Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sư tử Hà Đông

16/10/201017:05(Xem: 717)
Sư tử Hà Đông

Thoạt nghe, không ít người nghĩ rằng, trong nội dung câu thành ngữ "Sư Tử Hà Đông" có điều gì liên can đến đất Hà Đông xưa của Việt Nam.

Chuyện thực lại không phải như vậỵ Các ông già, bà lão đã sống gần hết cả đời trên mảnh đất ấy, những người tinh thông chữ nghĩa, cả đời tầm chương trích cú, cũng chẳng ai biết hai chữ Hà Đông quen thuộc kia có liên hệ gì với cái máu tam bành của những người đàn bà cả ghen, sẵn sàng đập phá, quát tháo chồng con ngay trước mặt mọi ngườị Thì ra, lại cũng là chuyện râu ông nọ cắm cằm bà kia.

Số là, ở đất Vĩnh Gia bên Trung Quốc đời nhà Tống, có một người đàn ông tính nết thất thường, họ Trần tên Tạo, tự Lý Thường. Lúc còn nhỏ, Tạo rất thích chơi trò đấu kiếm. Cậu ta có thể ngồi cả ngày để nghe kể chuyện về các anh hùng hảo hán và hết sức khâm phục lòng dũng cảm, đức tính trung thực của những con người ấỵ Lớn lên, Tạo thích lân la đến bên các chí sĩ giang hồ để học mót các môn võ nghệ và cùng bọn ngao du nay đây mai đó. Tạo cũng tự liệt mình vào cùng một thuyền một hội với những bậc chí sĩ kia và lúc nào cũng tỏ ra sẵn lòng làm việc nghĩa, giúp bạn, cứu người.

Lạ thay, vừa bước sang tuổi trung niên Trần Tạo bỗng thay đổi tính nết. Tạo chán ghét cuộc sống giang hồ và lạc vào văn chương, chữ nghĩạ Có lúc, Tạo háo hức với ý nghĩ bước lên vũ đài chính trị để gây thanh thế với đờị Nhưng, tiếc thay, lực bất tòng tâm. Quá nửa đời người, công vẫn không thành, danh vẫn không toạị Trần Tạo đâm ra nản chí, bèn quay về sống ẩn dật, sớm hôm vui thú ruộng vưòn. Vì đã có một thời oanh liệt, vào cung ra kiếm, lúc múa gươm nơi thị thành, lúc khua chèo nơi biển vắng... Nặng nghĩa tình thầy trò, nên, dẫu đã quay về ở ẩn, các chiến hữu cũ vẫn thường xuyên lui tới nhà Tạo để đàm đạo sự thế. Chẳng nói ra thì ai cũng biết, cùng đến với các chàng trai anh hùng ấy bao giờ cũng có các ca kỹ, vũ nữ. Họ xinh tươi, lại hát hay, múa đẹp...Thế là, ở ẩn nhưng vẫn cứ qua lại, vẫn yến tiệc linh đình, vẫn lả lướt, liếc mắt đưa tình. Thấy vậy, vợ Tạo là Liễu Thị rất ấm ức, cơn ghen nổi lên tắc nghẹn ở cổ. Liễu nghĩ: Biết đâu, trong số những người vũ nữ xinh đẹp, tài ba kia, lại chẳng có kẻ tà tâm, muốn chiếm doạt chồng mình. Không kìm được máu ganh tức, Liễu đứt phắt dậy cầm gậy vụt lấy vụt để vào tường, vào phản. Vừa vụt, Liễu vừa kêu la, quát tháo ầm ĩ. Các quan khách cùng các mỹ nữ hiện diện trong bữa tiệc sợ hoảng loạn, ba chân bốn cẳng tìm lối tháo thân. Trần Tạo biết là bất nhã lắm, nhưng vốn là người sợ vợ, nên không dám đứng ra khuyên ngăn. Hắn đứng im một chỗ, hai tay khoanh trước ngực, nhìn lấm lét vẻ đầy sợ hãi, như muốn lẫn tránh cặp mắt hung dữ đỏ ngầu như máu của vợ đang xói lửa nhìn mình...

Được tin ấy, Tô Đông Pha, bạn Tạo, đã đề thơ tặng Tạo:

Hốt văn Hà Đông sư tử hống

Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên

(Bỗng nghe sư tử Hà Đông gầm,

Chiếc gậy vung lên khiến cho mọi người ngơ ngác)

Chữ "Hà Đông" ám chỉ người đàn bà họ Liễu (Thơ Đỗ Phủ có câu "Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu"). Còn "sư tử hống" là lời của nhà Phật biểu thị sự uy nghiêm - điều mà hàng ngày Trần Tạo vẫn tụng niệm để mong đạt tớị

Trong tiếng Việt, thành ngữ "Sư tử Hà Đông" nhằm ám chỉ những người thuộc phái đẹp có tính ghen tuông dữ dộị Khi nổi máu tam bành có thể làm cho các đức ông chồng kinh hồn, tán đởm, bao dũng lược của giới mày râu cũng tiêu tan thành mây khói cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/04/2017(Xem: 9383)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
07/09/2016(Xem: 6704)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 20399)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
23/12/2015(Xem: 10757)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
10/07/2015(Xem: 6637)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
28/04/2015(Xem: 6526)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 7278)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
08/01/2015(Xem: 9132)
Nguyện con đến lúc sắp lâm chung Diệt trừ tất cả các chướng ngại Tận mặt gặp Phật A Di Đà Liền được vãng sinh cõi Cực lạc.
07/01/2015(Xem: 9996)
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
19/11/2014(Xem: 15965)
Ngài pháp sư Tịnh Không, một cao tăng đương thời có nói: "Kinh Phật muôn đời vẫn mới mẻ, thích ứng với mọi thời đại. Từ ba ngàn năm trước, những kinh điển được giảng tại Ấn Độ khiến cho người Ấn Độ thời ấy được thọ dụng. Ba ngàn năm sau, đối với những kinh điển ấy, chúng sinh ngày nay vẫn được thọ dụng y hệt chẳng khác biệt gì. Nhưng vì hình thái ý thức, bối cảnh văn hóa, cũng như hoàn cảnh sống xưa nay rất khác nên cần phải có giải thích lại, nghĩa là hiện đại hóa địa phương hóa kinh Phật để thích ứng căn cơ đương thời."
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]