Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật nói Kinh Ưu-bà-di Đọa-xá-ca (9)

21/05/201316:20(Xem: 9022)
Phật nói Kinh Ưu-bà-di Đọa-xá-ca (9)

Kinh Trì Trai

Phật nói Kinh Ưu-bà-di Đọa-xá-ca (9)

Hòa Thượng Thích Tâm Châu

Nguồn: Thích-Tâm-Châu dịch Hán ra chữ Việt

Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Phật ở trong nước Xá-Vệ. Ở phía Đông thành ra, có nhà một nữ nhân, tên tự là Vu-Da-Lâu, mà người đời thường gọi là Vu-Da-Lâu mẫu.
Khi đức Phật ngồi ở trên điện nhà Vu-Da-Lâu mẫu, có một người con gái tên tự là Đọa-Xá-Ca, vâng giữ lời giáo giới, ngày rằm mỗi tháng, dậy sớm tắm gội và có bảy người con dâu cũng đều bắt họ tắm gội, mặc áo mới, đến khi mặt trời chưa đúng trưa đã ăn cơm; ăn rồi rửa tay, cùng đem bảy người con dâu ấy, đến chốn đức Phật. Trước tiên vào làm lễ Phật, đức Phật bảo: thôi về chỗ ngồi, mọi người đều lui về chỗ tòa mình ngồi.
Đức Phật hỏi: Ưu-Bà-Di, Đọa-Xá-Ca: Sao hôm nay bà cùng những con dâu của bà lại tắm gội, mặc áo đẹp đến nơi đây? - Bà Đọa-Xá-Ca thưa: Lạy đức Thế-Tôn, hôm nay là ngày rằm, chúng con thực hành trai-giới, chúng con nghe biết mỗi tháng sáu ngày trai, nên con cùng các con dâu con đều cùng trì trai không dám khinh nhờn biếng nhác.
Đức Phật bảo bà Đọa-Xá-Ca: Trai-pháp chính của Phật có tám giới, khiến cho người ta được qua thế đạo, lại không sa đọa vào ba nẻo ác, nơi sinh thường có phúc lành và cũng từ nhân-duyên của tám giới bản ấy mà đạt đến chỗ thành Phật. Thế nào và những gì là trai pháp chính của Phật? Nghĩa là trong thời gian hàng tháng sáu ngày trai: mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 (10) mỗi ngày là một ngày trai, có các bậc Hiền-Thiện trì giới, cứ ngày trai, sáng sớm dậy gọi bảo người nhà rằng: "Hôm nay tôi trì trai, thời một ngày hôm nay trong nhà đừng uống rượu, đừng cãi nhau, đừng nói truyện về tiền tài; các việc trong nhà, ý nghĩ sao, miệng nói sao phải như bậc A-La-Hán. Bậc A-La-Hán không có sát-ý. Ngày trai trì giới cũng phải như bậc A-La-Hán, không có ý đánh đập, nên niệm đến loài súc-sinh cùng tất cả các côn trùng, khiến thường sinh như ý bậc A-La-Hán. Thế là một giới. Ngày và đêm nay giữ-gìn ý sát, khiến không được sát (giết). Gìn-giữ ý như thế là giới thứ nhất của Phật.
Đức Phật dạy: Ngày trai giữ-gìn ý mình nên như bậc A-La-Hán, không có tâm tham, không tham-mộ của thế-gian, không có ý tham bằng mảy lông, lá rau... Giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán trong ngày trai như thế, người giàu có, nên nghĩ làm việc bố thí, người nghèo thường nên niệm đến việc bố thí. Thế là giới thứ hai của Phật.
Đức Phật dạy: Ngài trai giữ-gìn ý mình nên như bậc A-La-Hán; bậc A-La-Hán không súc-dưỡng phụ-nhân, không nghĩ đến phụ-nhân, cũng không tham-đắm nữ-nhân và cũng không có ý dâm-dục. Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán như thế, thế là giới thứ ba của Phật.
Đức Phật dạy: Ngày trai giữ-gìn ý mình nên như bậc A-La-Hán, không vọng-ngữ, nói ra không có ý hại người và hễ nói ra tức là nói như kinh Phật, mà không nói thời chỉ nghĩ mọi việc thiện thôi. Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán như thế, thế là giới thứ tư của Phật.
Đức Phật dạy: Ngày trai giữ-gìn ý mình nên như bậc A-La-Hán; bậc A-La-Hán không uống rượu, không nghĩ đến rượu, không nhớ đến rượu và không dùng rượu làm việc ác. Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán như thế, thế là giới thứ năm của Phật.
Đức Phật dạy: Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán; ý của bậc A-La-Hán không ở chỗ ca-vũ, nghe tiếng âm-nhạc cũng chẳng vui và cũng chẳng ở chỗ có hương-vị của hương, hoa. Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán như thế, thế là giới thứ sáu của Phật.
Đức Phật dạy: Ngày trai giữ-gìn ý mình nên như bậc A-La-Hán; bậc A-La-Hán không nằm trên giường cao, đẹp và ý cũng chẳng nghĩ đến việc nằm trên giường cao, đẹp. Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán như thế, thế là giới thứ bảy của Phật.
Đức Phật dạy: Ngày trai giữ-gìn ý mình nên như bậc A-La-Hán; bậc A-La-Hán giữa ngày mới ăn, giữa ngày về sau cho đến sáng mai không được ăn gì, nhưng được uống nước ngọt. Ngày trai giữ-gìn ý mình như bậc A-La-Hán như thế, thế là giới thứ tám của Phật.
Đức Phật lại bảo Ưu-Bà-Di Đọa-Xá-Ca rằng: Thế-gian này có người tóc trên đầu có bụi, họ tự đi gội đầu của họ và khi gội xong họ vui mừng nói: A, bụi trên đầu ta sạch rồi. Cũng thế, có người thụ-trì tám giới trong một ngày, một đêm, đến sáng mai họ cũng vui mừng: vui mừng là họ niệm Phật, tụng kinh giới của Phật, đến được như thế và trong tâm người nào có ác-ý liền bỏ đi, thiện-ý liền trở lại.
Đức Phật dạy: Có người thân-thể bám nhiều cáu-ghét, vào trong nước kỳ đi, cáu-ghét ở thân đều sạch, khi ra khỏi nước họ liền mừng nói rằng: A, cáu-ghét nơi ta sạch, thân thể nhẹ-nhàng. Cũng thế, có người thụ-trì trai giới một ngày, một đêm, sáng mai liền mừng nhớ đến lời chân-chính của Phật, tự niệm: ta thời nào sẽ đắc đạo, khiến cho tâm ta không xao-động, không chạy nhẩy nữa và khiến tâm ta nhất chí vào đạo Vô-vi.
Đức Phật dạy: Có người áo của họ rất nhiều cáu-ghét, họ lấy được tro, đem giặt, cáu ghét liền sạch. Cũng thế, có người thụ-trì trai-giới một ngày một đêm, có từ-tâm đối với thiên-hạ, tâm mở tỏ như ánh sáng, như bóng gương, không hề có ý sân-nộ. Có người thụ-trì trai- giới một ngày một đêm, vui, thương thiên-hạ, tịnh-tâm, tự-nghĩ, tự đoan-chính ý của họ và tự tư-niệm bày tỏ những tội ác trong mình như thế, như thế không còn sân-nộ gì nữa.
Đức Phật bảo Ưu-Bà-Di Đọa-Xá-Ca rằng: Trì tám trai giới trong một ngày một đêm không xao-nhãng còn hơn đem vàng, bạc, châu, ngọc cúng-dường các vị Tỳ-Khưu Tăng. Trong thiên-hạ có mười sáu nước lớn: 1) Ương-Ca. 2) Ma-Kiệt. 3) Ca-Di. 4) Câu-Tát-La. 5) Cưu- Lưu. 6) Bát-Xà-Trà. 7) A-Ba-Da. 8) A-Hoàn-Đề-Du. 9) Chi-Đề-Du. 10) Việt-Kỳ-Du. 11) Tốc-Ma. 12) Tốc-Lại-Cha. 13) Việt-Ta. 14) Mạt-La. 15) Du-Nặc. 16) Kiếm-Bồ-Đề. Là mười sáu nước lớn (11). Trong những nước ấy có những vật trân-bảo gì đem cả để cúng-dường các vị Tỳ-Khưu Tăng cũng không bằng trì trai-giới một ngày một đêm. Vì, trì trai-giới khiến người ta được qua thế-đạo, dùng của báu cúng-dường, không thể khiến người ta đắc- đạo được. Ngay như nay ta đắc Phật-đạo, cũng vốn từ tám giới ấy mà khởi lên vậy.
Đức Phật bảo bà Đọa-Xá-Ca: "Người trong thiên-hạ này hay lo nghĩ nhiều về việc gia-đình, nên ta dùng phương-pháp ấy, khiến cho một tháng sáu ngày trai, họ thụ-trì được tám giới. Nếu có bậc Hiền-thiện nào muốn chóng được đạo A-La-Hán, muốn chóng thành Phật-đạo hay muốn sinh lên cõi Thiên, luôn luôn nên tự đoan tâm, tự nhất ý, trì trai một tháng mười lăm ngày cũng tốt hoặc trì trai được hai mươi ngày cũng tốt. Còn những người hay lo nghĩ nhiều về việc gia-đình, nên giữ một tháng sáu ngày trai cũng được. Sáu ngày trai ấy ví như nước bể không thể lấy hộc mà đong lường được cũng như người có giữ trai-giới một ngày một đêm thời phúc ấy cũng không thể nào kể xiết được".
Đức Phật bảo bà Đọa-Xá-Ca: Thôi đem những người con dâu của bà về. Và về nên tụng niệm tám giới chính trai-pháp ấy.
Ưu-Bà-Di Đọa-Xá-Ca liền đến trước đức Phật, làm lễ Phật mà lui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2013(Xem: 5486)
Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Phật ở trong vườn, cây của ông Kỳ-Đà và ông Cấp-Cô-Độc, nước Xá-Vệ, cùng với chúng Đại-Tỳ-Khưu tám vạn bốn nghìn người, như ngài Xá-Lỵ-Phất, Ngài Mục-Kiền-Liên v.v... Các vị vây quanh trước, sau Phật, nghe Phật thuyết kinh.
04/04/2013(Xem: 5754)
Chính tôi được nghe: một thời kia Đức Phật ở trong vườn Lộc-mẫu, khu vườn phía Đông nước Xá-Vệ, cùng với 500 chúng Đại-Tỳ-Khưu. Rằm tháng bảy đức Phật trải tọa cụ ngồi nơi đất trống các vị Tỳ-Khưu-Tăng vây quanh trước sau Phật. Đức Phật bảo Ngài A-Nan rằng: Nay nơi đất trống này, ông mau đi đánh kiền-trùy đi.
04/04/2013(Xem: 11644)
Chính tôi được nghe: (2) một thời kia đức Phật ở trong tinh-xá họ Thích, nước Ca-Duy-La-Vệ (Kapilavastu), cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Tỳ-Khưu. (3) Với bản-nguyện cúng trai của các đàn-việt (4) trong tháng chín, nhất thời trọn đủ, đức Phật từ trong Thiền-thất bước ra, đi đến rặng cây của ông Kỳ-đà trong khu vườn của ông Cấp-Cô-Độc (5) nước Xá-Vệ (Sràvasti).
28/03/2013(Xem: 542)
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con mau lìa ba nẻo ác Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con mau dứt tham sân si
27/03/2013(Xem: 4017)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát Rộng phát Tâm Từ Bi Công hạnh sâu như biển Quay ngược thuyền Từ
16/12/2012(Xem: 888)
Nhìn sâu ngũ uẩn tướng là không Sắc Thọ Tưởng Hành Thức cũng không. Biết rõ rằng không không khác sắc...
27/10/2012(Xem: 4967)
Với kiếp sống của con người thì chỉ hiện tại là có thực (tương đối). Sống có nghĩa là sống với hiện tại, sống vào hiện tại; hay nói cách khác, chỉ có hiện tại là sống. Sống ngay với hiện tại là tinh thần thiết thực. Than thở tiếc nuối quá khứ, hay mơ ước tương lai chẳng những để mình rơi vào chỗ phi thực, còn để mình vướng mắc vào rối loạn tâm lý, khổ đau và đánh mất hiện tại đang là, cái hiện tại sống động, mới mẻ, đầy sáng tạo, đầy nghĩa sống, và có thể hiện tại là vĩnh cửu nếu mình biết nhiếp phục (xóa tan ý niệm về thời gian).
26/07/2012(Xem: 4833)
Chính tôi được nghe (2): Một thời kia đức Phật ở chốn Long Cung: Sa Kiệt La (3), cùng với tám nghìn chúng Đại Tỳ kheo và ba vạn hai nghìn vị Đại Bồ tát. (4) Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Long Vương rằng: “Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
04/07/2012(Xem: 4418)
Một thời đức Phật đu hóa đến rừng Y Xa nước Câu Tát La cùng với 1250 Tỳ Kheo; Rừng Y Xa thuộc làng Y Xa Măng Già La rất lớn và giàu có, được Vua Ba Tư Nặc, nước Xá Vệ phong cho Bà La Môn Phất Già La Ta La giữ phần cúng tế Phạm Thiên Bà La Môn Phất Gia La Ta La là dòng dõi 7 đời có cha mẹ đều chân chính, là người thông suốt Kinh sách Phệ Đà (Ấn Độ giáo) về tướng pháp, về tế tự, v.v... Ông có 500 đệ tử mà người đứng đầu là A Ma Trú, A Ma Trú cũng có nguồn gốc và thông suốt Kinh sách như vị thầy, và cũng có rất nhiều đệ tử.
27/05/2012(Xem: 8543)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567