Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm 1: Mở đầu Pháp thoại

14/05/201316:02(Xem: 15562)
Phẩm 1: Mở đầu Pháp thoại

Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim)

Phẩm 1: Mở đầu Pháp thoại

HT. Thích Trí Quang dịch giải

Nguồn: Bản Hoa dịch của ngài Nghĩa Tịnh

Tôi nghe như vầy. Một thời đức Thế tôn, tại đỉnh Thứu phong thuộc thành Vương xá, Ngài ở nơi pháp giới rất trong sáng, rất sâu xa. Pháp giới ấy là lĩnh vực của Phật đà, là trú xứ của Thế tôn.

Bấy giờ chúng đại bí sô có chín mươi tám ngàn vị, toàn là a la hán; khéo tự thuần hóa, in như voi chúa; sơ hở đã hết, không còn phiền não; tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát; việc làm hoàn tất, bỏ mọi gánh nặng; đạt đến tự lợi, hết sạch kiết sử; được đại tự tại, ở trong tịnh giới; phương tiện khéo léo, tuệ giác trang nghiêm; được tám giải thoát, đến bờ bên kia. Danh hiệu các vị là cụ thọ A nhã kiều trần như, cụ thọ A thuyết thị đa, cụ thọ Bà thấp ba, cụ thọ Ma ha na ma, cụ thọ Bà đế lị ca, tôn giả Đại ca nhiếp ba, tôn giả Ưu lâu tần loa ca nhiếp, tôn giả Dà da ca nhiếp, tôn giả Na đề ca nhiếp, tôn giả Xá lị tử, tôn giả Đại mục kiền liên, tôn giả A nan đà, người ở vị trí đang còn tu học. Các vị đại thanh văn như vậy, sau lúc quá trưa cùng xuất định, đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía.

Chúng đại bồ tát trăm ngàn vạn ức vị, có uy đức lớn, như đại long vương; tiếng khen vang khắp, ai cũng biết đến; thường thích phụng hành tịnh thí tịnh giới; nhẫn nhục tinh tiến qua vô số kiếp; vượt mọi thiền định, tâm ở trước mắt; mở cửa tuệ giác, thiện dụng phương tiện; tự tại du hành thần thông vi diệu; thành đạt tổng trì, hùng biện vô tận; cắt đứt phiền não, hệ lụy không còn; đã gần thành đạt trí tuệ toàn giác; chế ngự ngoại đạo cho sinh tịnh tâm; chuyển đẩy pháp luân, hóa độ người trời; mười phương cõi Phật đều trang hoàng cả; sáu nẻo hữu tình đều nhờ ích lợi; thành tựu đại trí, viên mãn đại nhẫn; có tâm đại từ bi, có lực đại kiên cố; phụng sự chư Phật, không nhập niết bàn; phát nguyện rộng lớn, cùng tận vị lai; nơi các đức Phật trồng sâu tịnh nhân; cả ba thì gian ngộ vô sinh nhẫn; vượt qua lĩnh vực nhị thừa bước đi; đem đại thiện phương tiện mà hóa đạo thế giới; phu diễn được hết giáo huấn của Phật; với đạo lý Không sâu xa bí mật, đều thấu triệt cả không còn nghi hoặc. Danh hiệu các vị là bồ tát Vô chướng ngại chuyển pháp luân, bồ tát Thường phát tâm chuyển pháp luân, bồ tát Thường tinh tiến, bồ tát Bất hưu tức, bồ tát Từ thị, bồ tát Diệu cát tường, bồ tát Quan tự tại, bồ tát Tổng trì tự tại vương, bồ tát Đại biện trang nghiêm vương, bồ tát Diệu cao sơn vương, bồ tát Đại hải thâm vương, bồ tát Bảo tràng, bồ tát Đại bảo tràng, bồ tát Địa tạng, bồ tát Hư không tạng, bồ tát Bảo thủ tự tại, bồ tát Kim cang thủ, bồ tát Hoan hỷ lực, bồ tát Đại pháp lực, bồ tát Đại trang nghiêm quang, bồ tát Đại kim quang trang nghiêm, bồ tát Tịnh giới, bồ tát Thường định, bồ tát Cực thanh tịnh tuệ, bồ tát Kiên cố tinh tiến, bồ tát Tâm như hư không, bồ tát Bất đoạn đại nguyện, bồ tát Thí dược, bồ tát Liệu chư phiền não bịnh, bồ tát Y vương, bồ tát Hoan hỷ cao vương, bồ tát Đắc thượng thọ ký, bồ tát Đại vân tịnh quang, bồ tát Đại vân trì pháp, bồ tát Đại vân danh xưng hỷ lạc, bồ tát Đại vân hiện vô biên xưng, bồ tát Đại vân sư tử hống, bồ tát Đại vân ngưu vương hống, bồ tát Đại vân cát tường, bồ tát Đại vân bảo đức, bồ tát Đại vân nhật tạng, bồ tát Đại vân nguyệt tạng, bồ tát Đại vân tinh quang, bồ tát Đại vân hỏa quang, bồ tát Đại vân điện quang, bồ tát Đại vân lôi âm, bồ tát Đại vân tuệ vũ sung biến, bồ tát Đại vân thanh tịnh vũ vương, bồ tát Đại vân hoa thọ vương, bồ tát Đại vân thanh liên hoa hương, bồ tát Đại vân bảo chiên đàn hương thanh lương thân, bồ tát Đại vân trừ ám, bồ tát Đại vân phá ế. Các vị đại bồ tát như vậy, sau lúc quá trưa cùng xuất định, đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía.

Lại có năm trăm tám ngàn đồng tử Lê xa tì, tên là đồng tử Sư tử quang, đồng tử Sư tử tuệ, đồng tử Pháp thọ, đồng tử Nhân đà ra thọ, đồng tử Đại quang, đồng tử Đại mãnh, đồng tử Phật hộ, đồng tử Pháp hộ, đồng tử Tăng hộ, đồng tử Kim cang hộ, đồng tử Hư không hộ, đồng tử Hư không hống, đồng tử Bảo tạng, đồng tử Cát tường diệu tạng. Những đồng tử như vậy làm người đứng đầu. Họ cùng đứng vững nơi vô thượng giác, thâm tín vui thích đối với đại thừa. Sau lúc quá trưa họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có bốn mươi hai ngàn thiên tử, tên là thiên tử Hỷ kiến, thiên tử Hỷ duyệt, thiên tử Nhật quang, thiên tử Nguyệt kế, thiên tử Minh tuệ, thiên tử Hư không tịnh tuệ, thiên tử Trừ phiền não, thiên tử Cát tường. Những thiên tử như vậy làm người đứng đầu. Họ phát đại nguyện hộ vệ đại thừa, làm cho chánh pháp rực rỡ liên tục. Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có hai mươi tám ngàn long vương, long vương Liên hoa, long vương EÁ la diệp, long vương Đại lực, long vương Đại hống, long vương Tiểu ba, long vương Trì sử thủy, long vương Kim diện, long vương Như ý. Những long vương như vậy làm người đứng đầu. Họ thường thích nhớ chánh pháp đại thừa, tin tưởng sâu xa, tán dương duy trì. Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có ba mươi sáu ngàn Dược xoa, đứng đầu bởi Tì sa môn thiên vương, tên của họ là dược xoa Yêm bà, dược xoa Trì yêm bà, dược xoa Liên hoa quang tạng, dược xoa Liên hoa diện, dược xoa Tần mi, dược xoa Hiện đại bố, dược xoa Động địa, dược xoa Thôn thực. Những dược xoa như vậy ưa thích chánh pháp của đức Thế tôn, chân thành duy trì, không hề giải đãi. Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có bốn mươi chín ngàn yết lộ trà vương, đứng đầu bởi Hương tượng thế lực vương; có kiền thát bà, a tô la, khẩn na la, mạc hô lạc dà, vân vân; có các thần tiên rừng núi sông biển; có quốc vương của các quốc gia lớn, được tháp tùng bởi hoàng hậu hoàng phi; có nam nữ đức tin trong sáng. Các chúng nhân loại và chư thiên cùng đến vân tập, cùng nguyện hộ vệ đại thừa tối thượng, đọc xét văn nghĩa, tụng tập thuộc lòng, học hỏi tiếp nhận, nắm giữ trong trí, sao chép lưu thông (2) . Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều phải, rồi lui ra cùng ngồi mỗi chúng một phía.

Đại hội như vậy, bao gồm thanh văn, bồ tát, nhân loại, chư thiên, tám bộ long thần, vân tập cả rồi, ai cũng nhất tâm, chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng Thế tôn, mắt không rời Ngài. Họ thích thú muốn nghe chánh pháp siêu việt, nhiệm mầu.

Lúc ấy đức Thế tôn, sau lúc quá trưa, xuất khỏi thiền định, quan sát đại hội mà nói những lời chỉnh chú sau đây.

(1) Ánh sáng hoàng kim,
bản kinh nhiệm mầu,
siêu việt hơn hết,
vua của các kinh.
Kinh ấy rất sâu,
khó mà được nghe;
kinh ấy chính là
lĩnh vực của Phật.
(2- 3) Như lai ngày nay
sẽ tuyên thuyết đến
bản kinh như vậy
cho cả đại hội.
Hướng đông có đức
A súc như lai,
hướng nam có đức
Bảo tướng như lai,
Như lai hướng tây
là Vô lượng thọ,
Như lai hướng bắc
là Thiên cổ âm,
bốn đức Như lai
bốn hướng như vậy
cùng đem uy thần
hộ trì kinh này.
(4) Như lai sẽ nói
pháp mầu sám hối,
pháp ấy cát tường
pháp ấy thù thắng.
Năng lực pháp ấy
diệt mọi tội ác,
loại trừ sạch sẽ
những hành vi ác,
(5) tiêu tan mọi nỗi
khổ não tai họa,
thường xuyên đem lại
yên vui khó lường.
Căn bản pháp ấy
là nhất thế trí,
và được trang hoàng
bởi bao phẩm chất.
(6) Những ai cơ thể
không được hoàn hảo,
đời sống sắp sửa
đi đến hủy diệt,
những sự đáng sợ
đã biến hiện ra,
chư thiên thiện thần
cùng lánh xa cả.
(7) Thân hữu tức giận,
thân quyến phân ly,
mọi phía chống nhau,
sản vật tan tác,
(8) ác tinh tác quái,
tà độc xâm phạm,
ưu sầu quá nhiều,
khổ não lại ép,
(9) ngủ nghỉ ác mộng
từ đó phiền não.
Người ấy phải nên
tắm rửa sạch sẽ,
và mặc y phục
sạch sẽ tinh khiết.
(10) Đối với kinh này
bản kinh mầu nhiệm,
rất mực sâu xa
Như lai ca tụng,
hãy nên chuyên chú
lòng không tán loạn,
nghiên cứu, tụng thuộc,
lắng nghe, tiếp nhận,
nắm giữ trong trí
chuyên tâm phụng trì.
(11) Thì nhờ uy lực
của kinh pháp này
mà được tách rời
mọi sự tai họa,
bao nỗi khổ sở
cùng trừ diệt cả.
(12) Bốn vị thiên vương
hộ vệ thế giới,
cùng với đại thần
tùy thuộc của họ,
vô lượng dược xoa
nhất tâm hộ vệ.
(13 - 14) Lại có thiên nữ
tên Đại biện tài,
thần sông Ni liên,
thần mẹ Ha lị,
địa thần Kiên lao,
Phạn vương, Đế thích,
cùng với long vương,
và khẩn na la,
kim sí điểu vương,
tu la, chư thiên.
(15) Bao nhiêu chư thiên
thần chúng như vầy
ai cũng đem theo
tùy tùng của mình,
cùng đến hộ vệ
cho người như vậy,
cả ngày liền đêm
thường không tách rời
(16) Như lai sẽ nói
về kinh pháp này,
bản kinh rất sâu,
chỗ Như lai đi,
và là mật giáo
của chư Như lai,
ngàn vạn đời kiếp
khó mà gặp được.
(17) Ai nghe kinh này,
đem nói cho người,
hay sinh tùy hỷ
hoặc thiết cúng phẩm,
(18) thì người như vậy
sẽ vô lượng kiếp
được các thiên nhân
long thần kính trọng.
(19) Cái khối phước đức
nhiều hơn hằng sa,
nghiên cứu, tụng thuộc
kinh pháp như vầy,
thì sẽ có được
khối phước đức ấy,
(20) được chư Thế tôn
khắp trong mười phương,
được chư Bồ tát
tu hành sâu xa,
cùng hộ trì cho
tách rời khổ nạn.
(21) Hiến cúng kinh này
thì như đã nói
tắm rửa sạch sẽ,
phụng hiến hoa hương,
khởi ý từ bi
vì người phụng hiến.
(22) Muốn nghe kinh này
tâm phải sạch sẽ,
thường sinh hoan hỷ
lớn thêm công đức.
(23) Đem lòng tôn trọng
mà nghe kinh này,
thì thế chính là
khéo làm thân người,
rời xa mọi nỗi
khổ não tai nạn.
(24) Kẻ ấy thiện căn
đã là thuần thục,
được chư Như lai
cùng nhau ca tụng,
mới nghe kinh này
và sám pháp này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 38694)
Kim Quang Minh kinh, theo Phật học nghiên cứu (Bài 10 trang 52), có 6 bản dịch. Bản Một, Kim Quang Minh kinh, 4 cuốn, 19 phẩm, Đàm Mô Sấm dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 414-426. Bản Hai, Kim Quang Minh kinh, 7 cuốn, 21 phẩm, Chân Đế dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 548-569.
08/04/2013(Xem: 6489)
Thời điểm đức Phật vào Niết Bàn tại Câu Thi Na (Kushinaga) rừng Sa La Song Thọ, một số đệ tử Ngài vô cùng thương tiếc muốn tịch diệt theo, thậm chí có một vài đệ tử không nở chứng kiến tình cảnh đó, đành thất lễ mà ra đi trước. Ngược lại cũng có một ít đệ tử vì không uống được giáo pháp giải thoát nên cảm thấy vui hơn là buồn, bởi rồi sẽ không còn ai khiển trách mình nữa!
08/04/2013(Xem: 8194)
Kính lạy đấng Thế Tôn bậc thầy của nhân thiên, bậc siêu việt trên mọi siêu việt, bậc không thể nghĩ bàn, không thể tán thán, không thể ca tụng, xưng dương hết ý được, do vì những lời lẽ ngôn từ tán thán chỉ là ý thức vọng động phân biệt kẹt chấp phạm trù ngôn ngữ thế gian; hay có thể nói bao giờ phàm phu chúng ta có thể hành động, có thể đi vào an định trong giáo pháp của Ngài.
08/04/2013(Xem: 5998)
Dòng tâm thức luôn lăn trôi từng sát na sanh diệt, do đó chúng ta sống trong thế giới hiện tượng này làm sao tránh khỏi tâm viên ý mã, mà nguyên nhân là lý sanh diệt luôn biến dị chi phối , làm cho chúng ta tưởng chừng như có nhiều tâm trong con người. Thật vậy tâm luôn thay đổi qua nhiều tình huống, thăng trầm của tư duy qua sự phát triển của khối óc và căn cơ trình độ.
08/04/2013(Xem: 14418)
Cần thực hành những nghi thức trì tụng kinh Phật, như bài tán lư hương, chơn ngôn tịnh pháp giới, chơn ngôn tịnh khẩu nghiệp, chơn ngôn tịnh ba nghiệp, chơn ngôn phổ cúng dường, bài văn phát nguyện và bài kệ khai kinh.
08/04/2013(Xem: 15150)
Tụng kinh Pháp Hoa, chúng ta thường đọc những bài tán thán công đức của kinh này để gợi cho chúng ta suy nghĩ về những tinh ba vi diệu của kinh và từ đó phát khởi được niềm tin trong sạch đối với Đức Phật và lời dạy của Ngài, kế tiếp mới đi vào phần nội dung của kinh.
08/04/2013(Xem: 10511)
Hai chữ Kim Cang, nhiều người giải nghĩa dựa trên tính bền chắc sắc bén có thể cắt đứt. Đây là nói phiếm. Nhưng ở Tây Vức có của báu Kim Cang, báu này rất bền chắc chẳng thể hư hoại, lại phá hoại được tất cả vật. Nếu lấy báu này để dụ cho Bát Nhã đoạn trừ được phiền não, thì tuy gần với lý, nhưng đều chẳng phải ý Phật, chỉ là tri kiến theo thói xưa tầm thường.
08/04/2013(Xem: 7155)
Hôm nay, tất cả quí vị đã bỏ nhà để đến chùa góp mặt trong pháp hội này, phải nói đây là một cơ hội thật tốt để chúng ta tạm thời gát qua hết những chuyện đời và quay về sống phản tỉnh đối với bản thân. Nhưng tôi chỉ mới nói rằng quý vị đang có một cơ hội tốt, còn quý vị thì sao? Quý vị có ý thức được mình đang ở đâu và làm gì hay không? Đi vào chùa để vãn cảnh hay để tu học? Nếu để tu học thì quý vị đã bắt đầu chưa? Các vị hãy luôn nhớ rằng, một khi đã chấp nhận con đường tu học thì chúng ta nhất định phải cố gắng thế nào đó để tự khẳng định chính mình. Chúng ta không thể tu học như một hình thức chiếu lệ mà ngược lại phải luôn nhìn về phía trước để nhắm tới những tiến bộ. Chúng ta phải biết tu học một cách có lý tưởng, áp dụng Phật Pháp vào ngay chính đời sống của mình để từng sinh hoạt của bản thân được thực hiện dưới ánh sáng Phật pháp.
08/04/2013(Xem: 17807)
Đại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Đại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Đại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Đại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Đại đức qua Đại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Đại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Đại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Đại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản.
08/04/2013(Xem: 9107)
Mùa hè năm 1996, tôi có dịp sang Canada thuyết giảng và hướng dẫn vài khóa tu học. Một số Phật tử đã thâu băng những buổi giảng và chép ra để làm tài liệu tu tập...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]