Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương hai mươi

10/07/201103:30(Xem: 9472)
Chương hai mươi

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI MƯƠI

124.ÂM:

"Tu Bồ Đề: Ư ý vân hà? Phật, khả dĩ cụ túc sắc thân kiến phủ?".- "Phất dã Thế Tôn. Như Lai bất ưng dĩ cụ túc sắc thân kiến.

NGHĨA:

"Này Tu Bồ Đề? Ý ông thế nào? Có nên dùng sắc thân cụ túc mà cho là Phật chăng?".- "Bạch đức Thế Tôn! Không. Chẳng nên dùng sắc thân cụ túc mà cho là Như Lai đặng.

Giải : Trần Hùng giải: Sắc thân là 32 tướng. Cụ túc là không thiếu kém - Có đủ 32 hạnh nên mới có tướng cụ túc. 32 hạnh vốn sẵn có trong pháp thân, nếu muốn rõ pháp thân Như Lai thì tự biết bổn tâm, tự thấy bổn tánh là đủ; há phải thấy sắc thân cụ túc nơi ngoài hay sao?

125.ÂM:

Hà dĩ cố! - Như Lai thuyết: Cụ túc sắc thân, tức phi cụ túc sắc thân, thị danh cụ túc sắc thân".

NGHĨA:

Bởi cớ sao? - Như Lai nói sắc thân cụ túc, nhưng chẳng phải sắc thân cụ túc, chỉ cưỡng danh là sắc thân cụ túc".

Giải : Trần Hùng giải: Kinh Bảo Đàncó nói: "Da thịt là sắc thân".

Kinh Hoa Nghiêm có nói: "Sắc thân chẳng phải Phật".

Xem như thế thì biết: nhục thân không có Như Lai, nhưng chẳng biết có Như Lai sống ở nơi trong; sắc thân chẳng phải pháp thân, nhưng chẳng biết có sắc thân tốt đẹp ở nơi trong.

Lại nói: Diệu sắc thân trong sạch,

Oai thần lực hiện bày.

Nói là diệu sắc thân, thì hiện ra cả thảysắc thân tam muội, ấy là Pháp thân Như Lai; vậy thì đủ biết là chẳng phải cụ túc sắc thân - Chẳng phải cụ túc sắc thân mà cưỡng danh là cụ túc sắc thân đó, là bởi đặng cái sở dĩ cụ túc sắc thân mà thôi.

126.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? - Như Lai khả dĩ cụ túc chư tướng kiến phủ?".- "Phất dã, Thế Tôn! Như Lai bất ưng dĩ cụ túc chư tướng kiến. Hà dĩ cố? - Như Lai thuyết chư tướng cụ túc, tức phi cụ túc, thị danh cụ túc".

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có nên dùng các tướng cụ túc mà cho là Như Lai chăng?".- "Bạch đức Thế Tôn? Không. Chẳng nên dùng các tướng cụ túc, mà cho là Như Lai đặng.

Bởi cớ sao ? Bởi Như Lai nói các tướng cụ túc, nhưng chẳng phải cụ túc, chỉ cưỡng danh là các tướng cụ túc".

Giải : Trần Hùnggiải: Kinh Lăng Già có nói: "Như xứ sở, hình tượng, sắc tướng, các thứ ấy đều kêu là tướng". Nói các tướng đây, là cả thảy những tướng biến hiện thần thông chẳng những là 32 tướng mà thôi.

Như Lai lìa sắc lìa tướng, dùng tịnh hạnh thì cụ túc 32 tướng, dùng trí huệ thì cụ túc tám muôn bốn ngàn, cụ túc pháp Tam minh, Lục thần thông, Bát giải thoát. Cụ túc này tức là chẳng phải cụ túc của các tướng. Cụ túc này tức là trái, còn cụ túc của các tướng tức là hoa; hễ trái đã đậu rồi thì hoa sẽ rụng. Vậy nên mới có các thứ cụ túc.

Nhan Bính giải: Phật là giác. Giác tánh ví như hư không. Chẳng nên dùng cụ túc sắc thân mà thấy, duy có hạng người kiến tánh mới biết là chẳng phải sắc thân, ví cũng như vô ngã của Đức KhổngPhu Tử và Tọa Vong ([138]) của ông Nhan Hồivậy.

Tự tánh Như Lai không nên dùng cụ túc các tướng mà thấy; tánh đã không có chi mà đặng, thì làm sao mà có các tướng! Cho nên mới dùng câu "chẳng phải" mà thuyết phá.

Vương Nhựt Hưu giải: Bài này đồng nghĩa với những bài trong phần thứ 5 và 15, đến đây còn lập lại nữa là vì những thính giả mới đến sau.

Lý Văn Hộigiải : Lòng đã vắng lặng rỗng rang thanh tịnh, đâu có sắc thân, cùng các tướng chi mà đặng. Người phàm, nếu chẳng chấp "có" thì lạc vào không, có hai cái tà kiến: đoạn thường ấy.

Quán không chi chẳng phải là thấy sắc? Quán sắc chi chẳng phải là đều không? - Vậy thì cụ túc Sắc thân cụ túc các tướng đều chẳng phải là cụ túc Sắc, không như một, "không, có", vốn đồng, mới là quán đặng: không thân mà thấy có cả thảy thân, không tướng mà thấy có cả thảy tướng. Vậy mới gọi là sắc thân cụ túc, chư tướng cụ túc.

Ông Tăng hỏi ông Triệu Châu: Con chó có tánh Phật chăng?

Đáp : Không.

Hỏi : Xuẩn động hàm linh giai hữu Phật tánh (bò, bay, máy, cựa đều có tánh Phật), bởi sao con chó không có tánh Phật ?

Đáp: Bởi nó có nghiệp thức.

Vả lại những người có nghiệp thức, mỗi mỗi đều chấp có, khởi các vọng tưởng, thì gọi là điên đảo tri kiến; còn mỗi mỗi đều lạc vào không, không chỗ tỏ ngộ thì gọi là đoạn diệt tri kiến. Hạng người có túc nghiệp căn lành, không có hai cái bệnh điên đảo, đoạn diệt , rõ thấu các lý "không" thì gọi là chánh chơn tri kiến . Bằng tỏ cái lý ấy, tùy thời mặc áo ăn cơm, trưởng dưỡng Thánh thai, tự tại tiêu diêu rồi, còn có sự gì nữa?!

Tứ Tổ bảo ông Ngưu Đầu Thiền sư: "Trăm ngàn diệu môn, đồng về trong phương thốn, hà sa công đức, gốc ở nơi tâm nguyện; cả thảy không môn, cả thảy huệ môn, cả thảy hạnh môn thảy đều cụ túc. Thần thông diệu dụng, chỉ tại lòng ngươi nghiệp chướng phiền não, bổn lai vắng lặng; cả thảy quả báo tánh tướng đều bình đẳng. Đại đạo rỗng rang tuyệt dứt tư lự, cái pháp như thế không thiếu không dư, với Phật không khác, không còn pháp chi ngoài nữa.

Chỉ tại khiến cho lòng tự tại, đừng cưu vọng tưởng cũng chẳng vui mừng, không khởi tham, sân, ưu, lự, lộng lộng không ngăn ngại, tự ý tung hoành; chẳng làm các điều lành, không tạo những nghiệp dữ, đi, đứng, nằm, ngồi, đối với sự thấy là duyên, đều là sự diệu dụng của Phật cả".

Tổ Ấn Minh Thiền sư giải:

Tụng:

Trâu nước dầu nuôi dễ mấy phần,

Tự do đi đứng, cũng nguyên nhân.

Vân sơn cảnh tịnh nhàn trưa sớm.

Hán mặc Hán, Tần thây mặc Tần.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

Ba mươi hai hảo tùy,

Cùng tám chục hình chưởng.

Nguyên một thể lý chơn,

Ứng muôn loài vật tượng.

Sắc, tâm thảy phải trừ,

Nhơn, pháp đều không mượn.

Chứng đặng quả Bồ đề,

Cũng bởi nơi lìa tướng.

Xuyên Thiền sư giải: Pháp nước chẳng lọt cây kim việc thông thương xe ngựa.

Tụng:

Người tua ngước mặt ngó lên không,

Trồng long bao la chẳng ảnh tông.

Bằng dụng ít nhiều công phản chiếu,

Bổn lai hẳn gặp ở nơi trong.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 15882)
Chính tôi được nghe như thế nầy. Một thuở nọ, đức Phật kiết hạ tại núi Kỳ-Xà-Quật, gần thành Vương-Xá với chúng Đại Tỳ-kheo một muôn hai nghìn người. Đó là các vị trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Ma-Ha Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Tu-Bồ-Đề, La-Hầu-La, Phú-Lâu-Na, A-Nan, A-Nan-Đà, Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề, Gia-Du-Đà-La, v.v...
08/04/2013(Xem: 17989)
Thành thực mà nói, tôi chưa có được niềm tin rằng mỗi khi có thể bị tai nạn gì thì nên tụng Bồ tát giới Phạn võng, nhưng có một điều rõ rệt là mỗi khi làm gì cho giới ấy thì đang bịnh cũng thư thái thấy rõ. Từ trước đến nay đã có 5 lần như vậy.
08/04/2013(Xem: 19679)
Đại sư tên Huệ Năng, thân phụ họ Lư, húy Hành Thao, thân mẫu họ Lý. Đời vua Đường Vũ Đức năm thứ 3 tháng 9 ở tân Châu, bà Lý Thị nằm mộng thấy trước sân hoa trắng đua nở, có đôi chim nhạn trắng bay, hương lạ tỏa đầy nhà, khi tỉnh dạy thì thụ thai. Bà thanh khiết trai giới, hoài thai sáu năm Sư mới ra đời. Ấy là năm Trinh Quán thứ 12 đời Đường Thái Tông, nhằm năm Mậu Tuất (638DL) ngày mồng 8 tháng 2 giờ Tý.
08/04/2013(Xem: 17835)
Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Phật ở trong điện quan Thừa Tướng, thuộc phía Đông thành Xá-Vệ. Một hôm mẹ quan Thừa Tướng ấy tên là Duy-Da; sáng sớm dậy, bà tắm gội, mặc áo mầu, rồi cùng những người con dâu đi đến chốn Phật. Đến nơi, cùng nhau cúi đầu lễ sát chân Phật. Lễ xong, tất cả đều ngồi về một bên.
08/04/2013(Xem: 15792)
“Bát Thức Quy Củ Tụng” là một tác phẩm thuộc bộ môn Duy Thức do Ngài Huyền Trang đời Đường biên soạn. Nguyên tác vốn rất dài, khó nhớ, khó thuộc, vì vậy Ngài Khuy Cơ, đệ tử của Ngài Huyền Trang được phép Sư Phụ, đã toát yếu tác phẩm trên thành 41 câu tụng, giúp người tu học Phật được dễ dàng hơn trong việc đọc tụng hằng ngày.
08/04/2013(Xem: 20672)
Việc tự tứ và trai tăng trong ngày Vu lan, và qua đó mà báo hiếu cha mẹ, thì không cần phải nói đến nữa. Điều đáng nói là các chùa nên tổ chức hiệp kỵ cho Phật tử trong ngày Vu lan, sau khi tự tứ và trai tăng. Ngày nay kỵ giỗ của mỗi nhà cũng không thể còn như xưa
08/04/2013(Xem: 6845)
Trong việc học hỏi Phật Pháp, điều căn bản cần phải biết các đặc tánh của tâm và pháp như thế nào mới có thể tìm hiểu thêm pháp học và pháp hành Phật đạo. Kinh Giáo Giới Nandaka và Kinh Giáo Giới Channa đã nói lên hai đặc tánh ấy.
08/04/2013(Xem: 7788)
Quan Thế Âm là danh hiệu của một vị Bồ Tát. Quán Thế Âm dịch nghĩa của chữ Avalokitesvara (Trung Hoa phiên âm là A phạ lô chỉ đê thấp phạt la) của chữ Phạm (Ấn Độ) và có nghĩa là vị Bồ Tát quán sát tiêng kêu cầu của chúng sinh trong thế gian, mà độ cho họ được giải thoát.
08/04/2013(Xem: 10867)
Điều mình không ưa chớ nên trách người. Anh hãy là ngọn đuốc và nơi nương náu cho chính mình anh. Anh đừng nên phó thác vào chốn dung thân nào khác. Muốn bình thiên hạ, hãy bình tâm địa trước đã. Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình. Chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất!
08/04/2013(Xem: 10330)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la. Những người nên độ, Ngài đã độ xong. Ngài nghỉ ở giữa hai cây Sa-la và sắp nhập niết-bàn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]