Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài thứ 3: A-nan cầu Phật dạy phương pháp tu hành, lần thứ hai (do HT Thiện Hoa biên soạn, Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên diễn đọc)

24/04/201318:33(Xem: 17470)
Bài thứ 3: A-nan cầu Phật dạy phương pháp tu hành, lần thứ hai (do HT Thiện Hoa biên soạn, Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên diễn đọc)

Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa


PHẬT HỌC PHỔ THÔNG KHÓA VI

TRIẾT LÝ ĐẠO PHẬT
hay là
ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM

--- o0o ---

BÀI THỨ BA

A-nan cầu Phật dạy
phương pháp tu hành, lần thứ hai


Hòa Thượng Thích Thiện Hoa biên soạn

Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên diễn đọc

 






--- o0o ---


I.- A-NAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ HAI.


Ông A-nan đã bảy lần chỉ tâm đều không trúng, vì ông chấp vọng tưởng là tâm, nên bị Phật bác cả, lần thứ hai ông đứng dậy chắp tay kính lạy, cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành để thoát ly sanh tử luân hồi.

A-nan thưa rằng: -Bạch Thế Tôn! Con là em Phật, tuy đã xuất gia, mà vẫn còn ỷ lại lòng thương yêu của Phật chỉ lo học rộng nghe nhiều, không chuyên tu niệm, nên không chứng được đạo quả, chẳng hàng phục nổi tà chú của ngoại đạo Ta-Tỳ-Ca-La; trái lại, còn bị Ma Đăng già bắt vào phòng dâm...phải nhờ Phật cứu độ. Vậy cúi xin Phật từ bi chỉ dạy cho con phương pháp tu hành, để phá trừ ác kiến và chứng thành đạo quả.

Thưa thỉnh xong, A-nan và đại chúng kính cẩn và trông chờ lời Phật chỉ dạy.


II.- PHẬT GẠN HỎI TÂM LẦN THỨ HAI.

Lúc bấy giờ Phật gạn hỏi lại cái "tâm" lần thứ hai, và bảo ông A-nan phải phân biệt rành rõ cái nào là chơn tâm, và cái nào là vọng tâm.

Phật dạy: Ông nay muốn đặng đạo vô thượng Bồ đề, thì điều cần nhứt là phải hiểu rõ hai món căn bản:

Một căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm.
Một căn bản của Bồ đề, Niết bàn, là chơn tâm.
Nếu ông nhận lầm căn bản của sanh tử (vọng tâm) làm nhơn tu hành, thì không bao giờ giải thoát được. Cũng như người nhận giặc làm con, thì chỉ thêm bị phá hoại gia sản của mình mà thôi. Và cũng như người nấu cát làm cơm, dầu trải bao nhiêu năm cũng chẳng thành cơm được.

Vậy nay ông muốn biết đường lối tu hành để ra khỏi sanh tử luân hồi, thì ông hãy nghe tôi hỏi đây:

Phật liền đưa bàn tay, co năm ngón tay lại và hỏi ông A-nan rằng: Ông có thấy không?

A-nan đáp: Bạch Thế Tôn, thấy.

Phật hỏi: -Ông thấy cái gì?

Anan đáp: Con thấy Phật đưa bàn tay co năm ngón lại.

Phật hỏi: Ông lấy cái gì để thấy và lấy cái gì làm tâm?


III.- A-NAN CHẤP CÁI "SUY NGHĨ PHÂN BIỆT" LÀM TÂM

A-nan thưa: con lấy "mắt" để thấy và cái "biết suy nghĩ phân biệt" làm tâm .

Phật quở: Dốt lắm, A-nan! cái đó không phải là tâm của ông.

LƯỢC GIẢI

Chúng ta nên lưu ý: Thông thường ai cũng đều có cái "suy nghĩ phân biệt" là tâm của mình, mà Phật lại nói "không phải tâm". Vậy chúng ta cần phải chính chắn suy xét chỗ đó.

* * *

A-nan hoảng hốt, đứng dậy thưa Phật: Bạch Thế Tôn, cái "suy nghĩ, phân biệt" này, nếu không phải là tâm của con thì gọi nó là cái gì?

Phật dạy: nó là "vọng tưởng" (vọng tâm). Bởi các ông từ hồi nào đến giờ, lầm nhận "vọng tưởng" làm "chơn tâm", cho nên nhiều kiếp trầm luân. Như người nhận giặc làm con, nên bị giặc phá hại.

A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, con vì thương Phật nên mới xuất gia, thì con mới dùng cái tâm này mà thương Phật. Con phụng thờ các đức Phật trong mười phương và làm tất cả các điều công đức, cũng dùng cái tâm này. Dầu cho con có làm các điều tội lỗi, hủy báng Phật pháp, đọa vào địa ngục đi nữa, thì con cũng dùng cái tâm này. Ngày hôm nay Phật nói "nó" không phải tâm của con, như thế thành như con không có tâm; nếu không có tâm, thì con đồng như cây, đá rồi ! Cúi xin đức Thế tôn từ bi chỉ giáo.

Phật dạy rằng: Này A-nan nếu ông chấp cái "suy nghĩ, phân biệt" là tâm của ông, thì khi rời cảnh vật hiện tiền, cái tâm "hiểu biết, phân biệt" ấy, cũng vẫn còn, thế mới phải là tâm của ông. Nếu rời cảnh vật hiện tiền, mà tâm hiểu biết phân biệt ấy mất đi, thì không phải là chơn tâm của ông rồi.

Dầu cho ông diệt hết năm tri giác bên ngoài là thấy, nghe, hay, biết (năm giác quan), chỉ còn lưu lại cái "âm thầm phân biệt" bên trong (thức thứ sáu) thì đó cũng là cái vọng tưởng phân biệt (ý thức thứ sáu) bóng dáng pháp trần không phải là chơn tâm của ông.

Này A-nan, tôi không bắt buộc ông phải chấp cái "suy nghĩ phân biệt" đó là không phải tâm của ông; tôi chỉ bảo ông nên chính chắn suy xét: nếu rời cảnh vật hiện tiền, mà cái "suy nghĩ phân biệt" này vẫn còn, thì mới phải thật là chơn tâm của ông.

Còn nếu rời khỏi cảnh vật hiện tiền, mà cái "suy nghĩ phân biệt" này cũng mất luôn đi, thì rõ ràng nó là cái "vọng tưởng phân biệt " (vọng tâm) bóng dáng của sáu trần, chớ không phải là "chân tâm thường trụ" của ông vậy.

Nếu ông nhận cái "hư vọng phân biệt sanh diệt" ( vọng tưởng) này làm tâm của ông, thì khi cảnh vật hiện tiền qua rồi, tâm ấy cũng theo cảnh vật mà diệt đi. Lúc bấy giờ thành ra ông không có tâm rồi. Nếu không có tâm, thì ông lấy cái gì để tu hành, và thành đạo chứng quả.

Ông phải biết rằng: trong thế gian tất cả người tu hành, không được thành đạo, đều do chấp lầm cái "vọng tưởng sanh diệt" (vọng tâm) này làm chân thật (chơn tâm).

Chính ông ngày nay cũng thế, nên tuy học nhiều mà không được quả Thánh.


IV.- A-NAN CẦU PHẬT CHỈ DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ BA.


A-nan cùng Đại chúng, nghe Phật nói như vậy, đều ngẩn ngơ và im lặng.

Lúc bấy giờ ông A-nan cúi đầu lạy Phật, quỳ gối chắp tay vừa khóc lóc, vừa bạch Phật rằng: Con từ khi xuất gia theo Phật đến nay, vì ỷ lại là em của Phật, tin chắc sẽ nhờ oai thần Phật ban cho đạo quả, chẳng cần tu hành cực nhọc, không ngờ ai tu nấy chứng, không thể thay thế cho nhau được.

Hôm nay con mất "bản tâm" đi rồi, thân tuy xuất gia mà tâm chẳng vào đạo, chẳng khác nào đứa cùng tử bỏ cha trốn đi.

Nay con mới biết học nhiều mà không tu cũng như người không học và cũng như người nói đến đủ các thức ăn, rốt cuộc trong bụng vẫn đói.

Bạch Thế Tôn, chúng con vì hai chướng phiền não và sở tri ràng buộc, nên không ngộ được chơn tâm. Cúi in đức Thế Tôn thương xót kẻ bần cùng, chỉ dạy cho con phương pháp tu hành, để phát minh được tâm tánh.


V.- PHẬT CHỈ CÁI "THẤY" THƯỜNG CÒN

Khi ấy Phật kêu A-nan , dạy rằng: -Vừa rồi ông nói "thấy năm ngón tay của ta co nắm lại". Vậy thì sao có nắm tay? Và nhờ cái gì mà có cái thấy?

A-nan thưa: -Bạch Thế Tôn, nhơn bàn tay của Phật co năm ngón lại, nên mới có nắm tay, và nhờ con mắt cho nên mới có cái thấy.

Phật hỏi: Vậy thì "không bàn tay chẳng có ngón tay, cũng như không con mắt thời chẳng có cái thấy "; so sánh như thế có đúng không?

A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, đúng.

Phật dạy: Không đúng hẳn! Không bàn tay thì không có nắm tay thì phải, không con mắt chẳng phải cái "thấy" không có.

Ông nên ra ngoài đường hỏi những người mù mắt: "Các người có thấy gì không?", thì họ đều trả lời với ông rằng: "Chỉ thấy tối đen". Như thế thì rõ ràng: Người mù không có con mắt, mà cái "thấy" cũng vẫn còn.

Đây là cái bằng chứng: Mặc dù con mắt không có, và trần cảnh đối trước có tối và sáng khác nhau, nhưng cái thấy lúc nào cũng có (nói cái thấy là đại diện cho năm giác quan).

A-nan thưa: Người mù thấy tối, thì sao gọi là thấy được?


VI.- PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ NHỨT

Phật hỏi A-nan: Người sáng mắt ở trong nhà tối thấy tối, cùng với người mù mắt thấy tối, vậy hai cái tối đó có khác nhau không?

A-nan thưa: -Bạch Thế Tôn! Không khác.

Phật hỏi: Ở trong nhà tối thấy tối, nếu có người đem đèn vào, họ thấy được các vật, vậy cái đèn thấy hay con mắt thấy?

A-nan thưa: Mắt thấy chớ không phải đèn thấy.

Phật dạy: Cũng thế, người mù mắt khi lột mây rồi, thấy được các cảnh vật, đó là tâm thấy chớ không phải mắt thấy.

Phật dạy tiếp: -Cái đèn chỉ làm cho sáng các vật, còn cái thấy là con mắt (dụ cho tâm) chớ không phải đèn ( dụ con mắt ). Lên một tầng nữa: con mắt chỉ làm cho tỏ rõ các vật, còn cái thấy là tâm, chớ không phải con mắt (đây là lần thứ nhứt Phật chỉ tâm ).

A-nan và đại chúng nghe Phật giảng dạy như thế rồi, đều im lặng, nhưng trong tâm thật chưa hiểu, nên đều kính cẩn chắp tay, để chờ Phật chỉ dạy thêm.

LƯỢC GIẢI

Trong đoạn này, xin nói thêm tỷ dụ này cho dễ hiểu: Con mắt của người cũng như bóng đèn điện, còn cái "thấy" của người cũng như điện. Khi dây đứt ( dụ dây thần kinh đứt ) bóng hư ( dụ mắt mù ) thì đèn không cháy, chớ không phải điện mất (không cái thấy ). Đến khi thay bóng mới nối dây lại, thì điện cháy trở lại: không phải do bóng hay do dây mới có điện.

Cái “thấy” của người cũng thế: khi mắt bị mây che thì chỉ thấy tối, chớ không phải cái "thấy" mất, đến khi lột mây rồi, thì cái "thấy" hiện ra, không phải do con mắt mới có cái thấy. Đoạn này Phật chỉ rõ cái "thấy" là tâm.

* * *

VII.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ HAI

Khi đó Phật đưa bàn tay lên, năm ngón co lại rồi mở ra và hỏi ông A nan:-Ông có thấy cái gì không?

A -nan thưa:-Thấy Phật đưa tay lên co vào rồi mở ra.

Phật hỏi: Tự cái tay của ta co mở, hay "cái thấy" của ông co mở?

A-Nan thưa:- Tự tay Phật co mở, chứ "cái thấy" của con không co mở.

Phật khen: Phải lắm.

Phật lại phóng một đạo hào quang trên vai phía mặt của A nan: A-Nan liền xoay đầu ngó về phía bên mặt. Phật lại phóng hào quang trên vai phía trái của A-Nan; A-Nan xoay đầu ngó qua phía trái.

Phật hỏi: Cái đầu của ông hôm nay tại sao xoay qua lắc lại như vậy?

A-Nan thưa: Vì Phật phóng hào quang trên hai vai của con, nên con xoay qua lắc lại để xem.

Phật hỏi: Vậy cái đầu của ông lắc, hay cái thấy của ông lắc?

A-Nan thưa: Tự cái đầu con xoay qua lắc lại, chớ cái thấy của con không có xoay lắc.

Phật hỏi: -Cái nào động, cái nào tịnh?

A-Nan thưa:- Cái đầu của con có động và tịnh (dừng) chứ cái thấy của con không có động và tịnh.

Phật nói: Phải

Phật dạy tiếp:- Cái nào có co, có mở, có động, có tịnh, có sanh, có diệt, thì cái đó là vọng, thuộc về "khách" không phải ông. Còn cái nào không động tịnh, co mở, không sanh diệt, thì cái đó là "chơn", thuộc về "chủ" chính là ông. Như thế chơn và vọng rất rõ ràng, ông còn chưa hiểu hay sao!

Tại sao từ hồi nào đến giờ, các ông cứ nhận cái vọng-thân tứ đại giả hợp này, cho là thật "thân" của mình; cái vọng trưởng sanh-diệt này, cho là thật "tâm" của mình; cảnh vật giả tạm, cho là thật "cảnh" của mình, mà lại bỏ cái chơn tâm thường còn bất sanh bất diệt của mình sẵn có kia đi? Bởi thế nên các ông phải nhiều kiếp sanh tử luân hồi, thật là rất oan uổng!


LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật chỉ cái "thấy" không co mở, và không sanh, diệt, động, tịnh, đó là chơn tâm lưu lộ.

* * *

VIII.-A NAN CẦU PHẬT CHỈ DẠY Ở NƠI THÂN NÀY CÁI NÀO "CHƠN", CÁI NÀO "VỌNG".


Khi ấy A-Nan và đại chúng được nghe Phật tạm chỉ "cái thấy không động tịnh co mở là Tâm", nên tất cả đều hớn hở vui mừng, và nghĩ rằng: Từ vô thỉ đến nay, tự mình làm mất bản tâm, nhận cái vọng tưởng phân biệt theo bóng dáng của trần cảnh làm tâm, ngày hôm nay mới ngộ được Tâm mình, nên hết sức vui mừng. Cũng như đứa con nhỏ khát sữa đã lâu, nay được gặp bà từ mẫu, nên ông và đại chúng cầu Phật chỉ rõ ở nơi thân tâm hiện tiền đây, cái nào chơn thật không sanh diệt và cái nào hư vọng có sanh diệt.


IX.-VUA BA TƯ NẶC ĐỨNG DẬY HỎI TIẾP

Khi ấy Vua Ba-tư nặc đứng dậy thưa Phật:-Bạch Thế Tôn, lúc trước chưa thọ giáo với Phật , con nghe phái ngoại đạo Ca- chiên- diên và Tỳ -la- chi- tử đều nói: "Thân này sau khi chết rồi mất hẳn, gọi là Niết bàn".

Hôm nay con tuy được Phật chỉ dạy, nhưng vẫn còn hồ nghi: làm sao biết rõ và chứng chắc cái tâm này không sanh diệt. Xin Phật từ bi chỉ dạy cho chúng con.

X.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ BA

Phật hỏi:-Đại vương! Cái thân của ông hiện tại đây, nó bền chắc như ngọc kim cương, còn mãi không hư hoại, hay là phải hoại diệt?

Vua đáp:- Bạch thế tôn, thân con ngày nay đây, rốt cuộc rồi cũng bị hoại diệt.

Phật hỏi:-Ông chưa chết, làm sao biết nó sẽ bị hoại diệt?

Vua đáp:- Bạch thế tôn, cái thân vô thường của con đây, tuy chưa chết, nhưng hiện tiền nó đã tàn tạ dần! Ngày qua, rồi lại ngày qua! Mỗi niệm qua, qua từ sát na (tíc- tắc ) không dừng!...cũng như củi đốt thành tro, cháy dần cho đến lúc tiêu tan! Vì thế nên con biết, thân này nhứt định sẽ tiêu diệt.

Phật nói:- Phải!

Phật lại hỏi:-Đại vương! Thân thể ông đâu phải tiêu diệt liền bây giờ?

Vua đáp:- Bạch thế tôn, ngày qua tháng lại, hết hạ đến đông, nó thầm già chết, cho đến ngày nay, đầu bạc răng rụng, chân lỏng gối dùn, mắt mờ tai lảng, già nua đến thế này, mà con thật không hay không biết!

Bạch thế tôn, khi con hai mươi tuổi, tuy nói rằng tuổi trẻ, thật ra nhan sắc đã già hơn khi mười tuổi. Khi ba mươi tuổi lại già hơn khi hai mươi tuổi. Cho đến ngày nay, sáu mươi hai tuổi, lại già hơn khi năm mươi tuổi.

Nó âm thầm già chết, lấy trong khoảng thời gian mười năm mà nói như vậy. Nếu chín chắn suy nghĩ, thì cái già, chết này, không phải hạn định trong khoảng mười năm hay hai mươi năm, mà thật ra, mà nó già từng năm, từng tháng, từng ngày. Nếu suy nghĩ kỹ hơn nữa, thì nó già, chết từng phút, từng giây và từng sát na ( tíc tắc )! Năm nay già hơn năm rồi, tháng này già hơn tháng trước, ngày hôm nay già hơn ngày hôm qua, giờ này già hơn giờ trước. Phút này già hơn phút trước, cho đến sát na này cũng già hơn sát na trước. Thế nên con biết, thân này rốt cuộc rồi cũng tiêu diệt.


LƯỢC GIẢI

Cũng như cái đồng hồ, vì có chạy từng giây, cho nên mới qua từng phút. Bởi có đi từng phút, nên mới chỉ đến từng giờ, và ngày v.v...thân này già chết cũng thế.

* * *

Phật hỏi:-Đại vương ! Ông thấy cái thân thể của ông âm thầm già chết như thế, nên ông lo buồn; vậy ở nơi thân thể sanh diệt, già chết này, ông có biết được cái gì chẳng sanh diệt già chết không?

Vua Ba Tư Nặc chắp tay cung kính thưa:-Bạch thế tôn, con thật không biết?


XI.-PHẬT CHỈ CÁI "THẤY" KHÔNG SANH DIỆT


Phật dạy rằng: -Tôi nay chỉ cho ông thấy cái không sanh diệt.

Này đại vương, khi ông mấy tuổi mới thấy được nước sông hằng?

Vua đáp:- khi lên ba tuổi, con được mẹ bồng đến yết kiến thành Tỳ bà thiên ( thành trường thọ ) đi ngang qua sông này, nên lúc bấy giờ, con đã thấy được sông hằng.


Phật hỏi:-Hôm nay ông thấy sông hằng, vậy cái "thấy" đó là khác không?


Vua thưa:- khi con ba tuổi thấy sông hằng, đến lúc ba mươi tuổi và nay được sáu mươi hai tuổi thấy sông hằng cũng đều không khác.

Phật dạy: Ngày nay ông lo buồn cho thân ông già yếu, đầu bạc mặt nhăn, không được như lúc còn trẻ. Vậy nay sáu mươi hai tuổi, ông xem thấy sông hằng, cùng với khi còn trẻ thấy sông Hằng, cái "thấy" đó có già trẻ chi không?

Vua Ba- tư- nặc thưa: Bạch Thế Tôn , cái "thấy" không có già trẻ.


Phật dạy, này Đại vương thân thể mặt mày ông tuy già, vậy cái nào có già, thì cái ấy sẽ bị biến đổi, tiêu diệt; còn cái nào không già, thì cái đó không bị biến đổi tiêu diệt. Nó đã không sanh diệt, thì đâu có bị ông làm cho nó sanh tử luân hồi được. Rõ ràng như thế, ông không hiểu sao mà còn dẫn lời của ngoại đạo Mạt -già -Lê nói: thân này chết rồi hoàn toàn diệt mất?


Vua cùng đại chúng nghe Phật dạy rồi, đều biết rằng: Người chết rồi, là tâm bỏ thân này thọ thân khác, không phải mất hẳn. Ai nấy đều hớn hở vui mừng vì đặng lợi ích chưa từng có.


LƯỢC GIẢI

Đọan này Phật chỉ thấy không già trẻ, sanh diệt đó là Tâm





🌷🍀🌷🌸🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/06/2024(Xem: 860)
Đọc tụng Chú Đại Bi chẳng phải để cầu phước mà nương theo oai lực của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát để tạo an vui lợi lạc cho đời. Do đó, theo học hỏi riêng tư: -Khi đến chùa, với tâm Đại Bi bạn sẽ không thấy ai là Phật tử thông minh, ai là Phật tử ngu độn. Bạn sẽ không thấy ai là Phật tử giàu sang, ai là Phật tử nghèo hèn. Bạn sẽ không thấy ai đẹp mà cũng chẳng thấy ai xấu. Bạn nhớ lời Phật dạy trong Kinh Viên Giác, “Không kính người trì giới, không ghét người phá giới, không trọng người học lâu, không khinh người mới học. Vì sao vậy? Tất cả là tính giác. Ví như con mắt sáng, thấy rõ cảnh trước mắt. Cái sáng ấy tròn khắp, không có yêu, không có ghét.”
04/06/2024(Xem: 1538)
“Kiếp xưa ắt có nhân duyên, Nếu không ai dễ chống thuyền gặp nhau”. HT đã giới thiệu, trên 50 năm tôi rời khỏi Huế từ Tết Mậu Thân đi du hóa, tu học phương xa, luôn vọng về quê hương đất Tổ, nơi chôn nhau cắt rốn của Tổ tiên ông bà, nơi đã có nhiều kỉ niệm của thuở ấu thơ tu học tại Huế, sinh hoạt tại Huế, trên 50 năm vắng mặt, chỉ có năm này với tuổi đã 87, năm nay Lễ Phật Đản của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức tại Chùa Phật Ân, cử hành sớm vào ngày 12 vừa rồi
04/06/2024(Xem: 2805)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
30/04/2024(Xem: 2547)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3079)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 6025)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2226)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
19/12/2023(Xem: 8186)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 14959)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com