấy] những kẻ thù của chúng ta. Trong tám mươi bốn nghìn thứ này, những thứ chính là ba loại thuốc độc ấy, và thứ độc hại nhất là tâm vô minh đóng kín hay ngu muội, ngay trong dòng suối tâm của chính chúng ta.

Tóm lại, chúng ta cần nhìn vào bên trong chính chúng ta và cố gắng diệt tận những kẻ thù nội tại này. Đó là tại sao những thành viên của Phật Pháp được gọi là “người trong cuộc” (insider), bởi vì họ luôn luôn nhìn vào bên trong [ và vì ngoại đạo còn có nghĩa là những người theo đuổi những pháp ngoải tâm]. Nếu chúng ta chấm dứt những cảm xúc và thái độ phiền não này trong dòng tương tục tinh thần của tâm thức,thì sau đó chúng ta sẽ chấm dứt tất cả những khổ đau của chúng ta. Một người hành động để làm điều này được biết như một thành viên của Phật Pháp [hay một Phật tử đúng nghĩa thật sự].

Hành vi Phật Pháp của người nào đó thực hiện để loại trừ những cảm xúc và thái độ phiền não chỉ bên trong của riêng người ấy là hành vi Phật Pháp của cổ xe nhỏ hay tiểu thừa. Nếu chúng ta hành động để loại trừ vọng tưởng của chúng ta chỉ để xa lìa khổ đau của chính chúng ta, nhưng thấy người khác là quan trọng hơn và cố gắng để vượt thắng vọng tưởng của chúng ta vì thế chúng ta cũng có thể giúp họ tiêu trừ những xúc cảm và thái độ phiền não trong tâm thức họ, thế thì sau đó chúng ta là những hành giả Đại Thừa. Trên sự hành hoạt căn bản của thân thể này, chúng ta cần cố gắng để trở thành những hành giả Đại Thừa, và kết quả là chúng ta có thể đạt đến thể trạng giác ngộ của một vị Phật.

Điềm chính là luôn luôn cố gắng để làm lợi ích cho mọi người và không bao giờ làm tổn hại đến bất cứ người nào. “Án Ma Ni Bát Di Hông” (OM MANI PADME HUM), quý vị cần suy nghĩ, “Nguyện cho năng lực tích cực làm cho lợi ích này đến tất cả chúng sinh .”

Thân thể này chúng ta có như một căn bản hoạt động của chúng ta là rất khó khăn để đạt được: được sinh làm thân người là không dễ dàng để có được (nhân thân nan đắc). Thí dụ, hãy nhìn vào địa cầu. Phần lớn là đại dương, và hãy nghĩ có bao nhiêu con cá có trong những đại dương này. Số lượng lớn nhất của sự sống là thú vật và côn trùng. Nếu chúng ta nghĩ về toàn thể hành tinh và con số của thú vật và côn trùng có, chúng ta sẽ thấy sự hiếm hoi để được sinh ra như một con người.

Trong Phật Pháp, thân chứng và tuệ giác nội quán đến một cách rất chậm chạp. Không chỉ trong một vài ngày, vài tuần, hay vài tháng. Chỉ một số thậm chí rất ít con người thật sự nghĩ về Phật Pháp, chỉ riêng quán chiếu để thân chứng. Chúng ta cần hành động một cách liên tục trong một thời gian dài. Quý vị có một vị tiến sĩ Phật học phẩm hạnh ở đây, người có thể trả lời tất cả những câu hỏi của quý vị. Về đường dài, Phật Pháp tiếp tục sẽ lớn mạnh và truyền bá phổ biến rộng rãi. Nó đang phát triền và rất sống động. Khi Đức Phật lần đầu tiên giảng dạy, Ngài chỉ có năm đệ tử. Phật Pháp đã được truyền bá từ những vị này, và bây giờ được hiện diện đến một sự mở rộng vô cùng như thế trên thế giới.

Quý vị bây giờ có cùng phẩm chất của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, Đức Đạt Lai Lạt Ma, người sẽ đến đây trong tháng Mười. Bất cứ điều gì Đức Đạt Lai Lạt Ma ban cho quý vị, hãy đem vào trái tim và thực tập chúng một cách chân thành. Căn bản của giáo huấn là không bao giờ tổn hại bất cứ một tạo vật nào và không làm tổn thương tư tưởng – hay cố gắng để làm lợi ích với chúng. Đây là điểm chính. Nếu quý vị hành động như thế này, nó sẽ mang đến những lợi lạc vô cùng trong tương lai.

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level1_getting_started/general_introductory_material/endpoint_samsara_suffering_dharma_happiness.html


[1]Geshe học vị tương đương tiến sĩ Phật học. Geshe-la, tiếp vĩ ngữ "La" đặt sau tên gọi hay danh hiệu Geshe là để bày tỏ lòng quý trọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5858)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 6020)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6856)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5874)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6588)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 7981)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7105)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6384)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7185)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6048)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567