Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Nói Kinh Thụ Tân Tuế (1)

04/04/201319:25(Xem: 5697)
Phật Nói Kinh Thụ Tân Tuế (1)

Phật Nói Kinh Thụ Tân Tuế (1)

Việt dịch: Thích Tâm Châu

Nguồn: Hán dịch: Ngài Trúc Pháp Hộ

Chính tôi được nghe: một thời kia Đức Phật ở trong vườn Lộc-mẫu, khu vườn phía Đông nước Xá-Vệ, cùng với 500 chúng Đại-Tỳ-Khưu.
Rằm tháng bảy đức Phật trải tọa cụ ngồi nơi đất trống các vị Tỳ-Khưu-Tăng vây quanh trước sau Phật. Đức Phật bảo Ngài A-Nan rằng: Nay nơi đất trống này, ông mau đi đánh kiền-trùy đi. Sở dĩ thế, là nay ngày rằm tháng bảy, ngày chịu tuổi mới. Bấy giờ Tôn-giả A-Nan, gối bên hữu để xuống đất, quỳ dài, chắp tay, liền nói bài kệ này:
Tịnh-nhãn không gì sánh,
Không việc gì không luyện;
Trí tuệ không nhiễm trước,
Sao gọi là chịu tuổi?
Khi ấy đức Thế-Tôn, liền nói bài kệ nầy để đáp lại ngài A-Nan.
Chịu tuổi ba nghiệp sạch,
Thân, khẩu, ý làm ra.
Hai Tỳ-Khưu đối nhau,
Tự trần làm việc trái.
Lại tự xưng tên hiệu,
Ngày nay chúng chịu tuổi.
Tôi tịnh ý để chịu,
Kính mong sạch lỗi ấy.
Và Ngài A-Nan lại làm bài kệ hối về nghi-tắc.
Quá khứ hằng sa Phật,
Bích-chi cùng Thanh-văn.
Đều là chư Phật pháp,
Hay riêng Thích-Ca-Văn?
Đức Thế-Tôn lại làm bài kệ đáp lại ngài A-Nan:
Hằng sa quá khứ Phật,
Tâm đệ-tử thanh-tịnh.
Đều là chư Phật pháp,
Đâu, nay Thích-Ca-Văn?
Bích-chi không pháp ấy,
Không tuổi, không đệ-tử;
Riêng mình không bầu bạn,
Không cùng người thuyết-pháp.
Phật Thế-Tôn mai sau.
Hằng sa không kể xiết;
Các Ngài cũng chịu tuổi,
Như pháp ta (Cồ-Đàm) nay vậy.
Khi ấy Tôn-giả A-Nan nghe lời ấy rồi vui mừng hớn hở, không tự thắng được, liền lên nhà giảng tay cầm kiền-trùy đánh lên và nói ra lời này: "Tôi nay đánh cái trống tin thực này của Như-Lai, có ai là những đệ-tử của Như-Lai đều nên hợp-tập cả lại. Bấy giờ Ngài A-Nan lại nói bài kệ này:
Hàng phục mạ lực oán,
Trừ phiền não, không còn.
Đất trống, đánh kiền-trùy,
Tỳ-Khưu nghe họp lại.
Những ai muốn nghe pháp,
Thoát khỏi bể sinh tử.
Nghe tiếng vang, nhiệm này,
Chóng nên họp tại đây.
Tôn-giả A-Nan đánh kiền-trùy rồi, liền đến chỗ đức Thế-Tôn, đầu diện lễ dưới chân Phật xong, đứng về một bên, bạch đức Thế-Tôn rằng: Lạy đức Thế-Tôn, nay chính là thời giờ đã đến, kính mong đức Thế-Tôn sai bảo chúng con việc gì. Đức Thế-Tôn bảo Ngài A-Nan rằng: các ông theo thứ tự mà ngồi, Như-Lai tự biết sẽ đến thời. Bấy giờ đức Thế-Tôn ngồi trên tòa cỏ, Ngài bảo các vị Tỳ-Khưu: tất cả các ông nên ngồi trên tòa cỏ cả. Các vị Tỳ-Khưu bạch rằng: Lạy đức Thế-Tôn chúng con xin làm như thế. Liền khi ấy các vị Tỳ-Khưu đều ngồi trên tòa cỏ cả.
Bấy giờ đức Thế-Tôn mặc nhiên xem xét các vị Tỳ-Khưu. Xem xét rồi, Ngài liền bảo các vị Tỳ-Khưu: "Ta nay muốn chịu tuổi mới, vậy ta có lỗi lầm gì với chúng nhân không? Ta lại có phạm vào nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý gì không? "Như-Lai nói lời ấy rồi các vị Tỳ-Khưu mặc nhiên không đáp lại. Đức Như-Lai bảo đi bảo lại cùng các vị Tỳ-Khưu trong ba lần: "Ta nay muốn chịu tuổi mới, song ta không có lỗi lầm gì với chúng nhân ư?" Bấy giờ Tôn-giả: Xá-Lỵ-Phất liền từ tòa ngồi của mình đứng dậy, quỳ dài, chắp tay bạch đức Thế-Tôn rằng: Lạy đức Thế-Tôn, các Tỳ-Khưu chúng con xem xét đức Như-Lai không có lỗi lầm gì về nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý. Sở dĩ thế, là đức Thế-Tôn ngày nay vì những người chưa đắc-độ khiến họ đắc-độ, những người chưa được giải thoát khiến họ được giải-thoát, những người chưa được Niết-bàn khiến được Niết-bàn, những người không được cứu giúp khiến họ được cứu giúp. Ngài là nhãn-mục cho người mù, là y-vương cho người bệnh, Ngài lại là bậc độc-tôn trong ba cõi, không ai sánh kịp được. Ngài là ngôi tối tôn tối thượng. Ngài làm cho người chưa khởi đạo ý, khiến họ phát khởi đạo ý, những người chưa giác ngộ Ngài làm cho họ được giác-ngộ, những người chưa nghe pháp Ngài làm cho họ được nghe. Ngài đem chính pháp dẫn-dắt người mê qua đường tắt. Bởi sự duyên ấy đức Như-Lai không có lỗi lầm gì đối với chúng nhân, và cũng không có lỗi lầm gì về nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý cả.
Liền sau đó, Ngài Xá-Lỵ-Phất bạch đức Thế-Tôn rằng: con nay cũng hướng lên Như-Lai để tự trần tội lỗi, vậy con có lỗi lầm gì đối với đức Như-Lai cùng các vị Tỳ-Khưu-Tăng chăng? Đức Thế-Tôn bảo rằng: ông Xá-Lỵ-Phất! ông nay đều không có những phi-hạnh về nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý, sở dĩ thế, vì ông nay là bậc trí-tuệ không ai kịp được: chủng chủng trí-tuệ, vô-lượng trí-tuệ, vô-biên trí-tuệ, vô dữ đẳng-trí, tật-trí, tiệp-trí, thậm-thâm-trí, bình-đẳng-trí(2), và ở nơi ít muốn, ưa vui biết đủ, nhiều những phương-tiện, niệm không rối loạn phép Tổng-trì Tam-muội, căn nguyên Cụ-túc-giới, thành-tựu Tam-muội, thành-tựu trí-tuệ, thành-tựu giải-thoát, thành-tựu giải-thoát tri-kiến, thành-tựu dũng-mãnh, nhẫn được những lời nói, biết việc ác là phi pháp, tâm-tính thư thái, không làm việc hốp-tốp. Cũng như ngôi tối Đại-Thái-tử của Chuyển-luân Thánh-vương, sẽ nối ngôi vua quay bánh xe báu. Thì đây ông Xá-Lỵ-Phất cũng lại như thế, ông quay bánh xe pháp vô-thượng thanh-tịnh mà chư Thiên, thế-nhân cùng Long, quỷ thần, ma, hoặc Thiên ma, vốn không quay được. Nay ông nói ra thường như pháp-nghị, chưa từng trái lý.
Ngài Xá-Lỵ-Phất lại bạch Đức Phật rằng: Lạy đức Thế-Tôn 500 vị Tỳ-Khưu ở đây đều xin chịu tuổi mới, vậy 500 người này đều không có lầm lỗi gì đối với đức Như-Lai chăng? Đức Thế-Tôn bảo rằng: Ta cũng không trách gì về việc làm thuộc nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý của 500 vị Tỳ-Khưu này. Sở dĩ thế, là vì trong đại chúng có ông Xá-Lỵ-Phất này, rất là thanh-tịnh, không có vết nhơ gì. Nay hàng hạ tọa rất nhỏ trong chúng này cũng được đạo Tu-đà-hoàn, quyết sẽ lên kịp pháp bất thoái chuyển. Bởi duyên cớ ấy, nên ta không oán trách gì chúng này vậy.
Khi ấy ông Bằng-kỳ-xa ở trong chúng này liền từ tòa ngồi của mình đứng dậy đến trước đức Thế-Tôn, đầu diện lễ xuống chân Phật bạch đức Thế-Tôn rằng: Lạy đức Thế-Tôn con nay cùng gánh chịu trong việc này, con muốn có ít lời bàn, mong đức Thế-Tôn hoan-hỷ cho. Đức Thế-Tôn bảo rằng: ông muốn nói gì thì nói, nay chính là thời nên nói. Ông Bằng-kỳ-xa liền ở trước Phật, tán-thán đức Phật cùng Tỳ-Khưu-Tăng, mà nói bài kệ này:
Ngày rằm, ngày thanh-tịnh,
Năm trăm Tỳ-Khưu họp.
Mọi ràng-buộc đều cổi,
Không yêu và không sinh,
Chuyển-luân đại Thánh-vương.
Quần-thần đều vây quanh.
Khắp cả mọi thế-giới;
Thiên thượng cùng thế gian.
Dẫn-dắt cả mọi người,
Làm đạo-sư cõi người.
Đệ-tử vui theo hầu,
Suốt tam đạt(3) lục thông.
Đều là chân Phật-tử,
Không có chút trần-cấu.
Dứt dục-ái kích-thích.
Ngày nay tự quy mệnh.
Đức Thế-Tôn nhận lời nói của ông Bằng-kỳ-xa, ông Bằng-kỳ-xa niệm rằng: Ngày nay đức Như-Lai đã nhận lời nói của ta, ông vui mừng hớn-hở, không tự-thắng được, liền từ tòa ngồi của mình đứng dậy lễ Phật và lui về bản vị.
Đức Thế-Tôn bảo các vị Tỳ-Khưu: Đệ-tử làm bài kệ thứ nhất trong hàng Thanh-văn của ta là ông Bằng-kỳ-xa Tỳ-Khưu này và, lời nói không nghi-nạn cũng là ông Bằng-kỳ-xa Tỳ-Khưu này vậy.
Các vị Tỳ-Khưu nghe đức Phật nói rồi hoan-hỷ phụng hành.



Chú thích:


(1) Kinh này là cuốn kinh số 61 trong Đại-Tạng-kinh. Thụ tân tuế có nghĩa là chịu tuổi năm mới.
(2) Những trí ở đây tương-tự với những trí-tuệ trong kinh Giải Hạ ở trên, xem đấy sẽ hiểu.
(3) Tam đạt cũng như Tam minh (3 phép minh).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/08/2019(Xem: 8783)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
14/04/2019(Xem: 7870)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo… Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật. Ngài có đời sống dài vô hạn lượng nên còn có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật.
20/09/2018(Xem: 4504)
Trung Bộ Kinh Nikaya (Majjhima Nikaya) có bốn bài kinh: 1) Nhất Dạ Hiền Giả (Bhaddekaratta Sutta), 2) Ananda và kinh Nhất Dạ Hiền (Anandabhaddekaratta Sutta); 3) Đại-Ca Chiên-Diên và kinh Nhất Dạ Hiền (Mahakaccanabhaddekaratta Sutta); 4) Lomasakangiya và kinh Nhất Dạ Hiền (Lomasakangiyabhaddekaratta Sutta). Cả bốn bài kinh này đều xoáy trọng tâm vào một bài kệ do Đức Phật tổng thuyết và biệt thuyết nhằm khuyến tấn các đệ tử của Ngài hãy nỗ lực tu tập để phát huy tuệ quán nhận ra "cái đang là" của các pháp hiện tại và an trú trong bây giờ và ở đây.
28/04/2018(Xem: 7322)
Sự hiện hữu của nhân sinh bao giờ cũng mang theo những ước mong về một đời sống tốt đẹp. Nhưng có lẽ sự tốt đẹp cho cả cuộc đời này là khát khao lớn nhất và có giá trị cao cả nhất cho những ai luôn nuôi dưỡng những tâm nguyện của tình thương bao la cho cả vũ trụ này. Có những mơ ước về một đời sống lí tưởng cho riêng mình, nhưng cũng có nhữngước mong xây dựng cho cả cuộc đời này thành một cảnh giới thật sự chỉ có mặt của niềm hạnh phúc. Những tâm tư như thế được thể hiện từ rấtxưa ở Trung Quốc với lí tưởng “thế giới đại đồng” của Nho Giáo,
12/11/2017(Xem: 17995)
Có tu có học có hành Đêm ngày tự có phước lành phát sanh Không tu không học không thành Dù trăm tài sản cũng đành bỏ đi .
02/04/2017(Xem: 8246)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
28/04/2016(Xem: 16366)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
07/01/2015(Xem: 8548)
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
19/12/2013(Xem: 20082)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
14/09/2013(Xem: 7226)
Kinh A Di Đà là một bản Kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của Kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, Kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567