Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cội nguồn của sự vật.

22/04/201311:58(Xem: 7451)
Cội nguồn của sự vật.

 

CỘI NGUỒN CỦA SỰ VẬT

Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


---o0o---


Trong đời sống, mỗi người chúng ta đều bị bao vây bởi những sự vật, tức là những hiện tượng ở chung quanh ta. Những sự vật ấy muôn hình vạn trạng, tỉ dụ như cây cỏ, núi sông, thân hình chúng sinh, bàn ghế, miếng thịt, ly rượu v.v.... tất cả tạo nên vũ trụ này. Con người thường đi lạc vào trong đó, tương tự như một thứ mê-đồ-ảo-phố và không biết đường nào ra khỏi. Và các sự vật tuy thỉnh thoảng có đem lại cho ta những thích ứng nho nhỏ, nhưng vì tính cách vô thường của chúng, thường gây cho ta những nỗi phiền não triền miên. Vậy chúng ta cằn tự hỏi : những sự vật đó là cái gì vậy, và chúng có một cội nguồn nào không?

Câu hỏi này, thực ra từ Đông sang Tây, các hệ thống triết học hoặc tôn giáo đều đã đặt ra cùng đưa lời giải đáp. Lối giải đáp tuy nhiều nhưng tựu trung có thể xếp thành hai loại :

* Một số tư tưởng gia duy vật thiển cận, hoặc khoa học gia máy móc thì cho rằng vũ trụ này chẳng có một cứu cánh gì hết, nó chỉ được tạo nên do sự chuyển động hỗn độn của vô lượng phần tử vật chất, và sự chuyển động theo “ngẫu nhiên” ấy chỉ tuân theo luật tắc của đa số thống kê (loi des grands nombres) mà thôi.

* Lối giải đáp thứ hai gồm đa số những hệ thống triết học và tôn giáo lớn, tỉ dụ như Parmenide, Pythagore, ấn Độ giáo, Ki-tô giáo, Khổng giáo, Phật giáo, Lão giáo v.v.... Trận doanh này đề xướng rằng vũ trụ có một cứu cánh và một cội nguồn, cũng như có các luật tắc nghiêm minh của nó, và con người hoặc bất cứ chúng sinh nào cũng cần hiểu rõ những luật tắc đó mới mong thoát ra khỏi mê-đồ-ảo-phố của sự vật...

Tôi thiển nghĩ, lời giải đáp thứ hai là đúng. Vì sao?

Vì các bậc thành lập những nền tôn giáo lớn đều là những bậc thánh nhân, đã xa lìa vọng ngữ, đã khổ công thăm dò thực tại tuyệt đối, và các vị đã đồng thanh đề xướng như vậy.

Và cũng vì sự chuyền động theo ngẫu nhiên của các phần vật chất đều vấp phải luật tắc “Entropie”. Entropie có nghĩa là chiều hướng tự nhiên của sự chuyển động vật chất là tiến tới sự quân bình hóa về mức độ tinh lực. Trong khi những sự vật như cây cối hoặc con người đều là những thực thể rất bất-quân-bình-hóa về mức độ tinh lực (asymétrique) cho nên sự chuyển động ngẫu nhiên của vật chất không có một tí xác xuất (probabilité) nào để tạo thành con chó hoặc người được.

Hãy kiểm sơ qua những hệ thống giáo lý, để coi những lời giải đáp về cội nguồn sự vật :

** Ấn Độ Giáo quan niệm rằng cội nguồn của vũ trụ là một Đại Linh thể gọi là Brahman. Linh hồn của con người là một Tiểu linh ngã hay Atman. Vũ trụ là một giấc mộng của Brahman, những thời kỳ thành-trụ hoại-không của vũ trụ là một nhịp thở ra, rồi thở vào của Brahman. Sự tu luyện của con người là tiến tới sự thể nhập của Tiểu linh ngã vào Đại ngã. Cần ghi rằng những quan niệm của Ấn Độ giáo rất cao và hay, nhưng chưa được trọn vẹn bằng đạo Phật.

** Ki-tô giáo quan niệm rằng vũ trụ được sáng tạo bởi Thượng Đế. Sự triển khai giáo lý của Ki-tô giáo còn sút kém so với Ấn Độ giáo vì quá thiên trọng về khía cạnh nhất nguyên thần hóa và không nói tới khía cạnh nhất nguyên phi thần hóa.

** Khổng giáo là một đạo lý về thế gian pháp, dạy cách vật trí tri, chính tâm thành ý và cách xử thế. Tuy là đạo lý thế gian, nhưng cũng không khuôn mình theo đạo học. Về cuối đời, do sự san định kinh Dịch, Khổng Tử đã mở một cửa ngõ vươn lên hình nhi thượng học, coi Thái cực hoặc Vô cực như cội nguồn của vạn vật.

** Lão giáo đã vươn lên một mực độ về hình nhi thượng học cao hơn Khổng giáo. Nếu Khổng giáo chú trọng vào bình diện ý thức của con người, thì Lão giáo đã đi sâu vào tiềm thức và muốn đạt tới chỗ vắng lặng rỗng rang gằn như tịch diệt của tâm thức. Lão giáo quan niệm cái vòng Vô cực như cội nguồn của vạn vật.

** Phật Giáo còn đi xa hơn nữa đi sâu vào cái Vô thức để rồi phá vỡ Vô thức và đạt tới cái Thực tại cuối cùng, rốt ráo vắng lặng tịch diệt. Nhờ sự thể nhập sâu vào những cơn tam muội lớn (lớn hơn những cơn tam muội của những vi giáo chủ khác), bậc Đại giác là Phật đã chỉ rõ ràng cái Thực tại cuối cùng đó chẳng phải là cái gì khác, mà chính là Diệu Tâm. Ngoài Tâm ra, không thể có Phật. Diệu tâm này cũng chính là Chân không... Gọi là Chân không nhưng chính là Diệu hữu, vì từ Chân không này đã biến hiện ra tất cả chúng sinh cảnh giới và vũ trụ. Vì vậy, tất cả sự vật đều là có, nhưng không thực coù. Nó chỉ có, tương tự như những huyễn tượng, như một giấc chiêm bao, như một tuồng ảo hóa, vì nó đều do nghiệp lực của chúng sanh chiêu cảm mà khởi lên. . .TVHS

Chúng ta thường nói tới Tam giáo động nguyên. Nếu chân lý được coi như một cây đại thọ thì Khổng giáo là hoa lá, Lão giáo là cành cây, và Phật giáo chính là thân cây cùng gốc cây. Những kinh Đại thừa của nhà Phật có bộc lộ khá nhiều những chân lý về sự cấu tạo Hoa tạng thế giới, về không gian, về thời gian, về sự chuyền động.

Ngày nay, khoa học càng ngày càng đi sâu vào lãnh vực cực tiểu và cực đại và càng đi sâu bao nhiêu càng chứng tỏ sự chân xác của những lời trong kinh Phật. Có thể nói rằng không có một sự khám phá mới nào của khoa học có thể đi ngược lại với lời kinh.

Cho nên, một nhà học Phật là Henri Percheron đã từng viết : “Ngày nay, đạo Phật du nhập Tây phương, và kẻ đồng minh lớn nhất của giáo lý Phật lại chính là khoa học...” Trên đây là một vài ý kiến đơn sơ để đỏng góp với bạn đọc, trong việc tìm hiểu con đường trở về Nguồn của các tôn giáo và của đạo Phật. .

Nghiêm Xuân Hồng



---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/07/2020(Xem: 7338)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 5339)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 9801)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 6598)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 6848)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 19828)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5923)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 6306)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 10614)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
22/08/2019(Xem: 7436)
Chư Tôn liên tông vãng sanh tịnh độ Cực Lạc lưu lại bằng chứng: - Đa số các ngài vãng sanh tự tại và biết trước ngày tháng ra đi - Một số lưu lại xá lợi (Sư Thích Thiền Tâm biết trước 6 tháng, ngày vãng sanh Cực Lạc, ra đi ngay trên bổn tọa trước đại chúng, lưu lại xá lợi răng ngũ sắc, và một bài kệ Bồ Tát Thích Quảng Đức an nhiên tự thiêu vì đạo pháp để lại xá lợi trái tim bất diệt)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]