Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Nói Kinh Thụ Tân Tuế (1)

04/04/201319:25(Xem: 5726)
Phật Nói Kinh Thụ Tân Tuế (1)

Phật Nói Kinh Thụ Tân Tuế (1)

Việt dịch: Thích Tâm Châu

Nguồn: Hán dịch: Ngài Trúc Pháp Hộ

Chính tôi được nghe: một thời kia Đức Phật ở trong vườn Lộc-mẫu, khu vườn phía Đông nước Xá-Vệ, cùng với 500 chúng Đại-Tỳ-Khưu.
Rằm tháng bảy đức Phật trải tọa cụ ngồi nơi đất trống các vị Tỳ-Khưu-Tăng vây quanh trước sau Phật. Đức Phật bảo Ngài A-Nan rằng: Nay nơi đất trống này, ông mau đi đánh kiền-trùy đi. Sở dĩ thế, là nay ngày rằm tháng bảy, ngày chịu tuổi mới. Bấy giờ Tôn-giả A-Nan, gối bên hữu để xuống đất, quỳ dài, chắp tay, liền nói bài kệ này:
Tịnh-nhãn không gì sánh,
Không việc gì không luyện;
Trí tuệ không nhiễm trước,
Sao gọi là chịu tuổi?
Khi ấy đức Thế-Tôn, liền nói bài kệ nầy để đáp lại ngài A-Nan.
Chịu tuổi ba nghiệp sạch,
Thân, khẩu, ý làm ra.
Hai Tỳ-Khưu đối nhau,
Tự trần làm việc trái.
Lại tự xưng tên hiệu,
Ngày nay chúng chịu tuổi.
Tôi tịnh ý để chịu,
Kính mong sạch lỗi ấy.
Và Ngài A-Nan lại làm bài kệ hối về nghi-tắc.
Quá khứ hằng sa Phật,
Bích-chi cùng Thanh-văn.
Đều là chư Phật pháp,
Hay riêng Thích-Ca-Văn?
Đức Thế-Tôn lại làm bài kệ đáp lại ngài A-Nan:
Hằng sa quá khứ Phật,
Tâm đệ-tử thanh-tịnh.
Đều là chư Phật pháp,
Đâu, nay Thích-Ca-Văn?
Bích-chi không pháp ấy,
Không tuổi, không đệ-tử;
Riêng mình không bầu bạn,
Không cùng người thuyết-pháp.
Phật Thế-Tôn mai sau.
Hằng sa không kể xiết;
Các Ngài cũng chịu tuổi,
Như pháp ta (Cồ-Đàm) nay vậy.
Khi ấy Tôn-giả A-Nan nghe lời ấy rồi vui mừng hớn hở, không tự thắng được, liền lên nhà giảng tay cầm kiền-trùy đánh lên và nói ra lời này: "Tôi nay đánh cái trống tin thực này của Như-Lai, có ai là những đệ-tử của Như-Lai đều nên hợp-tập cả lại. Bấy giờ Ngài A-Nan lại nói bài kệ này:
Hàng phục mạ lực oán,
Trừ phiền não, không còn.
Đất trống, đánh kiền-trùy,
Tỳ-Khưu nghe họp lại.
Những ai muốn nghe pháp,
Thoát khỏi bể sinh tử.
Nghe tiếng vang, nhiệm này,
Chóng nên họp tại đây.
Tôn-giả A-Nan đánh kiền-trùy rồi, liền đến chỗ đức Thế-Tôn, đầu diện lễ dưới chân Phật xong, đứng về một bên, bạch đức Thế-Tôn rằng: Lạy đức Thế-Tôn, nay chính là thời giờ đã đến, kính mong đức Thế-Tôn sai bảo chúng con việc gì. Đức Thế-Tôn bảo Ngài A-Nan rằng: các ông theo thứ tự mà ngồi, Như-Lai tự biết sẽ đến thời. Bấy giờ đức Thế-Tôn ngồi trên tòa cỏ, Ngài bảo các vị Tỳ-Khưu: tất cả các ông nên ngồi trên tòa cỏ cả. Các vị Tỳ-Khưu bạch rằng: Lạy đức Thế-Tôn chúng con xin làm như thế. Liền khi ấy các vị Tỳ-Khưu đều ngồi trên tòa cỏ cả.
Bấy giờ đức Thế-Tôn mặc nhiên xem xét các vị Tỳ-Khưu. Xem xét rồi, Ngài liền bảo các vị Tỳ-Khưu: "Ta nay muốn chịu tuổi mới, vậy ta có lỗi lầm gì với chúng nhân không? Ta lại có phạm vào nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý gì không? "Như-Lai nói lời ấy rồi các vị Tỳ-Khưu mặc nhiên không đáp lại. Đức Như-Lai bảo đi bảo lại cùng các vị Tỳ-Khưu trong ba lần: "Ta nay muốn chịu tuổi mới, song ta không có lỗi lầm gì với chúng nhân ư?" Bấy giờ Tôn-giả: Xá-Lỵ-Phất liền từ tòa ngồi của mình đứng dậy, quỳ dài, chắp tay bạch đức Thế-Tôn rằng: Lạy đức Thế-Tôn, các Tỳ-Khưu chúng con xem xét đức Như-Lai không có lỗi lầm gì về nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý. Sở dĩ thế, là đức Thế-Tôn ngày nay vì những người chưa đắc-độ khiến họ đắc-độ, những người chưa được giải thoát khiến họ được giải-thoát, những người chưa được Niết-bàn khiến được Niết-bàn, những người không được cứu giúp khiến họ được cứu giúp. Ngài là nhãn-mục cho người mù, là y-vương cho người bệnh, Ngài lại là bậc độc-tôn trong ba cõi, không ai sánh kịp được. Ngài là ngôi tối tôn tối thượng. Ngài làm cho người chưa khởi đạo ý, khiến họ phát khởi đạo ý, những người chưa giác ngộ Ngài làm cho họ được giác-ngộ, những người chưa nghe pháp Ngài làm cho họ được nghe. Ngài đem chính pháp dẫn-dắt người mê qua đường tắt. Bởi sự duyên ấy đức Như-Lai không có lỗi lầm gì đối với chúng nhân, và cũng không có lỗi lầm gì về nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý cả.
Liền sau đó, Ngài Xá-Lỵ-Phất bạch đức Thế-Tôn rằng: con nay cũng hướng lên Như-Lai để tự trần tội lỗi, vậy con có lỗi lầm gì đối với đức Như-Lai cùng các vị Tỳ-Khưu-Tăng chăng? Đức Thế-Tôn bảo rằng: ông Xá-Lỵ-Phất! ông nay đều không có những phi-hạnh về nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý, sở dĩ thế, vì ông nay là bậc trí-tuệ không ai kịp được: chủng chủng trí-tuệ, vô-lượng trí-tuệ, vô-biên trí-tuệ, vô dữ đẳng-trí, tật-trí, tiệp-trí, thậm-thâm-trí, bình-đẳng-trí(2), và ở nơi ít muốn, ưa vui biết đủ, nhiều những phương-tiện, niệm không rối loạn phép Tổng-trì Tam-muội, căn nguyên Cụ-túc-giới, thành-tựu Tam-muội, thành-tựu trí-tuệ, thành-tựu giải-thoát, thành-tựu giải-thoát tri-kiến, thành-tựu dũng-mãnh, nhẫn được những lời nói, biết việc ác là phi pháp, tâm-tính thư thái, không làm việc hốp-tốp. Cũng như ngôi tối Đại-Thái-tử của Chuyển-luân Thánh-vương, sẽ nối ngôi vua quay bánh xe báu. Thì đây ông Xá-Lỵ-Phất cũng lại như thế, ông quay bánh xe pháp vô-thượng thanh-tịnh mà chư Thiên, thế-nhân cùng Long, quỷ thần, ma, hoặc Thiên ma, vốn không quay được. Nay ông nói ra thường như pháp-nghị, chưa từng trái lý.
Ngài Xá-Lỵ-Phất lại bạch Đức Phật rằng: Lạy đức Thế-Tôn 500 vị Tỳ-Khưu ở đây đều xin chịu tuổi mới, vậy 500 người này đều không có lầm lỗi gì đối với đức Như-Lai chăng? Đức Thế-Tôn bảo rằng: Ta cũng không trách gì về việc làm thuộc nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý của 500 vị Tỳ-Khưu này. Sở dĩ thế, là vì trong đại chúng có ông Xá-Lỵ-Phất này, rất là thanh-tịnh, không có vết nhơ gì. Nay hàng hạ tọa rất nhỏ trong chúng này cũng được đạo Tu-đà-hoàn, quyết sẽ lên kịp pháp bất thoái chuyển. Bởi duyên cớ ấy, nên ta không oán trách gì chúng này vậy.
Khi ấy ông Bằng-kỳ-xa ở trong chúng này liền từ tòa ngồi của mình đứng dậy đến trước đức Thế-Tôn, đầu diện lễ xuống chân Phật bạch đức Thế-Tôn rằng: Lạy đức Thế-Tôn con nay cùng gánh chịu trong việc này, con muốn có ít lời bàn, mong đức Thế-Tôn hoan-hỷ cho. Đức Thế-Tôn bảo rằng: ông muốn nói gì thì nói, nay chính là thời nên nói. Ông Bằng-kỳ-xa liền ở trước Phật, tán-thán đức Phật cùng Tỳ-Khưu-Tăng, mà nói bài kệ này:
Ngày rằm, ngày thanh-tịnh,
Năm trăm Tỳ-Khưu họp.
Mọi ràng-buộc đều cổi,
Không yêu và không sinh,
Chuyển-luân đại Thánh-vương.
Quần-thần đều vây quanh.
Khắp cả mọi thế-giới;
Thiên thượng cùng thế gian.
Dẫn-dắt cả mọi người,
Làm đạo-sư cõi người.
Đệ-tử vui theo hầu,
Suốt tam đạt(3) lục thông.
Đều là chân Phật-tử,
Không có chút trần-cấu.
Dứt dục-ái kích-thích.
Ngày nay tự quy mệnh.
Đức Thế-Tôn nhận lời nói của ông Bằng-kỳ-xa, ông Bằng-kỳ-xa niệm rằng: Ngày nay đức Như-Lai đã nhận lời nói của ta, ông vui mừng hớn-hở, không tự-thắng được, liền từ tòa ngồi của mình đứng dậy lễ Phật và lui về bản vị.
Đức Thế-Tôn bảo các vị Tỳ-Khưu: Đệ-tử làm bài kệ thứ nhất trong hàng Thanh-văn của ta là ông Bằng-kỳ-xa Tỳ-Khưu này và, lời nói không nghi-nạn cũng là ông Bằng-kỳ-xa Tỳ-Khưu này vậy.
Các vị Tỳ-Khưu nghe đức Phật nói rồi hoan-hỷ phụng hành.



Chú thích:


(1) Kinh này là cuốn kinh số 61 trong Đại-Tạng-kinh. Thụ tân tuế có nghĩa là chịu tuổi năm mới.
(2) Những trí ở đây tương-tự với những trí-tuệ trong kinh Giải Hạ ở trên, xem đấy sẽ hiểu.
(3) Tam đạt cũng như Tam minh (3 phép minh).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 17303)
Đại sư tên Huệ Năng, thân phụ họ Lư, húy Hành Thao, thân mẫu họ Lý. Đời vua Đường Vũ Đức năm thứ 3 tháng 9 ở tân Châu, bà Lý Thị nằm mộng thấy trước sân hoa trắng đua nở, có đôi chim nhạn trắng bay, hương lạ tỏa đầy nhà, khi tỉnh dạy thì thụ thai. Bà thanh khiết trai giới, hoài thai sáu năm Sư mới ra đời. Ấy là năm Trinh Quán thứ 12 đời Đường Thái Tông, nhằm năm Mậu Tuất (638DL) ngày mồng 8 tháng 2 giờ Tý.
08/04/2013(Xem: 15849)
Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Phật ở trong điện quan Thừa Tướng, thuộc phía Đông thành Xá-Vệ. Một hôm mẹ quan Thừa Tướng ấy tên là Duy-Da; sáng sớm dậy, bà tắm gội, mặc áo mầu, rồi cùng những người con dâu đi đến chốn Phật. Đến nơi, cùng nhau cúi đầu lễ sát chân Phật. Lễ xong, tất cả đều ngồi về một bên.
08/04/2013(Xem: 14460)
“Bát Thức Quy Củ Tụng” là một tác phẩm thuộc bộ môn Duy Thức do Ngài Huyền Trang đời Đường biên soạn. Nguyên tác vốn rất dài, khó nhớ, khó thuộc, vì vậy Ngài Khuy Cơ, đệ tử của Ngài Huyền Trang được phép Sư Phụ, đã toát yếu tác phẩm trên thành 41 câu tụng, giúp người tu học Phật được dễ dàng hơn trong việc đọc tụng hằng ngày.
08/04/2013(Xem: 18176)
Việc tự tứ và trai tăng trong ngày Vu lan, và qua đó mà báo hiếu cha mẹ, thì không cần phải nói đến nữa. Điều đáng nói là các chùa nên tổ chức hiệp kỵ cho Phật tử trong ngày Vu lan, sau khi tự tứ và trai tăng. Ngày nay kỵ giỗ của mỗi nhà cũng không thể còn như xưa
08/04/2013(Xem: 6199)
Trong việc học hỏi Phật Pháp, điều căn bản cần phải biết các đặc tánh của tâm và pháp như thế nào mới có thể tìm hiểu thêm pháp học và pháp hành Phật đạo. Kinh Giáo Giới Nandaka và Kinh Giáo Giới Channa đã nói lên hai đặc tánh ấy.
08/04/2013(Xem: 7179)
Quan Thế Âm là danh hiệu của một vị Bồ Tát. Quán Thế Âm dịch nghĩa của chữ Avalokitesvara (Trung Hoa phiên âm là A phạ lô chỉ đê thấp phạt la) của chữ Phạm (Ấn Độ) và có nghĩa là vị Bồ Tát quán sát tiêng kêu cầu của chúng sinh trong thế gian, mà độ cho họ được giải thoát.
08/04/2013(Xem: 9685)
Điều mình không ưa chớ nên trách người. Anh hãy là ngọn đuốc và nơi nương náu cho chính mình anh. Anh đừng nên phó thác vào chốn dung thân nào khác. Muốn bình thiên hạ, hãy bình tâm địa trước đã. Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình. Chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất!
08/04/2013(Xem: 9254)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la. Những người nên độ, Ngài đã độ xong. Ngài nghỉ ở giữa hai cây Sa-la và sắp nhập niết-bàn.
08/04/2013(Xem: 6128)
Chính tôi được nghe: một thời kia đức Thế-Tôn ở trong Trúc-lâm tinh-xá: Ca-Lan-Đa (Karanda-venùvana), thuộc Vương-Xá đại-thành. Bấy giờ, Ngài cùng rất nhiều vị Đại-Bồ-Tát, trụ bất-thoái-chuyển (2) chứng ngôi Thập-địa (3) và đã viên-mãn mười pháp Ba-La-Mật-Đa (4).
08/04/2013(Xem: 5799)
Một năm trọn, dịp kỷ-niệm Phật-Tổ thành-đạo năm ngoái (1956) tôi tâm-nguyện phiên-dịch và ấn-hành trọn năm những cuốn kinh mỏng, thông-thường, phổ-biến cho các hàng Phật-tử sơ-cơ. Hoàn-cảnh vô cùng khó-khăn, phức-tạp, chỉ một lòng nhẫn-nại, tin-tưởng nơi Tam-bảo gia-hộ, vừa trong kỳ kỷ-niệm Phật-Tổ thành-đạo năm nay (1957), 12 tập gồm 22 quyển và 4 phẩm nhỏ được ra đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567