Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật nói Kinh Ưu-bà-di Đọa-xá-ca (9)

21/05/201316:20(Xem: 9009)
Phật nói Kinh Ưu-bà-di Đọa-xá-ca (9)

Kinh Trì Trai

Phật nói Kinh Ưu-bà-di Đọa-xá-ca (9)

Hòa Thượng Thích Tâm Châu

Nguồn: Thích-Tâm-Châu dịch Hán ra chữ Việt

Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Phật ở trong nước Xá-Vệ. Ở phía Đông thành ra, có nhà một nữ nhân, tên tự là Vu-Da-Lâu, mà người đời thường gọi là Vu-Da-Lâu mẫu.
Khi đức Phật ngồi ở trên điện nhà Vu-Da-Lâu mẫu, có một người con gái tên tự là Đọa-Xá-Ca, vâng giữ lời giáo giới, ngày rằm mỗi tháng, dậy sớm tắm gội và có bảy người con dâu cũng đều bắt họ tắm gội, mặc áo mới, đến khi mặt trời chưa đúng trưa đã ăn cơm; ăn rồi rửa tay, cùng đem bảy người con dâu ấy, đến chốn đức Phật. Trước tiên vào làm lễ Phật, đức Phật bảo: thôi về chỗ ngồi, mọi người đều lui về chỗ tòa mình ngồi.
Đức Phật hỏi: Ưu-Bà-Di, Đọa-Xá-Ca: Sao hôm nay bà cùng những con dâu của bà lại tắm gội, mặc áo đẹp đến nơi đây? - Bà Đọa-Xá-Ca thưa: Lạy đức Thế-Tôn, hôm nay là ngày rằm, chúng con thực hành trai-giới, chúng con nghe biết mỗi tháng sáu ngày trai, nên con cùng các con dâu con đều cùng trì trai không dám khinh nhờn biếng nhác.
Đức Phật bảo bà Đọa-Xá-Ca: Trai-pháp chính của Phật có tám giới, khiến cho người ta được qua thế đạo, lại không sa đọa vào ba nẻo ác, nơi sinh thường có phúc lành và cũng từ nhân-duyên của tám giới bản ấy mà đạt đến chỗ thành Phật. Thế nào và những gì là trai pháp chính của Phật? Nghĩa là trong thời gian hàng tháng sáu ngày trai: mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 (10) mỗi ngày là một ngày trai, có các bậc Hiền-Thiện trì giới, cứ ngày trai, sáng sớm dậy gọi bảo người nhà rằng: "Hôm nay tôi trì trai, thời một ngày hôm nay trong nhà đừng uống rượu, đừng cãi nhau, đừng nói truyện về tiền tài; các việc trong nhà, ý nghĩ sao, miệng nói sao phải như bậc A-La-Hán. Bậc A-La-Hán không có sát-ý. Ngày trai trì giới cũng phải như bậc A-La-Hán, không có ý đánh đập, nên niệm đến loài súc-sinh cùng tất cả các côn trùng, khiến thường sinh như ý bậc A-La-Hán. Thế là một giới. Ngày và đêm nay giữ-gìn ý sát, khiến không được sát (giết). Gìn-giữ ý như thế là giới thứ nhất của Phật.
Đức Phật dạy: Ngày trai giữ-gìn ý mình nên như bậc A-La-Hán, không có tâm tham, không tham-mộ của thế-gian, không có ý tham bằng mảy lông, lá rau... Giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán trong ngày trai như thế, người giàu có, nên nghĩ làm việc bố thí, người nghèo thường nên niệm đến việc bố thí. Thế là giới thứ hai của Phật.
Đức Phật dạy: Ngài trai giữ-gìn ý mình nên như bậc A-La-Hán; bậc A-La-Hán không súc-dưỡng phụ-nhân, không nghĩ đến phụ-nhân, cũng không tham-đắm nữ-nhân và cũng không có ý dâm-dục. Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán như thế, thế là giới thứ ba của Phật.
Đức Phật dạy: Ngày trai giữ-gìn ý mình nên như bậc A-La-Hán, không vọng-ngữ, nói ra không có ý hại người và hễ nói ra tức là nói như kinh Phật, mà không nói thời chỉ nghĩ mọi việc thiện thôi. Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán như thế, thế là giới thứ tư của Phật.
Đức Phật dạy: Ngày trai giữ-gìn ý mình nên như bậc A-La-Hán; bậc A-La-Hán không uống rượu, không nghĩ đến rượu, không nhớ đến rượu và không dùng rượu làm việc ác. Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán như thế, thế là giới thứ năm của Phật.
Đức Phật dạy: Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán; ý của bậc A-La-Hán không ở chỗ ca-vũ, nghe tiếng âm-nhạc cũng chẳng vui và cũng chẳng ở chỗ có hương-vị của hương, hoa. Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán như thế, thế là giới thứ sáu của Phật.
Đức Phật dạy: Ngày trai giữ-gìn ý mình nên như bậc A-La-Hán; bậc A-La-Hán không nằm trên giường cao, đẹp và ý cũng chẳng nghĩ đến việc nằm trên giường cao, đẹp. Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán như thế, thế là giới thứ bảy của Phật.
Đức Phật dạy: Ngày trai giữ-gìn ý mình nên như bậc A-La-Hán; bậc A-La-Hán giữa ngày mới ăn, giữa ngày về sau cho đến sáng mai không được ăn gì, nhưng được uống nước ngọt. Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán như thế, thế là giới thứ tám của Phật.
Đức Phật lại bảo Ưu-Bà-Di Đọa-Xá-Ca rằng: Thế-gian này có người tóc trên đầu có bụi, họ tự đi gội đầu của họ và khi gội xong họ vui mừng nói: A, bụi trên đầu ta sạch rồi. Cũng thế, có người thụ-trì tám giới trong một ngày, một đêm, đến sáng mai họ cũng vui mừng: vui mừng là họ niệm Phật, tụng kinh giới của Phật, đến được như thế và trong tâm người nào có ác-ý liền bỏ đi, thiện-ý liền trở lại.
Đức Phật dạy: Có người thân-thể bám nhiều cáu-ghét, vào trong nước kỳ đi, cáu-ghét ở thân đều sạch, khi ra khỏi nước họ liền mừng nói rằng: A, cáu-ghét nơi ta sạch, thân thể nhẹ-nhàng. Cũng thế, có người thụ-trì trai giới một ngày, một đêm, sáng mai liền mừng nhớ đến lời chân-chính của Phật, tự niệm: ta thời nào sẽ đắc đạo, khiến cho tâm ta không xao-động, không chạy nhẩy nữa và khiến tâm ta nhất chí vào đạo Vô-vi.
Đức Phật dạy: Có người áo của họ rất nhiều cáu-ghét, họ lấy được tro, đem giặt, cáu ghét liền sạch. Cũng thế, có người thụ-trì trai-giới một ngày một đêm, có từ-tâm đối với thiên-hạ, tâm mở tỏ như ánh sáng, như bóng gương, không hề có ý sân-nộ. Có người thụ-trì trai- giới một ngày một đêm, vui, thương thiên-hạ, tịnh-tâm, tự-nghĩ, tự đoan-chính ý của họ và tự tư-niệm bày tỏ những tội ác trong mình như thế, như thế không còn sân-nộ gì nữa.
Đức Phật bảo Ưu-Bà-Di Đọa-Xá-Ca rằng: Trì tám trai giới trong một ngày một đêm không xao-nhãng còn hơn đem vàng, bạc, châu, ngọc cúng-dường các vị Tỳ-Khưu Tăng. Trong thiên-hạ có mười sáu nước lớn: 1) Ương-Ca. 2) Ma-Kiệt. 3) Ca-Di. 4) Câu-Tát-La. 5) Cưu- Lưu. 6) Bát-Xà-Trà. 7) A-Ba-Da. 8) A-Hoàn-Đề-Du. 9) Chi-Đề-Du. 10) Việt-Kỳ-Du. 11) Tốc-Ma. 12) Tốc-Lại-Cha. 13) Việt-Ta. 14) Mạt-La. 15) Du-Nặc. 16) Kiếm-Bồ-Đề. Là mười sáu nước lớn (11). Trong những nước ấy có những vật trân-bảo gì đem cả để cúng-dường các vị Tỳ-Khưu Tăng cũng không bằng trì trai-giới một ngày một đêm. Vì, trì trai-giới khiến người ta được qua thế-đạo, dùng của báu cúng-dường, không thể khiến người ta đắc- đạo được. Ngay như nay ta đắc Phật-đạo, cũng vốn từ tám giới ấy mà khởi lên vậy.
Đức Phật bảo bà Đọa-Xá-Ca: "Người trong thiên-hạ này hay lo nghĩ nhiều về việc gia-đình, nên ta dùng phương-pháp ấy, khiến cho một tháng sáu ngày trai, họ thụ-trì được tám giới. Nếu có bậc Hiền-thiện nào muốn chóng được đạo A-La-Hán, muốn chóng thành Phật-đạo hay muốn sinh lên cõi Thiên, luôn luôn nên tự đoan tâm, tự nhất ý, trì trai một tháng mười lăm ngày cũng tốt hoặc trì trai được hai mươi ngày cũng tốt. Còn những người hay lo nghĩ nhiều về việc gia-đình, nên giữ một tháng sáu ngày trai cũng được. Sáu ngày trai ấy ví như nước bể không thể lấy hộc mà đong lường được cũng như người có giữ trai-giới một ngày một đêm thời phúc ấy cũng không thể nào kể xiết được".
Đức Phật bảo bà Đọa-Xá-Ca: Thôi đem những người con dâu của bà về. Và về nên tụng niệm tám giới chính trai-pháp ấy.
Ưu-Bà-Di Đọa-Xá-Ca liền đến trước đức Phật, làm lễ Phật mà lui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/08/2019(Xem: 8963)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
14/04/2019(Xem: 8020)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo… Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật. Ngài có đời sống dài vô hạn lượng nên còn có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật.
20/09/2018(Xem: 4568)
Trung Bộ Kinh Nikaya (Majjhima Nikaya) có bốn bài kinh: 1) Nhất Dạ Hiền Giả (Bhaddekaratta Sutta), 2) Ananda và kinh Nhất Dạ Hiền (Anandabhaddekaratta Sutta); 3) Đại-Ca Chiên-Diên và kinh Nhất Dạ Hiền (Mahakaccanabhaddekaratta Sutta); 4) Lomasakangiya và kinh Nhất Dạ Hiền (Lomasakangiyabhaddekaratta Sutta). Cả bốn bài kinh này đều xoáy trọng tâm vào một bài kệ do Đức Phật tổng thuyết và biệt thuyết nhằm khuyến tấn các đệ tử của Ngài hãy nỗ lực tu tập để phát huy tuệ quán nhận ra "cái đang là" của các pháp hiện tại và an trú trong bây giờ và ở đây.
28/04/2018(Xem: 7464)
Sự hiện hữu của nhân sinh bao giờ cũng mang theo những ước mong về một đời sống tốt đẹp. Nhưng có lẽ sự tốt đẹp cho cả cuộc đời này là khát khao lớn nhất và có giá trị cao cả nhất cho những ai luôn nuôi dưỡng những tâm nguyện của tình thương bao la cho cả vũ trụ này. Có những mơ ước về một đời sống lí tưởng cho riêng mình, nhưng cũng có nhữngước mong xây dựng cho cả cuộc đời này thành một cảnh giới thật sự chỉ có mặt của niềm hạnh phúc. Những tâm tư như thế được thể hiện từ rấtxưa ở Trung Quốc với lí tưởng “thế giới đại đồng” của Nho Giáo,
12/11/2017(Xem: 18310)
Có tu có học có hành Đêm ngày tự có phước lành phát sanh Không tu không học không thành Dù trăm tài sản cũng đành bỏ đi .
02/04/2017(Xem: 8346)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
28/04/2016(Xem: 16589)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
07/01/2015(Xem: 8702)
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
19/12/2013(Xem: 20261)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
14/09/2013(Xem: 7604)
Kinh A Di Đà là một bản Kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của Kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, Kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567