Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài thứ 5: Tôn Giả A-Nan nghi: nếu "cái thấy" là mình

25/04/201319:25(Xem: 16086)
Bài thứ 5: Tôn Giả A-Nan nghi: nếu "cái thấy" là mình

Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa


PHẬT HỌC PHỔ THÔNG KHÓA VI

TRIẾT LÝ ĐẠO PHẬT
hay là
ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM

--- o0o ---

BÀI THỨ NĂM


I.- A-Nan nghi: nếu "cái thấy" là mình
thì tâm này là ai?
II.- Cái thấy rời tất cả cái tướng.

III.- Cái thấy tức tất cả các pháp.

IV.- Phật trấn tĩnh đại chúng.

V.- Ngài Văn Thù đứng lên thưa hỏi.

VI.- Phật dạy: Cái thấy không có "thị" và "phi thị".

VII.- A-Nan nghi: Chơn tâm đồng với thuyết tự nhiên ngoại đạo.

VIII.- Phật bác cái chấp "tâm tự nhiên mà có".

IX.- A-Nan nghi: Tâm do nhơn duyên sanh.

X.- Phật bác cái chấp "nhơn duyên sanh".

XI.- Phật day: Chơn tâm không thể dùng tâm suy nghĩ hay lời nói luận bàn được .

XII.- A-Nan trở lại nghĩ "nhơn duyên sanh".

XIII.- Phật gạn lại hỏi "cái thấy" để chỉ rõ chơn tâm.

XIV.- Phật chỉ cái "thấy" không phải vọng, song chưa phải là chơn tâm.

XV.- Phật chỉ tâm lần thứ sáu.


--- o0o ---


I.- A-NAN NGHI: NẾU CÁI "THẤY" LÀ MÌNH THÌ THÂN TÂM NÀY LÀ AI?

A-Nan thưa Phật: -Bạch Thế Tôn! Nếu cái "thấy" này thật là "tâm" con, thì thân tâm của con hiện nay đây là ai? Và nếu cái "thấy" thật của con, thì nó phải hiện ở trước, khiến cho con thấy được nó.

Lại nữa, thân tâm, của con hiện nay đây, biết phân biệt được nó (cái thấy), còn nó không biết phân biệt được thân tâm con. Xin đức Thế Tôn mở lòng đại bi chỉ dạy cho kẻ chưa ngộ này.

II.-CÁI THẤY (TÂM) RỜI TẤT CẢ HÌNH TƯỚNG

Phật dạy A-Nan: Ông nói "cái thấy phải ở trước mặt để ông thấy nó", nói như vậy không phải, vì nếu cái "thấy" thật ở trước mặt ông, ông thấy được nó, thì cái "thấy" đó ở chỗ nào phải có nhất định và phải chỉ ra được.

Nay ông ngồi trong rừng Kỳ đà, xem các cảnh vật, đưa tay chỉ ra từng món: chỗ im mát kia là rừng cây, cái sáng chiếu nọ là mặt nhựt, nơi ngăn ngại này là vách, chỗ trống đó là hư không; cho đến cỏ cây hoa lá, các vật lớn nhỏ tuy khác, song đều có hình tướng, có thể chỉ ra được cả. Còn cái "thấy" nếu có ở trước mặt ông, thì ông nên lấy tay chỉ chắc chắn, cái nào là cái "thấy". Nếu hư không là cái "thấy" thì cái gì là hư không? Còn nếu cảnh vật là cái "thấy", thì cái gì là cảnh vật? Đối với các cảnh vật sum la vạn tượng, ông nên chín chắn phân tích rõ ràng, rồi chỉ cho ta xem, cái nào là cái "thấy"cũng như chỉ các vật, không có lầm lộn.

A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con mở tầm con mắt và đưa tay chỉ khắp tất cả, thì đều là "vật" chớ không có cái nào là "thấy". Dù cho bực Bồ tát cũng không thể phân tích ở nơi muôn vật để chỉ riêng cái "thấy" ra được; huống chi chúng con là bậc sơ học thinh văn, làm sao chỉ được.

Phật dạy: Phải lắm!

LƯỢC GIẢI

Tâm không phải cái hình tướng, cũng như vàng không phải là vòng, kiềng, xoa, xuyến v.v...

III. CÁI THẤY (TÂM) TỨC TẤT CẢ PHÁP 

Phật dạy rằng: Này A-Nan! Như lời ông nói: "Trong các cảnh vật, không thể chỉ riêng cái "thấy" ra được "; vậy nay ông đứng trước cảnh vật chỉ lại coi, cái nào không phải là cái "thấy"?

A-Nan thưa: Con hiện đang xem tất cả các cảnh vật, không biết cái nào không phải cái "thấy". Nếu rừng cây kia không phải cái "thấy", thời làm sao thấy được rừng cây. Còn rừng cây là cái "thấy", thì sao gọi là rừng cây. Lại nữa, hư không nếu không phải là cái "thấy", thì làm sao thấy được hư không. còn nếu hư không là cái "thấy", thì sao lại gọi là hư không. Con chín chắn suy nghĩ: cái nào cũng là cái "thấy" cả.

Phật dạy: phải lắm!

Khi đó đại chúng nghe lời Phật nói như vậy, tất cả đều hoang mang lo sợ, vì không biết nghĩa ấy thế nào.

LƯỢC GIẢI

Tâm đã sanh ra các pháp, thì pháp nào cũng là tâm cả: 

Cũng như vàng đã làm ra các đồ trang sức thì món nào cũng là vàng cả.

*

IV. PHẬT TRẤN TĨNH ĐẠI CHÚNG

Phật thấy A-Nan và đại chúng hoang mang, sợ hãi, nên sanh tâm thương xót, liền an ủi A-Nan và đại chúng rằng:

Như-Lai nói chơn thật, chẳng dối trá, không phải như chúng ngoại đạo Mạc-già-lê, nói năng rối loạn không nhất định đâu. Các ông nên bình tĩnh và chín chắn suy xét lại, chớ để cho Như Lai thêm lòng thương xót.

V.- NGÀI VĂN THÙ ĐỨNG LÊN THƯA HỎI

Khi ấy Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử thương cả bốn chúng, nên đứng dậy lạy Phật, cung kính chắp tay và thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Trong đại chúng đây chưa hiểu cái nghĩa: các cảnh vật là cái "thấy" hay không phải cái "thấy"?

Bạch Thế Tôn! Các cảnh vật hiện tiền đây, nếu là cái "thấy", thì phải chỉ ra được; còn nếu không phải cái "thấy", thì đáng lẽ không thể thấy được. Vì trong đại chúng không hiểu nghĩa này thế nào, cho nên mới sợ hãi, hoang mang. Cúi xin đức Như Lai dủ lòng từ bi chỉ dạy cho biết: Các cảnh vật hiện tiền đây, cùng với cái "thấy" này, nguyên là gì? Trong đây không có cái "phải" và cái "không phải".

Đoạn này lý thâm, nên Ngài Văn -Thù mới đứng lên thưa hỏi: người học phải suy xét nhiều mới hiểu được.

Nói cảnh vật và cái thấy, tức là chỉ cả vật chất với tinh thần đồng một thể tánh chơn tâm. Vì chơn tâm thì không thể suy nghĩ và bàn luận được, phải tự ngộ mà thôi, nên nói, "nguyên nó là cái gì?" (vì không thể nói ra được). Bởi nó rời đối đãi thị phi, nên nói "trong đó không có cái phải và cái không phải".

*

VI.- PHẬT DẠY: CÁI "THẤY" KHÔNG CÓ "PHẢI" VÀ "KHÔNG PHẢI" (THỊ, PHI THỊ)

Phật kêu ngài Văn -Thù và Đại chúng, dạy rằng:

- Mười phương các đức Phật và các vị Đại Bồ tát an trụ trong chơn tâm rồi, thời không còn thấy thật có các cảnh vật là căn, trần, thức nữa. Cái thấy cùng với cảnh vật bị thấy, nguyên là "chơn tâm". Đã là chơn tâm, thì đâu còn có "phải" hay "không phải" nữa. Như ông là Văn Thù, vậy có thể nói ông là "thật" Văn Thù hay "không thật" Văn Thù được không?

Văn -Thù thưa: -Bạch Thế Tôn! Chính như thế đó, con là Văn -Thù rồi, thì không thể nói "thật Văn -Thù" được; vì nếu nói "thật Văn -Thù", thì phải nói ông Văn -Thù giả (thứ hai). Song con nay đã là Văn -Thù rồi, thì không thể nói "thật" hay "không thật" được.

LƯỢC GIẢI

Chơn tâm không hai, nên không còn thị và phi đối đãi; không thể nói "quấy" đã đành, mà nói "phải" cũng không trúng. Bởi vì nó ngoài vòng đối đãi, cũng như ông Văn -Thù là Văn -Thù, không thể nói:"thật" hay "không thật" được .

Phật dạy: Cái thấy cùng với cảnh vật bị thấy cũng lại như vậy, đều là thể tánh chơn tâm, vì vọng động mà có ra: thấy nghe và các cảnh vật. Nó cũng như mặt trăng thứ hai, đâu có gì mà nói "phải" hay "không phải". Nghĩa là chỉ có một mặt trăng chánh, (chơn tâm) trong đó không có cái "phải" mặt trăng hay "không phải" mặt trăng.

Nay ông thấy có cái "thấy" và "cảnh vật bị thấy" đó là vọng tưởng; còn đối với thể tánh chơn tâm, thì không còn nói phải hay không phải được. Bởi thế nên chơn tâm nói ra ngoài cái phạm vi "chỉ bày" và "không chỉ bày" của ông rồi. 

LƯỢC GIẢI

Suy nghĩ không tới nói năng không nhằm. Đại ý đoạn này nói: chỉ có một chơn tâm, không thể nói phải hay không phải, nó vượt ra ngoài sự đối đãi và nói năng phân biệt.

Vì vọng động mà sanh ra các vật chất (cảnh) và tinh thần (tâm). Cũng như chỉ có một mặt trăng chánh, không thể nói phải mặt trăng hay không phải mặt trăng; vì lòa mà thấy in tuồng có mặt trăng thứ hai.

*

VII.- A-NAN NGHI "CHƠN TÂM" ĐỒNG VỚI THUYẾT "TỰ NHIÊN" CỦA NGOẠI ĐẠO.

A-Nan thưa: -Bạch Thế Tôn! Ngày trước Phật ở tại núi Lăng Già, có dạy cho ông Đại Huệ Bồ Tát v.v...rằng: "Các chúng ngoại đạo kia thường chủ trương thuyết "tự nhiên sanh", còn ta thời nói "các pháp do nhơn duyên sanh", nên không đồng với thuyết của các ngoại đạo kia". 

Hôm nay nghe lời Phật dạy, thì con hiểu cái "chơn tâm" này in như tự nhiên mà có; chớ không phải "nhơn duyên sanh", vì nó rời tất cả các vọng tưởng điên đảo, không sanh, không diệt. Cúi xin Phật từ bi chỉ dạy cho con ngộ được chơn tâm thường trụ này, mà không lạc vào thuyết "tự nhiên" của các tà đạo.

LƯỢC GIẢI

Cái chơn tâm này, nó tuyệt đối đãi, ngoài thị và phi. Nếu còn chấp có, không, thị và phi, nhơn duyên hay tự nhiên v.v...Đều không trúng cả. Song chúng sanh vì cái mê chấp nhiều đời, cũng như cây chuối nhiều bẹ, lột hết bẹ này, thì nó bày ra bẹ khác. Phật vừa bác xong thị và phi, thì ông A-Nan liền chấp nhơn duyên và tự nhiên v.v...Than ôi! Lưới mê nhiều đời chồng chất, thật khó trong một lúc vẫy vùng ra khỏi!

VIII.- PHẬT BÁC CÁI CHẤP "TÂM TỰ NHIÊN MÀ CÓ"

Phật dạy rằng: Ta đã dùng nhiều phương tiện và thành thật chỉ dạy cho tường tận như thế, mà ông cũng chưa hiểu ngộ, lại còn mê muội chấp là tự nhiên nữa.

A-Nan nếu thật tự nhiên, thì ông phải chỉ rõ cái "thấy" này, lấy gì làm cái thể tự nhiên của nó? Lấy cái "sáng" làm tự nhiên hay lấy cái "tối" làm tự nhiên? Lấy cái "trống không" làm tự nhiên hay lấy cái "ngăn bít" v.v... làm tự nhiên?

A-Nan, nếu lấy cái "sáng" cho là tự nhiên cái thể của nó như vậy, thì khi tối lại, đáng lẽ ông không thấy được tối. Cho đến lấy cái "tối" v.v...làm thể tự nhiên của nó, thì khi sáng đến, cái thấy của ông phải mất, làm sao thấy được cái sáng v.v...

IX.- A-NAN LẠI NGHI TÂM DO "NHƠN DUYÊN SANH"

A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, cái thấy này nếu không phải tự nhiên mà có, thì chắc do nhơn duyên sanh. Con hiểu như vậy chẳng biết có phải không? xin đức Thế Tôn từ bi chỉ dạy.

X.- PHẬT BÁC CÁI CHẤP "NHƠN DUYÊN SANH"

Phật bác rằng: Ông nói "nhơn duyên sanh". Vậy nay ta hỏi ông: Cái thấy này là nhơn duyên cái sáng mà có, hay nhơn duyên cái tối mà có? Nhơn duyên cái trống không mà có, hay nhơn duyên cái ngăn bít v.v...mà có?

A-Nan, nếu nhơn duyên cái sáng mà có, thì khi tối đến, ông phải không thấy được cái tối; còn nhơn duyên cái tối, cái trống, cái bít v.v...cũng vậy.

XI.- PHẬT DẠY: CHƠN TÂM KHÔNG THỂ SUY NGHĨ VÀ LUẬN BÀN ĐƯỢC.

Phật dạy: A-Nan! Ông phải biết: Cái thấy (tâm) này không phải "nhơn", không phải "duyên", không phải "tự nhiên", và cũng không phải "không tự nhiên", không cái "phi", không cái "bất phi", không cái "thị", không cái "phi thị", nó rời tất cả tướng, mà chính là tất cả pháp. Như thế thời ông làm sao để tâm suy nghĩ cho tới, dùng lời nói luận bàn cho kịp và gọi nó bằng thứ gì được. (ly ngôn thuyết tướng, ly tâm duyên tướng, ly danh tự tướng).

Nếu ông để tâm suy nghĩ và dùng lời nói luận bàn, thì cũng như người quơ tay chụp bắt hư không; chỉ thêm mệt nhọc, chớ làm sao mà chụp bắt hư không cho được.

LƯỢC GIẢI

Đến chỗ cao siêu tuyệt diệu, thì không còn suy nghĩ, luận bàn được; nếu còn suy nghĩ luận bàn được thì không phải là cao siêu tuyệt diệu.

Bởi thế nên Đức Thích Ca đóng cửa thất tại nước Ma-Kiệt, ông Duy-Ma-Cật ngậm miệng tại thành Tỳ-Da-Ly, Tổ Đạt-Ma ngồi tại chùa Thiếu Lâm, quay mặt vô vách chín năm, không nói một lời, đều vì cái lý cao siêu, không thể luận bàn được.

*

XII.- A-NAN TRỞ LẠI NGHI "NHƠN DUYÊN SANH"

A-Nan thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Cái "thấy" này nếu không phải "nhơn" không phải "duyên", tại sao đức Thế Tôn thường cùng với các thầy Tỳ-kheo nói: "Cái thấy phải đủ bốn duyên mới sanh"; như nhơn hư không, ánh sáng, tâm và con mắt mới sanh. Vậy nghĩa này thế nào?

Phật dạy rằng: Này A-Nan, ta nói thuyết nhơn duyên, là đứng về phần sự tướng (hiện tượng), chỉ các pháp trong thế gian mà nói, chớ không phải chỉ cho lý tánh tuyệt đối (bản thể) vậy.

LƯỢC GIẢI

Về phương diện pháp tướng (mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu, gọi là phần hiện tượng) nói về "thức", thì Phật nói có căn, trần, thức và nhơn duyên v.v...Còn đứng về phương diện pháp tánh (mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu, gọi là phần bản thể) thì không còn danh tướng, nói năng kêu gọi hay suy nghĩ được.

Bởi thế nên trong kinh, Phật nói: "Đạo ta cao siêu không thể suy nghĩ và luận bàn được". Kinh này là nói về phần lý tánh tuyệt đối.

*

XIII.- PHẬT GẠN HỎI LẠI CÁI "THẤY" ĐỂ CHỈ RÕ CHƠN TÂM 

Phật hỏi: Này A-Nan! Bây giờ ta hỏi ông: Người đời thường nói "tôi thấy". Vậy thế nào là "thấy" và thế nào là không "thấy"?

A-Nan thưa: Người đời nhơn có ánh sáng mới thấy được cái vật, thì gọi là "thấy"; còn không có ánh sáng, chẳng thấy các vật, thì bảo rằng "không thấy"

Phật dạy: Nếu không có ánh sáng mà bảo là không thấy, thì khi tối đến đáng lẽ ông cũng không thấy được cái "tối"? Còn như ông thấy được cái "tối", thì khi đó chẳng qua không có ánh sáng mà thôi, chớ sao lại nói "không thấy"?

Lại nữa, nếu khi tối ông không thấy được cái "sáng", mà ông cho là thấy, thì khi sáng ông không thấy được cái "tối", đáng lẽ cũng phải bảo là không thấy mới phải. Như vậy,thời "tối" và "sáng" cả hai đều phải bảo là "không thấy" hết.

Bởi thế, ông nên biết: "tối" và "sáng" hai món trần tướng nó tự thay đổi với nhau, còn cái "thấy" của ông lúc nào cũng có. Vậy thì thấy "tối" và "sáng" đều gọi là thấy cả, tại sao khi thấy tối, ông nói "không thấy"?

XIV.- PHẬT CHỈ CÁI THẤY KHÔNG PHẢI VỌNG, SONG CHƯA PHẢI LÀ CHƠN TÂM  

(Đoạn này nguyên ở trước, nay dịch giả đem lại đây cho thuận nghĩa).

Phật dạy A-Nan rằng: -Cái "thấy" của ông đó, không phải là vọng, song chưa phải là "chơn tâm". Nó cũng như mặt trăng thứ hai (do lòa con mắt mà có) tuy không phải bóng mặt trăng dưới nước, nhưng chưa phải là mặt trăng chánh.

LƯỢC GIẢI

Mặt trăng chánh là dụ cho chơn tâm, mặt trăng thứ hai là dụ cho cái thấy, nghe v.v...các giác quan về phần trực giác. Bóng mặt trăng là dụ cho vọng tưởng phân biệt. 

Đại ý đoạn này nói cái "thấy" không phải vọng tâm, nhưng cũng chưa phải là chơn tâm, nghĩa là nó gần với chơn tâm mà thôi. Cũng như mặt trăng thứ hai do lòa con mắt mà có, nó không phải bóng mặt trăng dưới nước, nhưng cũng chưa phải là mặt trăng chánh.

*

Phật dạy: A-Nan, ông phải biết: Khi ông thấy sáng, thì cái "thấy" của ông không phải là cái "sáng"; khi ông thấy tối, cái "thấy" của ông không phả là cái "tối"; khi ông thấy trống không, cái thấy của ông không phải là cái "trống không"; khi ông thấy ngăn bít cái "thấy" của ông không phải là cái "ngăn bít".

LƯỢC GIẢI

Nói cái "thấy" chớ kỳ thực là chỉ chung cho cả cái "nghe, hay, biết". Nói "sáng, tối, trống, bít" là chỉ chung cho các cảnh vật.

Đại ý bài này nói: Khi thấy các cảnh vật, thì cái "thấy" không phải là cảnh vật.

*

XV.-PHẬT CHỈ CHƠN TÂM LẦN THỨ SÁU. 

Phật dạy:- Ông đã hiểu rõ bốn nghĩa này rồi, ông nên hiểu thêm lên một tầng nữa: Khi "chơn tâm đã khởi ra cái "thấy" (cái giác quan ), thì cái "thấy" không phải là "chơn tâm"; cái "thấy" còn cách biệt với chơn tâm, (vì còn một lớp mê), cái "thấy" không thể bì kịp với "Chơn tâm "" (đoạn này Phật mới chỉ chính xác cái chơn tâm)

LƯỢC GIẢI

Mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu: khi bản thể (tâm) khởi ra hiện tượng ( các giác quan) thì hiện tượng không phải là bản thể, hiện tượng còn cách biệt với bản thể, hiện tượng không thể bì kịp bản thể. Cũng như khi nước đã biến thành sóng, thì sóng không phải hoàn toàn là nước, sóng còn xa biệt với nước (vì bị gió xao động), sóng không thể bì kịp nước.

Đành rằng "tâm" cùng với cái "thấy" v.v...không hai, nhưng vì mê nên tâm biến ra các giác quan thấy nghe hay biết. Lúc bấy giờ cái thấy nghe hay biết, không phải là chơn tâm. Ngộ rồi thì cái thấy nghe hay biết mới gọi là "chơn tâm". Song khi chưa ngộ thì không thể nói cái thấy, nghe v.v...Các giác quan là chơn tâm được.

Cũng như nước với sóng không khác, nhưng vì gió động nên nước biến thành sóng; lúc bấy giờ sóng không phải là nước, nước cách biệt với sóng. Đến khi hết gió xao động thì sóng trở lại thành nước. Nhưng khi còn động thì không thể nói sóng đó là nước. * Như thế thời ông làm sao lại nói là "nhơn duyên, tự nhiên, hòa hợp, và phi hòa hợp" được. Các ông là hàng Thanh văn, trí thức hẹp hòi, không thông hiểu được thật tướng (chơn tâm). Ta đã chỉ dạy nhiều lần rồi, vậy các ông nên khôn khéo suy nghĩ và cố gắng tiến lên tu hành, chớ nên giải đãi trên con đường Bồ đề.

 
🙏🙏🙏
Kính mời xem tiếp:
🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
Đánh máy: Trang nhà Thư Viện Hoa Sen:  https://thuvienhoasen.org
Sửa lỗi bản đánh máy: Phật tử Thanh Phi
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2020(Xem: 6089)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
12/07/2020(Xem: 6282)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4678)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8572)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 5877)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 6043)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 17918)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5166)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 5782)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 8963)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567