Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương

14/05/201316:12(Xem: 13916)
Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương

Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim)

Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương

HT. Thích Trí Quang dịch giải

Nguồn: Bản Hoa dịch của ngài Nghĩa Tịnh

Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn vì cả đại hội nói về vương pháp chính luận rồi, lại bảo, đại hội các người nên lắng nghe. Như lai lại nói cho các người về một sự phụng hành chánh pháp xưa kia của Như lai. Ngay lúc ấy đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Như lai xưa kia
làm vị luân vương,
bỏ hết đại địa
và cả đại dương,
đem bao trân bảo
đầy bốn đại lục
cung kính hiến cúng
chư vị Như lai.
(2) Như lai xưa kia
trong vô lượng kiếp,
vì cầu pháp thân
tối cực chân tịnh,
nên bao bảo vật
đều xả bỏ cả,
cả đến thân mạng
cũng không tiếc lẫn.
(3) Trong thì quá khứ
khó lường đời kiếp,
có bậc đẳng giác
danh hiệu Bảo kế;
sau khi Ngài đã
nhập vào niết bàn,
có một vị vua
tên là Thiện sinh.
(4) Làm bậc luân vương
cả bốn đại lục,
ngoại biên đại dương
đều qui phục cả;
vua có hoàng thành
tên Diệu âm nhạc,
vua thường cư trú
nơi hoàng thành ấy.
(5) Đêm mộng thấy nói
phước trí Như lai.
Thấy có pháp sư
tên là Bảo tích,
ngồi nghiêm trên tòa
tựa vầng thái dương,
diễn giảng kinh mầu
Ánh sáng hoàng kim.
(6) Sau khi tỉnh mộng,
vua rất hoan hỷ,
nỗi hoan hỷ lớn
tràn khắp cơ thể.
Đến lúc trời sáng,
vua ra hoàng cung,
đi đến dà lam
của chư Bí sô.
(7) Luân vương tôn kính
cúng thánh chúng rồi,
liền hỏi các ngài :
trong thánh chúng này
có hay không có
pháp sư Bảo tích
thành tựu công hạnh
hóa độ chúng sinh?
(8) Bấy giờ Bảo tích,
vị đại pháp sư,
cư trú ở trong
một cái tịnh thất,
chánh niệm trì tụng
kinh mầu Hoàng kim,
trang nghiêm bất động,
thân tâm vui đẹp.
(9) Một vị Bí sô
hướng dẫn luân vương
đến chỗ cư trú
của ngài Bảo tích,
thấy trong tịnh thất
ngài ngồi thẳng mình,
toàn thân đầy cả
ánh sáng tướng đẹp.
(10) Bí sô bảo vua:
đây, ngài Bảo tích,
giữ được hành xứ
sâu xa của Phật,
đó là bản kinh
Ánh sáng hoàng kim,
kinh vua các kinh,
tối thượng bậc nhất.
(11) Luân vương tức thì
lạy ngài Bảo tích,
cung kính chắp tay
mà thỉnh cầu ngài:
Xin bậc mặt đẹp
tựa như trăng đầy,
nói cho con nghe
diệu pháp Hoàng kim.
(12) Pháp sư Bảo tích
nhận lời thỉnh cầu,
hứa sẽ nói cho
bản kinh vua ấy.
Thế là khắp cả
đại thiên thế giới,
hết thảy chư thiên
cùng đại hoan hỷ.
(13) Vua dùng một nơi
rộng rãi sạch sẽ,
tận lực trang hoàng
trân bảo quí lạ,
rưới bụi bằng nước
hương liệu thượng hạng,
rải những bông hoa
màu sắc đa dạng.
(14) Nơi đặc biệt này
vua đặt tòa cao,
trang hoàng bảo cái
tràng phan gấm lụa;
xát hương xoa hương
với đủ mọi cách,
hơi thơm tỏa ra
khắp cả mọi nơi.
(15) Thiên, long, tô la,
và khẩn na la,
ma hô lạc dà
cùng với dược xoa,
nhất là chư thiên
rải hoa mạn đà,
hiến cúng pháp tòa
rất cao cả ấy.
(16) Lại có hàng ngàn
hàng vạn chư thiên
ưa nghe chánh pháp
cùng đến tụ tập.
Pháp sư bắt đầu
rời chỗ ngồi cũ,
họ đã hiến cúng
bằng những thiên hoa.
(17) Bấy giờ Bảo tích,
vị đại pháp sư,
tắm rửa mình mẩy,
mặc đồ sạch sẽ,
đi đến đại hội,
lại chỗ pháp tòa,
chắp tay chân thành
mà kính lễ bái.
(18) Thiên chủ, thiên chúng,
cùng với thiên nữ,
chung nhau rải xuống
thiên hoa mạn đà;
trăm ngàn thiên nhạc
khó nghĩ khó tả,
ở trong không trung
xuất ra tiếng mầu.
(19) Bấy giờ Bảo tích,
vị đại pháp sư,
liền lên pháp tòa
mà ngồi xếp bằng,
tập trung tâm trí
nghĩ đến mười phương
trăm ngàn vạn ức
bậc Đại từ tôn.
(20) Nghĩ đến tất cả
chúng sinh đau khổ,
phát sinh ý niệm
từ bi bình đẳng.
Rồi vì chủ mời
là Thiện sinh vương,
mà giảng kinh mầu
Ánh sáng hoàng kim.
(21) Vua đã nghe được
diệu pháp như vậy,
thành tâm chắp tay
nói rằng tùy hỷ.
Nghe pháp hiếm có,
Vua trào nước mắt,
nỗi mừng lớn lao
tràn ngập thân tâm.
(22) Bấy giờ quốc chúa
luân vương Thiện sinh,
vì muốn hiến cúng
kinh vua Hoàng kim,
nên cầm viên ngọc
như ý ma ni,
nguyện rằng hãy vì
bao loại chúng sinh.
(23) Hãy ngay nơi đây,
đại lục Thiệm bộ,
mưa xuống thất bảo,
những xâu chuỗi ngọc,
để người nghèo thiếu
đồ dùng tiền của
hảy đều tùy ý
thụ hưởng hạnh phúc.
(24) Tức thì thất bảo
đổ xuống khắp nơi,
sung mãn dân chúng
cả bốn đại lục,
cần gì tùy ý:
chuỗi ngọc làm đẹp
y phục ẩm thực
không thiếu thứ gì.
(25) Bấy giờ quốc chúa
luân vương Thiện sinh
thấy bốn đại lục
được mưa trân bảo,
thì đem hiến cúng
Bảo kế như lai,
và Bí sô tăng
theo di huấn Ngài.
(26) Đại hội nên biết
luân vương Thiện sinh
ngày nay chính là
bản thân Như lai,
xưa kia đã bỏ
cả đại địa này,
cả bao trân bảo
đầy bốn đại lục.
(27) Còn ngài Bảo tích,
vị đại pháp sư,
đã thuyết diệu pháp
cho Thiện sinh vương,
diễn giảng kinh vua
cho nhà vua ấy,
nay ở hướng đông
thành đức Bất động.
(28) Như lai xưa kia
lắng nghe kinh vua,
chắp tay nói rằng
con xin tùy hỷ,
quảng thí thất bảo,
do những phước ấy
được kim cương thân
tối thắng bậc nhất.
(29) Thân ấy ánh vàng
trăm phước trang nghiêm,
ai nhìn thấy được
cũng hoan hỷ cả;
tất cả chúng sinh
không ai không thích,
vô số chư thiên
cũng thích như vậy.
(30) Như lai trải qua
chín mươi chín lần
vô số đời kiếp
làm vị luân vương,
hoặc làm quốc vương
cho những tiểu quốc
cũng đến số lượng
trăm ngàn đời kiếp.
(31) Trong vô lượng kiếp
lại làm Đế thích,
và cũng đã làm
bậc Đại phạn vương,
hiến cúng Thập lực
đại từ thế tôn
số lượng đời kiếp
cũng khó biết hết.
(32) Như lai xưa kia
nghe kinh, tùy hỷ,
khối phước có được
số lượng khó biết;
do khối phước ấy
được vô thượng giác,
được pháp tánh thân
diệu trí chân thường.

Bấy giờ đại hội nghe sự tuyên thuyết như vậy ai cũng than là hiếm có. Ai cũng nguyện phụng trì kinh vua Ánh sáng hoàng kim, quảng bá bất tuyệt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 38911)
Kim Quang Minh kinh, theo Phật học nghiên cứu (Bài 10 trang 52), có 6 bản dịch. Bản Một, Kim Quang Minh kinh, 4 cuốn, 19 phẩm, Đàm Mô Sấm dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 414-426. Bản Hai, Kim Quang Minh kinh, 7 cuốn, 21 phẩm, Chân Đế dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 548-569.
08/04/2013(Xem: 6542)
Thời điểm đức Phật vào Niết Bàn tại Câu Thi Na (Kushinaga) rừng Sa La Song Thọ, một số đệ tử Ngài vô cùng thương tiếc muốn tịch diệt theo, thậm chí có một vài đệ tử không nở chứng kiến tình cảnh đó, đành thất lễ mà ra đi trước. Ngược lại cũng có một ít đệ tử vì không uống được giáo pháp giải thoát nên cảm thấy vui hơn là buồn, bởi rồi sẽ không còn ai khiển trách mình nữa!
08/04/2013(Xem: 8231)
Kính lạy đấng Thế Tôn bậc thầy của nhân thiên, bậc siêu việt trên mọi siêu việt, bậc không thể nghĩ bàn, không thể tán thán, không thể ca tụng, xưng dương hết ý được, do vì những lời lẽ ngôn từ tán thán chỉ là ý thức vọng động phân biệt kẹt chấp phạm trù ngôn ngữ thế gian; hay có thể nói bao giờ phàm phu chúng ta có thể hành động, có thể đi vào an định trong giáo pháp của Ngài.
08/04/2013(Xem: 6037)
Dòng tâm thức luôn lăn trôi từng sát na sanh diệt, do đó chúng ta sống trong thế giới hiện tượng này làm sao tránh khỏi tâm viên ý mã, mà nguyên nhân là lý sanh diệt luôn biến dị chi phối , làm cho chúng ta tưởng chừng như có nhiều tâm trong con người. Thật vậy tâm luôn thay đổi qua nhiều tình huống, thăng trầm của tư duy qua sự phát triển của khối óc và căn cơ trình độ.
08/04/2013(Xem: 14575)
Cần thực hành những nghi thức trì tụng kinh Phật, như bài tán lư hương, chơn ngôn tịnh pháp giới, chơn ngôn tịnh khẩu nghiệp, chơn ngôn tịnh ba nghiệp, chơn ngôn phổ cúng dường, bài văn phát nguyện và bài kệ khai kinh.
08/04/2013(Xem: 15247)
Tụng kinh Pháp Hoa, chúng ta thường đọc những bài tán thán công đức của kinh này để gợi cho chúng ta suy nghĩ về những tinh ba vi diệu của kinh và từ đó phát khởi được niềm tin trong sạch đối với Đức Phật và lời dạy của Ngài, kế tiếp mới đi vào phần nội dung của kinh.
08/04/2013(Xem: 10573)
Hai chữ Kim Cang, nhiều người giải nghĩa dựa trên tính bền chắc sắc bén có thể cắt đứt. Đây là nói phiếm. Nhưng ở Tây Vức có của báu Kim Cang, báu này rất bền chắc chẳng thể hư hoại, lại phá hoại được tất cả vật. Nếu lấy báu này để dụ cho Bát Nhã đoạn trừ được phiền não, thì tuy gần với lý, nhưng đều chẳng phải ý Phật, chỉ là tri kiến theo thói xưa tầm thường.
08/04/2013(Xem: 7192)
Hôm nay, tất cả quí vị đã bỏ nhà để đến chùa góp mặt trong pháp hội này, phải nói đây là một cơ hội thật tốt để chúng ta tạm thời gát qua hết những chuyện đời và quay về sống phản tỉnh đối với bản thân. Nhưng tôi chỉ mới nói rằng quý vị đang có một cơ hội tốt, còn quý vị thì sao? Quý vị có ý thức được mình đang ở đâu và làm gì hay không? Đi vào chùa để vãn cảnh hay để tu học? Nếu để tu học thì quý vị đã bắt đầu chưa? Các vị hãy luôn nhớ rằng, một khi đã chấp nhận con đường tu học thì chúng ta nhất định phải cố gắng thế nào đó để tự khẳng định chính mình. Chúng ta không thể tu học như một hình thức chiếu lệ mà ngược lại phải luôn nhìn về phía trước để nhắm tới những tiến bộ. Chúng ta phải biết tu học một cách có lý tưởng, áp dụng Phật Pháp vào ngay chính đời sống của mình để từng sinh hoạt của bản thân được thực hiện dưới ánh sáng Phật pháp.
08/04/2013(Xem: 17973)
Đại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Đại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Đại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Đại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Đại đức qua Đại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Đại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Đại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Đại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản.
08/04/2013(Xem: 9164)
Mùa hè năm 1996, tôi có dịp sang Canada thuyết giảng và hướng dẫn vài khóa tu học. Một số Phật tử đã thâu băng những buổi giảng và chép ra để làm tài liệu tu tập...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]