Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 8

25/04/201319:10(Xem: 4190)
Quyển 8

Long Thơ Tịnh Độ

Dịch giả: HT Thích Hành Trụ

--- o0o ---

QUYỂN TÁM

CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ

ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU SOẠN

LỜI ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU NÓI

Thế giới Cực Lạc, tuy cách cõi này tới trăm vạn thế giới. Luận về sự tích, thời không xiết kể sự xa. Song nói về Huệ tánh của Phật, vì trùm cả hư không thế giới, không chỗ nào không có cho nên tất cả chúng sinh ý, tư tưởng, hành vi cử động, đều là ở trong tánh Phật cả. Nên người chí tâm khẩn thiết, không có một việc nào mà chẳng ứng nghiệm, cho nên quyển này đặt là quyển “HIỆN THẾ CẢM ỨNG”.

KIẾN SÁT SINH NIỆM PHẬT ĐẮC PHƯỚC

Trong bộ Quan Âm cảm ứng có chép rằng Đất Nhiêu Châu người trong số lính là người Trịnh Lân, chết hồi đến âm phủ, Diêm Vương chiếu bộ nghiệm tra, do bắt lầm lại tha về. Vua Diêm Vương bảo rằng Ngươi trở về nhân gian gắng sức làm lành, thấy ai sát sinh, ngươi phải niệm Phật A Di Đà cùng Quan Thế Âm Bồ tát, con vật kia đặng đầu thai, ngươi cũng đặng phước lớn, và cũng một phần giúp cho ta khỏi mất công trị người ác. Do đây suy xét đủ thấy người niệm Phật A Di Đà đã siêu độ được vong giả lại được tăng thêm phước thọ, chẳng những thế thân sau lại đặng sinh Tây phương vậy.

ÔNG TRẦN KHÍ NIỆM PHẬT TRỪ QUỶ

Ông Vương Nhựt Hưu nói Ông Trần Khí ở đất Vọng Giang là người đồng quận với ta, thường giết oan mạng người. Sau thấy quỷ hiện. Khí sợ hãi, lật đật niệm Phật A Di Đà, quỷ không dám gần. Trần Khí niệm Phật không thôi, quỷ bèn không hiện. Sau thường niệm Phật, lúc lâm chung ngồi mà quá vãng. 

Sau nửa năm, dựa nhập đứa cháu gái tên Diệu Quang trong nhà, nói rằng Ta nhờ niệm Phật A Di Đà, đã sinh về thế giới Cực Lạc, cử động nói năng y như lúc còn sống, bà con kẻ quen biết đều đến viếng thăm cả hai ba ngày.

Người trong gia quyến nói Tiếc vì lúc nó còn sống, không vẽ được chân dung của nó để thờ cúng. Trần Khí nghe nói, liền hiện nguyên hình như lúc còn sống, nhưng cái nét mặt có phần tươi trẻ hơn. Bởi người sinh Tây phương sống hoài không chết, tóc đầu người ấy giống như tóc Phật, số là người ấy đã gần thành Phật vậy.

Sự tích này do kẻ sĩ nhân ở đất Vọng Giang là ông Châu Hiến Thúc, vì ta thuật lại.

TRƯU TÂN VƯƠNG NIỆM PHẬT MỘNG GIÁC

Ông Vương Nhựt Hưu nói Ta từng khuyên kẻ sĩ nhân đất Trấn Giang, là ông Trưu Tân Vương, thuyết tu Tây phương.

Ta nói Nếu không rảnh rang, thì cứ mỗi bữa sớm mai chắp tay quay mặt về hướng Tây, niệm Nam Mô A Di Đà Phật mười biến cũng đặng.

Tân Vương tin đó, một hôm nọ nằm chiêm bao, thấy cùng với một sĩ nhân, đang dẫn ông đi đến pháp trường. Tân Vương trong cơn sợ hãi, liền niệm Phật A Di Đà đến mười tiếng, bèn thức dậy.

Đâu chẳng phải là Phật dùng đây, làm cho người kia tín tâm kiên cố ư.

TRƯƠNG KẾ TỔ NIỆM PHẬT CẦU SIÊU VONG

Ông Vương Nhựt Hưu nói Ta từng cùng kẻ sĩ nhân đất Trấn Giang là ông Trương Kế Tổ, nói việc Tây phương. Kế Tổ tin đó, bà nhũ mẫu của ông chết, ông thường vì niệm Phật A Di Đà cầu siêu. 

Một hôm ông nằm chiêm bao thấy nhũ mẫu ông về, mượn y Bạch Điệp mặc, đến tạ ơn Kế Tổ mà từ biệt đi về Tây phương.

Xem đây nên biết phép niệm Phật cầu siêu vong giả thật rất linh vậy.

LƯU HUỆ TRỌNG NIỆM PHẬT AN GIẤC

Ông Vương Nhựt Hưu nói Ông Lưu Huệ Trọng là bạn tri thức ta ngày trước, người làng Trường Hưng quận Hồ Châu. Do mỗi hôm nằm mộng thường sợ sệt, ta khuyên niệm Phật A Di Đà. 

Huệ Trọng chí thành cao tiếng niệm 108 biến, đêm đó bèn ngủ yên. Ngày sau cũng niệm như ngày trước, từ đây đều đặng ngủ yên. Do đây ta thấy Phật lực rộng lớn không chỗ nào mà Ngài không che chở.

Sự tích này ta đã kể bày quyển trước nơi bài niệm Phật “An tịnh hình thân” rồi vậy.

BÀ NGUYỄN TẨU NIỆM PHẬT MẮT SÁNG

Ông Vương Nhựt Hưu nói Có bà Nguyễn Niệm Tam Tẩu ở tỉnh Điền Trang, huyện Hoài Ninh đồng quận với ta, đau hai con mắt gần mù, thường niệm Phật A Di Đà và cặp mắt bà đặng sáng lại.

Sự tích này chính ta được thấy đó.

VUA DIÊM VƯƠNG KHUYÊN TƯƠNG BÀ NIỆM PHẬT

Đất Trấn Giang huyện Kim Đàng, làng Chu Lâm có bà Tương Bà tuổi cỡ 70, chết đến âm phủ, song mạng chưa hết, được vua Diêm La cho về và hỏi Ngươi có tụng kinh chăng ? Đáp rằng Tụng không được.

Vua nói Không tụng kinh thời ngươi cứ niệm Phật A Di Đà cũng được.

Đã tha về bấy giờ bà Tương Bà thuật chuyện vua Diêm La dạy ta niệm Phật, ta không còn nghi nữa, cho nên bà thường niệm danh hiệu Phật đây gần trăm hai tuổi mới qua đời.

Bà sinh Tịnh độ chắc chắn quyết định vậy. Đâu chẳng phải do bà niệm Phật, mà lại sống dai ư! Nếu không phải thì vì lẽ gì mà bà sống được lâu vậy ? 

Sự tích này do kẻ sĩ nhân, huyện Kim Đàng là ông Trương Duyên Chi, vì ta thuật lại.

THIỆU AN PHỦ NIỆM PHẬT THOÁT NẠN

Đất Tấn Giang, ông Thiệu Bưu tên Hi Văn. Hồi còn làm học trò, một hôm nằm mộng thấy mình đi đến một chốn quan phủ người đều kêu ông là ông quan An phủ, Thiệu Bưu tự mừng và rằng Điềm này đâu không phải ta thi đậu, sẽ lãnh chức An phủ ư ? Rồi ông đi tới trước, thấy một vị quan hỏi rằng Ngươi có biết tại do ngươi thi chưa đậu không ? Đáp rằng Không biết. Vị quan ấy sai người dẫn Thiệu Bưu đi xem, thấy một chảo lớn nấu loài ốc sò. Ốc sò biết nói tiếng người, thấy Thiệu Bưu đi ngang qua liền kêu rằng Thiệu Bưu. Bưu sợ bèn niệm Phật A Di Đà, mới niệm một tiếng ốc sò liền biến thành chim Huỳnh tước (se sẻ) bay đi.

Quả thật sau rồi Thiệu Bưu thi đỗ khoa cao làm quan đến chức An phủ sứ. Do đây thấy người sát sinh, ngăn đường trước của người, chẳng khá chẳng răn! Lại thấy Phật lực quảng đại chẳng khá chẳng kính. Quan chức tự có định phần chẳng khá tham cầu đặng.

NIỆM PHẬT BỆNH PHONG KHÔNG SINH

Ông Vương Nhựt Hưu nói Tôi quá giang ghe người gần đi đến giữa sông, đất Trấn Giang, nước cạn đi không được, bèn ghé lại chùa Kim Sơn mượn bốn bộ kinh, tức Kinh A Di Đà vậy. 

Muốn so sửa khắc bản rộng truyền. Khi cầm viết tay bên phải có phong, mấy ngón tự run lia viết chữ không được, tôi bèn giơ ngón niệm danh hiệu Phật A Di Đà và Quan Thế Âm vài tiếng, khẩn cầu xin cho tôi hết chứng bệnh phong, đặng viết cho rồi bộ kinh đây.

Nguyện vái xong ngón liền hết run, cho đến rồi quyển cũng không đau. Do đây thấy Phật cùng Bồ Tát, vẫn ở trước mặt, chỉ vì tín tâm của người không chí thiết vậy.

MỘNG TRUNG NIỆM PHẬT THOÁT KHỦNG CỤ

Ông Vương Nhựt Hưu nói Tôi ở trong cơn mê mộng, có khi sợ sệt, niệm danh hiệu Phật A Di Đà cùng Quan Thế Âm Bồ tát, chưa từng có lúc nào mà chẳng đặng yên ổn, hoặc có khi liền thức dậy.

Thì đủ thấy Phật cùng Bồ tát oai thần mau chóng như thế, những người đủ tín tâm chỗ hiệu nghiệm. Ngài đâu không chứng.

NIỆM PHẬT NHÀ KHỎI ĐÈ CHẾT

Có một bà già bị mù hai con mắt, mượn thằng nhỏ dắt đi thường niệm Phật A Di Đà. Một bữa nọ nghỉ ở trong nhà cũ, nhà bỗng đổ sập. Thằng nhỏ bỏ chạy, bà già còn ở trong. Bèn có hai cây chống nhau, đỡ phía trên bà già đặng khỏi đè chết. Đây phép niệm Phật rất linh nghiệm như vậy đấy.

Sự tích này do ông Diệu Định Cư sĩ vì tôi thuật lại.

NIỆM PHẬT BỆNH SỐT RÉT ĐƯỢC LÀNH

Có vị Viên quan tên Lý Tử Thanh, ở ngụ đất Tú Châu, ham mộ đạo Tiên, thường theo học Phật với ta (Vương Nhựt Hưu), mấy năm trước mắc chứng bệnh rét bảo rằng Chỉ e lòng ông không tin, nếu tin đó bệnh ắt lành.

Ta trao cho một phương thuốc, dạy tới giờ bệnh phát, chuyên chú niệm A Di Đà Phật, rồi uống thuốc này. Ông Tử Thanh nghe lời làm theo ngày đó bệnh bớt 8 phân, ngày kế cũng bớt 8 phân, như vậy cho đến ngày chót là được lành mạnh. Ông Tử Thanh từ đấy rất tin Phật lý, thường dùng văn Tịnh độ để trong tay áo, đem theo tụng niệm.

THÊU TƯỢNG PHẬT THƯỜNG CÓ XÁ LỢI

Ông Chung Ly Trạch làm chức Thiếu sư ở đất Chân Châu, cho bà Nhậm thị phu nhân, tu Tây phương, chạm tượng Phật A Di Đà, bề cao bốn tấc tám phân, làm khám chạm trổ rất tốt, lúc đi đâu thường đội theo để chiêm bái, tượng kia ở giữa chân mày, thường tuôn ra ngọc Xá lợi, lớn như hột gạo, ánh sáng chiếu ngời.

Sự tích này rút trong bộ Bửu Châu tập.

MỘNG THẤY PHẬT LIỀN ĐẶNG THÔNG BIỆN

Đợi nhà Tùy, ông Huệ Tư thiền sư, nhân chiêm bao thấy Phật A Di Đà, thuyết pháp cho ông nghe. Lúc sau ông thông biện hơn người, điềm lành không phải một.

Sự tích này rút trong bộ truyện Vãng sinh.

NIỆM PHẬT TRỊ BỆNH ĐƯỢC LÀNH

Năm gần đây đất Tú Châu có ông thầy thường niệm Phật A Di Đà, vì người trị bệnh, có người bệnh rước ông đến niệm Phật, thường đặng lành mạnh. Người trong xứ Tú Châu, ai cũng khen ngợi ông cả.

NIỆM PHẬT THẰNG CHÁU KHỎI NẠN

Ông Vương Nhựt Hưu nói Trong làng ta, có một ông cụ già mỗi khi có việc liền chắp tay chí tâm niệm Phật A Di Đà.

Thằng cháu ông mới ba tuổi, nhân theo mẹ đến đồng ruộng thoạt mất đi, ông già tìm hỏi chẳng thấy, sau vài ngày có người mách bảo cho hay rằng Tôi thấy dấu chân thằng nhỏ ở ngoài suối kia!

Quả nhiên ra ngoài đó tìm đặng, thấy dấu chân đầy cả trên bãi. Không biết vì lẽ gì suối kia rất sâu mà thằng nhỏ này qua bên kia được và lâu mà không hề chi.

Người ta nói, đó là do ông nội nó có tâm chí thành niệm Phật A Di Đà, mới cảm được quả phúc như vậy.

PHẦN TỰ LUẬN

Thật ra đạo Phật là một chân lý cần phải tự mình kinh nghiệm, về một mặt khác, suy nghĩ và hiểu biết chưa thật đã đúng đường, khi nhận xét không thấu đáo.

Đối với đời sống hằng ngày, đạo Phật khuyên ta những gì ? 

Nên dung hòa cuộc đời thục tế với lý tưởng vị tha, điều thuận hành vi và ý nghĩ, bác bỏ những sự tương vi, cảm thông cho sâu sắc định lý vô thường của hết thảy các pháp.

Nói tóm lại, hướng cuộc đời theo gương Đức Phật và cố gắng thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

QUYỂN TÁM HẾT

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5781)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 5986)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6787)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5803)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6511)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 7918)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7067)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6345)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7136)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 5999)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567