Lá bối 1996
DUY BIỂU HỌC
Giảng luận
Thiền Sư Nhất Hạnh
---o0o---
9.
Quán chiếu tính y tha
Vô minh thành tuệ giác
Luân hồi và chơn như
Tuy hai mà thành một.
Nếu chúng ta sống có chánh niệm để có thể thấy được tính y tha khởi trong lòng sự vật thì chúng ta có thể chuyển vô mình thành tuệ giác được, đó là cái chìa khóa. Trong Duy Biểu học có giáo lý về ba Tự tính. Tự tính là Svabhava, dịch tiếng Anh là The Tue Nature, Self Nature. Tự tính tức là cái bản chất của chính nó. Sự vật có tự tính của nó. Và tự tính đó là đối tượng nhận thức của mình. Và chúng ta đã học tự tính đầu là tự tính biến kế. Tự tính này không phải chính nó tự có mà tại vì vô minh, tại vì sự ngu muội của chúng ta cho nên thực tại mang màu sắc đó. Ví dụ chúng ta buồn, chúng ta nhìn mặt trăng thì chúng ta thấy mặt trăng nó buồn. Tự tính là do tâm thức của chúng ta tạo tác, gọi là tự tính biến kế (parikalpita). Đó là những tạo tác của tâm, ý. Như khi mà chúng ta quan niệm thế giới nó có sinh, có diệt, có thành, có hoại, có một, có nhiều, có lui, có tới đó là chúng ta tạo tác ra những cái tính chất của thực tại mà chính cái thực tại đó không có, gọi là tự tính biến kế chấp. Và chúng ta bị giam hãm trong thế giới của vô minh, sinh tử, vì chúng ta đã tạo ra cái thế giới mà chúng ta tưởng là thực tại tự thân nhưng kỳ thực đó là thế giới biến kế chấp.
Ngược lại thế giới biến kế chấp là thế giới Viên thành thật. Thế giới Viên thành thật là thế giới không có sự tạo tác của tâm ý, không có những khái niệm (conception). Đây thực sự là tự tính của vạn pháp. Tự tính viên thành thật đích là tự tính của vạn pháp trong đó không có sinh, có diệt, không có một, không có nhiều, không có đi, không có tới, không có có và không có không. Và tự tính thứ ba mà chúng ta gọi là tính y tha, nói cho đủ là Tự Tính Y Tha Khởi. Y tha khởi tức là nương vào những cái vật khác mà phát sinh, tiếng Phạn là paratantra. Y tha khởi. tại vì tất cả mọi sự mọi vật đều nương vào những những hiện tượng khác mà phát khởi. Ví dụ như bông hoa. Bông hoa, tự tính của nó là y tha khởi. Y tha khởi tức là nương vào những điều kiện khác mà có. Ví dụ như là hạt giống, đám mây, sức nóng của mặt trời v.v… những cái đó đều gọi là tha. Tha tức là những điều kiện khác. Y tha khởi cũng là tự tính của vạn vật. Và nếu chúng ta biết quán chiếu tính y tha khởi của vạn vật thì chúng ta có khả năng chuyển “Vô minh thành tuệ giác”. Quán ở đây là nhìn, nhìn sâu và nhìn kỹ, nhìn vào trong lòng sự vật. Chiếu là đưa ánh sáng tới để có thể nhìn. Nếu không có ánh sáng thì không có nhìn. “Quán chiếu tính y tha” ở đây tức là sử dụng Vô thường quán, sử dụng Vô ngã quán và Nhân duyên quán. Vô thường quán nó là Vô ngã quán, và Vô ngã quán cũng là Nhân duyên quán. Trước khi đi vào 50 bài tụng thì chúng ta đã học về Tam pháp Ấn và chúng ta đã thấy rằng khi mà chúng ta tiếp xúc được với vô thường và vô ngã của vạn pháp thì chúng ta có thể tiếp xúc được tự tính niết bàn của vạn pháp. Vô thường vô ngã là đứng về hiện tượng mà nói, còn Niết-bàn là đứng về phương diện bản thể mà nói. Cho nên bài Tam Pháp Ấn rất là quan trọng, nó là chìa khóa để mở ra Duy Biểu. Vô thường là chìa khóa đầu, chúng ta dùng để mở cửa thực tại và Vô ngã là đứng vè phương diện không gian. Tuy hai cái nhưng kỳ thực là một, tại vì chúng ta đã học thời gian với không gian nó nương vào nhau mà thành. Thời gian và không gian nó cũng là y tha khởi. Thì chúng ta đã cũng có thể tạm nói rằng Vô thường, Vô ngã là cái thấy của chúng ta đứng về phương diện hiện tượng (phenomna). Còn Niết-bàn là đứng về phương diện bản thể. Có thể nói Niết-bàn là tương đương với tự tính Viên thành thật, tức là thực tại không sinh, không diệt, không tới, không đi, không một, không nhiều, không có và không không. Và chúng ta muốn thực chứng thực được được cái thức tại Niết-bàn thì trước hết chúng ta phải tiếp xúc với thực tại Vô thường, Vô ngã nó tương đương với tự tánh thứ hai là tự tánh y tha khởi. Như vậy cái tự tính biến kế chấp nó nằm ở đâu? Tự tính biến kế chấp nằm ở cái chỗ là chúng ta tin vào thường và ngã. Cái thấy của chúng ta là tin vào thường và ngã. Đó là cái thấy thông tục của những người không có tu học, của những người vô minh và thực tại đối với họ là có thường và có ngã. Và khi mà thực tại hiển hiện ra cho họ như là những cái gì có thường, có ngã thì thực tại đó mang màu sắc của tự tính biến kế chấp. Vì vậy cho nên người tu học phải sử dụng hai chìa khóa vô thường và vô ngã để bắt đầu nhìn sự vật bằng con mắt quán chiếu vô thường, vô ngã, thì lúc đó là sử dụng cái thấy của y tha khởi. Và cái phương pháp của mình là thắp ánh sáng chánh niệm trong đời sống hàng ngày của mình. Mình nhìn cái gì, nghe cái gì, tiếp xúc cái gì cũng dùng chánh niệm để có thể thấy được tự tính y tha khởi ở trong những sự vật mà mình tiếp xúc, dầu nó là thân thể, hay là hơi thở hay là cảm thọ, hay là tâm hành, hay là thiên nhiên, núi, sông, cây, cỏ. Tiếp xúc và nhìn vào bất cứ một hiện tượng nào cũng phải làm bằng chánh niệm để có thấy được tính chất y tha của tất cả mọi vật. Như là bông hoa, chúng ta đừng có nhìn thất niệm, chúng ta nhìn bằng chánh niệm để có thể thấy được tự tính y tha của bông hoa. Nhìn vào Mẹ, nhìn vào Cha, vào bạn bè, chúng ta cũng phải nhìn để thấy được tính y tha. Em bé nó giỏi, nó ngoan là tại vì làm sao đó. Chúng ta thấy được cái nguyên do, những cái gốc rễ của cái giỏi, cái ngoan của em bé. Em bé mà hư hỏng, em bé mà du đảng, em bé mà khó dạy thì khi chúng ta nhìn vào em bé chúng ta cũng thấy được tự tính y tha khởi của em bé. Tức là những cái hoàn cảnh gia đình, xã hội, học đường, bạn bè, tổ tiên của nó. Phải thấy được nguyên do đã khiến em bé trở nên du đãng như vậy. Nhìn em bé mà thấy được cái đó tức là chúng ta đã quán chiếu y tha khởi. Còn nếu không có nhìn bằng con mắt quán chiếu y tha khởi thì chúng ta nhìn cách khác và chúng ta chỉ có giận, có buồn, có trách móc, có la rầy thôi chứ ta không hiểu; mà không có cái hiểu thì không thể nào đạt tới cái chấp nhận, thương yêu và chuyển hóa nó được. Cho nên nhìn những hiện tượng thiên nhiên chúng ta cũng phải nhìn bằng con mắt quán chiếu y tha khởi, nhìn vào những hiện tượng con người chúng ta cũng phải nhìn bằng con mắt quán chiếu y tha khởi.
Nhìn vào những hiện tượng tâm lý của chúng ta và của những người khác chúng ta cũng phải nhìn bằng con mắt quán chiếu y tha khởi. Ví dụ người đó hay giận hay buồn và cái giận cái buồn đó làm cho mình không có được an lạc lắm và mình trách người đó hay giận hay buồn, nhưng mà nếu chúng ta nhìn cái giận, cái buồn của người đó bằng con mắt quán chiếu y tha khởi thì chúng ta hiểu được những gốc rễ gần và xa của cái tâm trạng đó là tự nhiên chúng ta hiểu, chúng ta không còn trách móc người đó nữa mà chúng ta có thể chấp nhận được người đó, thương người đó và giúp đỡ người đó thì tự nhiên người đó và chúng ta cũng bớt khổ liền. Hậu quả có thể có ngay được là do cái thấy về y tha khởi. Ví dụ như khi mà chúng ta quắn chiếu cái hình phạt gọi là tử hình (death penalty) bằng con mắt quán chiếu y tha khởi, thì chúng ta thấy rằng áp dụng cái hình phạt tử hình không có đúng. Tại vì con người làm ra cái tội ác đó có những nguyên do xa gần: có những hạt giống trao truyền, những hạt giống được gieo trồng, những hoàn cảnh xã hội, các nhà giáo dục, các nhà kinh tế, cha mẹ, bạn bè, anh em đã không làm gì để giúp người đó có thể chuyển hóa được; và vì vậy cho nên chúng ta tỏ ra sự bất lực của chúng ta, chúng ta nghĩ rằng: để đối xử với người đó, để đối trị với người đó chỉ có một phương pháp duy nhất là đem giết người đó không muốn người đó đi mà thôi. Đó là sự thua trận của chúng ta. Có thể người đó không muốn giết người, không muốn phá phách, nhưng mà có cái sức mạnh gì nó lớn quá ở trong con người đó, nó kéo người đó phải đi tới cái chuyện giết người, chuyện hãm hiếp, chuyện này kia. Thành ra nếu mà nhìn vào sâu trong con người đó thì thấy được tính y tha chúng ta có thể khởi được tâm từ bi mà thông thường chúng ta không thể khởi được. Nhưng người mà cắt xén chúng ta, giẫm đạp lên chúng ta như là giẫm đạp lên con giun, con dế thì chúng ta không thể tha thứ được, chúng ta giận hờn, chúng ta thù hận; nhưng mà nếu chúng ta có thể nhìn được bằng con mắt quán chiếu y tha khởi thì chúng ta có thể thấy rằng: nếu chúng ta được sinh ra, được lớn lên, được giáo dục bằng những điều kiện của người đó thì chúng ta cũng sẽ làm như vậy. Và cái hiểu đó đưa tới cho chúng ta một sự bao dung và chúng ta không có giận, không có thù hằn người đó và trong tâm của chúng ta nó nhẹ nhàng, chúng ta có thể chết một cách bình yên hơn và ít thù hận hơn. Đó là kết quả thứ nhất.
Ngày xưa khi còn nhỏ, đọc kinh, tôi thấy trong những kiếp trước của Bụt là những vị Nhẫn Nhục Tiên Nhân bị người ta đem thân thể cưa ra mà vị Bồ-tát vẫn mĩm cười như thường, tôi nghĩ đây không phải là người, mà là một vị Thánh. Làm sao mà người ta hành hạ, người ta cưa thân xác mình ra như vậy mà mình vẫn tha thứ được? Do vì có trẻ quá mình không hiểu. Tại vì trong con người của người đó có con mắt quán chiếu, thấy được những cái nguyên do xa gần đã đưa tới một chất liệu trong con người của Bồ-tát, gọi là chất liệu đại bi, tức là xót thương lớn. Thành ra khi đối diện với con người độc ác vô cùng đó mà chất liệu đại bi trong người thì mình không có đau khổ, mình không có hờn oán và mình có thể chết rất là an lành, mình có thể chết rất là an lành, mình có thể tha thứ được cho người đó. Và vì vậy cho nên người nào không có quán chiếu, và chưa nếm được chất liệu của đại bi thì không thể nào hiểu được cai hành động của vị Tiên nhân nhẫn nhục kia. Nhưng mà người nào đã có một chút ít từ bi, đã có một chút quán chiếu, đã có thể hiểu và thương được những người độc ác thì những người đó có thể hiểu được hành động của vị Bồ-tát đó. Ở trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam, thanh niên và các vị xuất gia trẻ tuổi họ tham dự các công tác cứu trợ đồng bào, giúp đỡ những nạn nhân chiến tranh, phát triển nông thôn, họ làm việc trong những hoàn cảnh hết sức là khó khăn, thì có nhiều tác viên vẫn chết trong sự hận thù trong sự đen tối. Mình đứng ở giữa để làm công tác của tình huynh đệ thì mình có thể bị nghi kỵ, hiểu lầm và nhiều tác viên của mình đã bị tàn sát trong hoàn cảnh đó. Có một lần, một số tác viên của mình trong đó có một sư huynh tên là Thật Trí - viết chữ giống hệt như Thầy đã chết. Thì lúc đó Thầy đã đi ra ngoại quốc rồi và khi mà nhận được những cái tin bị tàn sát, bị bắt cóc và thủ tiêu như vậy Thầy rất là đau khổ và thương những tác viên của Thầy, không biết là đã có chất lượng tha thứ trong người chưa. Nếu mà có thì trong khi chết không có đau khổ lắm, còn nếu không có chất liệu đại bi mà chết trong sự hờn oán thì rất là đau khổ. Cho nên Thầy mới viết bài thơ “Dặn Dò”. Hồi đó Sư cô Chân Không cũng còn ở nhà, chị Nhất Chi Mai, một trong sáu người Tiếp Hiện đầu tiên, người đã tự thiêu cho hòa bình cũng đang còn ở nhà. Thì Thầy mới viết bài “Dặn Dò” về để cho các tác viên quán chiếu. Tại vì Thầy rất thương những người tác viên còn trẻ của mình trong đó có các chú đi làm việc vì tình thương, vì đồng bào, vì đất nước có thể chết trong sự tàn bạo, tỵ hiềm, cho nên Thầy quán chiếu rất nhiều và Thầy làm ra bài thơ đó, gọi là bài thơ Dặn Dò, nếu mà em chưa chết thì phải như thế này:
“Xin hứa với tôi hôm nay
Trên đầu chúng ta có mặt trời
Và giữa trưa đứng bóng
Rằng không bao giờ em thù hận con người
Dù con người có đổ chụp lên đầu em
Cả ngọn núi hận thù, tàn bạo
Dù con người giết em
Dẫm lên mạng sống em
Như là dẫm lên giun dế
Dù con người móc mật, mọi gan em
Đày ải em vào hang sâu tủi nhục
Em vẫn phải nhớ tới lời tôi căn dặn
Kẻ thù chúng ta không phải con người
Xứng đáng chỉ có tính xót thường
Vì tôi xin em đừng đòi điều kiện
Bởi vì không bao giờ oán hơn lên tiếng
Đối đáp với sự tàn bạo con người
Có thể ngày mai trước khuôn mặt bạo tàn
Một mình em đối diện:
Hãy rót cái nhìn dịu hiền từ đôi mắt
Hãy can đảm dù không ai hay biết
Và nụ cưòi em hãy để ở trong cô đơn,
Trong đau thương thắm thiết
Những người yêu em dù lênh đênh
Qua ngàn trùng sinh diệt
Vẫn sẽ nhìn thấy em
Tôi sẽ đi một mình
Và dầu tôi cúi xuống
Tình yêu bổng trở nên bất diệt
Đường xa và gặp ghềnh muôn dặm
Nhưng đôi vầng nhật nguyệt
Sẽ vẫn còn soi bước cho tôi”.
Nhất Chi Mai trước khi tự thiêu và kêu gọi hai phe lâm chiến ngồi lại với nhau để chấm dứt chiến tranh, Chị có đọc hài đó hai lần. Thì khi mà quán chiếu cái tính y tha và thấy được rằng con người cũng là nạn nhân của gia đình, của xã hội, của hoàn cảnh thì tự nhiên có cái hiểu, có cái hiểu thì tự nhiên có sự thương xót và tha thứ. Và cái hiểu đưa tới cái thương. Thương đây từ bi. Và khi mà có chất liệu từ bi thì mình không có cái đau khổ và cái giận, và có tuệ giác. Những cái sợ, những cái lo, những cái buồn, những cái thất vọng, những cái tuyệt vọng tất cả những cái đó làm cho mình đau khổ. Nhưng mà nếu mình biết quán chiếu tự tính y tha của cả mọi sự, mọi vật thì mình sẽ thấy được, sẽ hiểu được và sẽ có đại bi, sẽ có chấp nhận, sẽ có thương yêu và vì vậy cho nên mình sẽ không đau khổ. Có chất liệu đại bi ở trong trái tim thì cũng giống là như có Cam lộ. Có nước Cam Lộ thì mình sẽ không đau khổ, dầu người đó có phụ bạc mình, dầu người đó phản bội mình, dầu người đó tàn sát mình, mình vẫn có thể thương được như thường. Và vì vậy cho nên người ta nói rằng đại bi là chất liệu của vị Bồ-tát. Có chất liệu đại bi thì mình đã là vị Bồ-tát rồi, dầu là một vị Bồ-tát nhỏ, khi chất liệu đại bi còn ít.
Khi mà mình đi thiền hành thấy được rằng chân mình sắp dẫm đạp lên giun mà mình ngưng lại thì biết rằng trong con người mình đã có chất liệu đại bi dù chất liệu đó đang còn nhỏ bé. Và nếu quán chiếu, sống đời sống hằng ngày của mình cho tỉnh thức thì chất liệu đại bi đó càng ngày càng lớn. Trong kinh Pháp Hoa có một câu năm chữ tóm tắt lại cách sống đó là mắt thương nhìn cuộc đời (từ nhãn thị chúng sanh), tức là mắt thương yêu để nhìn cuộc đời: nhìn cây, nhìn đá, nhìn mây, nhìn trời, nhìn người, nhìn thú vật, nhìn tất cả mọi hiện tượng trong cuộc sống bằng con mắt thường là từ bi. Mà chúng ta biết rằng mắt thương chỉ có được khi mà con mắt hiểu nó có. Hiểu nó sinh ra thương. Và hiểu là gì? Hiểu là hoa trái của sự quán chiếu. Tức là sống chánh niệm, nhìn mọi hiện tượng bằng con mắt quán chiếu của y tha thì tự nhiên hiểu được. Hiểu được thì tự nhiên có con mắt thương yêu. Vì vậy mắt thương có nghĩa là mắt hiểu. “Từ nhãn thị chúng sanh” có nghĩa là Trí nhãn thị chúng sanh. Nếu hiểu nó đưa đến thương tức là hiểu và thương là một.
“Quán chiếu tính y tha
Vô minh thành tuệ giác”
Cái không hiêu nó trở thành cái hiểu. Vô minh là cái không hiểu, tuệ giác là cái hiểu, cái thấy, cái nhìn thông tục của con người là cái nhìn thường và ngã, cái nhìn đó là cái nhìn sai lầm, cái nhìn có tính cách biến kế. Nó là nền tảng của bao nhiêu hiểu làm và bao nhiêu khổ đau: cái nhìn biểu lộ ra cái sinh, cái diệt, cái có, cái không, cái một, cái nhiều, cái đi, cái tới. Thì bây giờ muốn thoát khổ thì chúng ta phải dùng chìa khóa vô thường, vô ngã. Vô thường và vô ngã không phải là những lý thuyết mà là những chìa khóa, những phương pháp thực tập, gọi là vô thường quán và vô ngã quán. Còn giáo lý vô thường và giáo lý vô ngã chưa phải là tuệ giác về vô thường, vô ngã. Mình có thể hiểu rất rõ, nói rất hay về vô thường, vô ngã thì cái đó mới là giáo lý về vô thường và vô ngã thôi. Còn mình dùng chánh niệm mà sống đời sống hàng ngày quán chiếu từng sự vật để chứng nghiệm được cái tự tính vô thường, vô ngã của sự vật thì cái đó gọi là tuệ giác vô thường, tuệ giác vô ngã. Ý niệm vô thường, ý niệm vô ngã không phải là tuệ giác vô thường và tuệ giác vô ngã.
Khi mà có tuệ giác vô thường và vô ngã rồi thì chúng ta thấy được cái tính chất y tha khởi của sự vật. Khi mà tiếp xúc được với tự tính viên thành thật của sự vật thì chúng ta tiếp xúc được với Niết-bàn ngay trong giờ phút hiện tại. Niết-bàn không phải làmột hiện tượng tương lai. Niết-bàn tức là tự tính viên thành thật của sự vật mà chúng ta không có tiếp xúc được là tại vì chúng ta kẹt vào thường và ngã. Nếu chúng ta quán chiếu sự vật bằng vô thường quán và vô ngã quán thì chúng ta tiếp xúc với Niết-bàn ngay bây giờ và ở đây.
Trước đây chúng ta có đem một ví dụ đồng France. Đồng France nó có mặt trái và mặt phải và đồng France cả mặt trái, mặt phải đều làm bằng chất liệu kim khí. Chúng ta ví dụ Vô thường là mặt trái của đồng France, Vô ngã là mặt trái của đồng France và Niết-bàn là chất kim khí của đồng France. Một bên đứng về phương diện tướng, một bên đứng về phương diện thể. Vô thường và vô ngã là tướng và Niết-bàn là thể. Nhưng mà khi chúng ta chạm vào mặt trái hay chạm vào mặt phải của đồng France thì đồng thời chúng ta chạm vào chất kim khí của đồng France. Và vì vậy cho nên khi mà chúng ta chạm vào được cái tự tính vô thường, vô ngã của sự vật thì chúng ta chạm ngay vào Niết-bàn. Cũng như khi chúng ta quán chiếu tính y tha thì chúng ta chạm vào tính viên thành thật. Vì vậy cho nên tự tính y tha, tự tính Niết-bàn tuy hai là một chạm vào một cái là chạm vào cái kia. Cũng như là sóng và nước. Mình chạm vào sóng thì mình sẽ chạm vào nước. Ở trong 30 bài tụng Duy Biểu có nói lên ý nghĩa nầy; Tự tính viên thành thật là tự tính y tha khởi không phải khác mà không phải không khác: “Cố thử giữ y tha, phi dị phi bất dị”. Hai tự tính đó, tự tính viên thành của sự vật, tức là tự tính Niết-bàn của sự vật, nó cũng là một với tự tính y tha khởi của sự vật. Nhờ y tha khởi mà đi vào được viên thành thật. cũng giống như là nhờ cửa mà mình đi vào được nhà và cửa cũng là nhà. Ở đây chúng ta thấy rõ ràng cái chìa khóa của sự tu tập, con đường tu tập. Tóm tắt lại mấy chữ thôi, từc là sống đời sống hằng ngày như thế nào để thắp lên ánh sáng của chánh niệm. Lúc ngồi thiền, lúc nấu cơm, lúc giặt áo, lúc lau nhà, lúc ăn cơm phải làm tất cả những điều đó như thế nào mà có chánh niệm, mà dùng chánh niệm đó làm ánh sáng để tiếp xúc với vạn sự, vạn vật ở trong mình và xung quanh mình (tâm lý, sinh lý, vật lý) và thấy được tính y tha của tất cả những gì mình tiếp xúc, ở trong đó có bản thân mình. Thì đó là con đường duy nhất có thể giúp mình chuyển vô minh thành tuệ giác, chuyển hận thù thành ra tình thương, chuyển đau khổ thành ra hạnh phúc. Chỉ có một con đường đó mà thôi!
“Luân hồi và chân như, tuy hai mà thành một”
Tại vì luân hồi có gốc rễ nơi ý niệm nhận thức về thường và ngã. Luân hồi có gốc rễ ở nơi biến kế chấp, và vì vậy cho nên không có tuệ giác, có nhiều vô minh. Và vô minh nó đưa tới luân hồi khổ. Trong khi đó quán chiếu tự tính y tha khởi của vạn vật thì chúng ta thấy được tự tính viên thành thật và cái nhìn của chúng ta, cái hiểu của chúng ta đem tới sự giải phóng của chúng ta, chúng ta không còn bị kẹt vào những ý niệm về thường, về ngã, về có, về không, về sinh, về diệt, về một, về nhiều, về tới, về lui nửa. Ví dụ như cái chết. Cái chết là một cái đe dọa thường xuyên, nó thuộc về cặp sinh và diệt. Lâu lâu chúng ta nhớ rằng: ngày mai chúng ta thế nào cũng phải chết. Và có khi chúng ta không nhớ lại đi nữa thì cái ý niệm sợ chết, cái ý niệm sợ chết nó vẫn thăm thẳm nó nằm trong chiều sâu tâm thức của chúng ta và nó điều khiển một cách âm thầm những cách hành xử của chúng ta trong ngày. Thì tu tập tức là dùng chánh niệm soi vào trong thực tại để thấy rằng không có sinh và không có diệt. Chúng ta đã nói nhiều lần rằng sinh tức là từ không có cái gì cả mà mình thành một cái gì, không là ai cả mà trở thành một người nào đó. Và diệt là từ cái chỗ mình là một người nào đó trở thành không có cái gì hết. Ý niệm đó là ý niệm về sinh diệt. Và nếu chúng ta dùng con mắt quán chiếu y tha khởi mà đi sâu vào lòng sự vật thì chúng ta thấy rằng cái ý niệm về sinh và diệt đó là một cái vô minh, một cái sai lầm. Không có cái sự thật là từ cái không trở thành cái có được. Như nhà bác học Pháp nói rằng là: “Không có gì sinh mà cũng không có gì diệt”, đó là đứng về phương diện khoa học, người ta cũng nói vậy. Khoa học người thấy như vậy huống hồ là trong đạo học nhờ quán chiếu tính y tha. Và khi mà mình đập tan cái ý niệm về sinh và về diệt rồi, thì cái sợ chết nó không còn ở trong người mình nữa, và tự nhiên mình thảnh thơi, mình khỏe. Và cái luân hồi trở thành cái chân như. Luân hồi tức là có sinh và có diệt. Và nó có tiếp tục sinh và diệt. Nó chấm dứt nhưng mà nó không có mất đi cái gì hết. Ví dụ như là không có sóng, nước nó vẫn còn hoặc là có sóng thì có sóng mà mình vẫn không bị sóng, bị cái sợ hãi nữa mà mình cỡi lên trên sóng mà đi. “Luân hồi và chân như, tuy hai mà thành một”. Bài tụng này mình phải đọc chung với bài 40 thì thấy trong đó có hai danh từ luân hồi và chân như. Bài 40 thì nói tới Biến kế và viên thành, đưa chúng ta từ biến kế sang viên thành.
“Biến kế huân vô minh
Kéo theo luân hồi khổ
Viên thành mở tuệ giác
Hiển lộ cảnh chân như”.
“Quán chiếu tính y tha,
Vô minh thành tuệ giác,
Luân hồi thành chân như
Tuy hai mà thành một”.
Ban đầu thấy có hai: một là vô minh và luân hồi, một là viên thành và chân như.
Bây giờ cái thứ ba: y tha khởi, nó đi vào nó chuyển vô minh thành tuệ giác, chuyển luân hồi thành chân như. Và vì vậy cho nên luân hồi và chân như tuy hai mà thành một.
Có một vị đệ tử tới hỏi một Thiền sư đời Lý, thấy nói rằng tu học thì phải tinh tấn để thoát ra sinh diệt. Vị thiền sinh hỏi:
“Bạch Thầy, đi tìm cái chỗ bất sinh bất diệt ở ở chỗ nào?”
Thầy nói:
“Tìm ngay ở cái chỗ sinh diệt đó”.
Nó có nghĩa là chân như, chẳng qua là cái luân hồi nó chuyển thành thôi, không có cần phải bỏ cái gì hết. Chúng ta đi sang bài 42.
Trong rác có sẵn hoa
Trong hoa có sẵn rác
Hoa và rác không hai
Mê và giác tương tức.
Hình ảnh hoa và rác là để đem ra làm ví dụ cho giác ngộ và mê mờ. Thường thường chúng ta cứ nghĩ rằng: “Giác ngộ đâu có dính gì tới mê mờ đâu?”. Và chúng ta có khuynh hướng cho mê mờ sang một bên, hai cái không được dính với nhau! Nhưng mà thật sự giác có nghĩa là giác cái gì? giác đối với mê mà có. Nếu không có mê thì không có giác. Cũng như là một cây bút mình đưa lên và mình nói có phải, có trái. Mình muốn cái phải tồn tại không hề có cái trái thì không thể được. Hể có phải là có trái, có trái là có phải. Chính vì vậy cho nên phải và trái tương tức. Cái phải chứa đựng cái trái ở trong đó ở trong lòng nó, vì vậy cho nên nó mới gọi là phải. Cái trái chứa đựng cái phải ở trong lòng nó và vì vậy cho nên nó mới gọi là cái trái. Nó là y tha. Cái này do cái kia mà thành, cái kia do cái này mà thành. Đó là tự tính y tha. Phải thấy được điều đó. Cho nên nói rằng tôi muốn chấm dứt luân hồi và tôi chỉ chấp nhận giá trị thôi thì câu nói đó chứng tỏ mình chưa thấy được tự tính y tha.
Các vị Tổ đã nói nhiều lần rằng: Tịnh độ nó nằm ngay ở trong tâm. Nếu cái tâm của mình thanh tịnh thì cõi này tự nhiên thành tịnh độ. Và vì vậy cho nên cái chuyện bỏ một cái để chạy theo một cái khác không phải là phương pháp của Phật học. Nó trái chống hết với tất cả những giáo lý căn bản của đạo Bụt. Ví dụ như giáo lý về vô tác. Vô tác tức là không có chạy theo một cái. Khi mình chạy theo một cái có nghĩa là mình muốn bỏ một cái. Ví như là mình muốn thành Phật chẳng hạn. “Tôi muốn không làm phàm phu nữa, tôi muốn làm Phật thôi”. Thì đó là một cái đòi hỏi chánh đáng của người tu. Người tu mà muốn thành Phật là đúng rồi. Nhưng mà quan niệm đó nó chứng tỏ là mình chưa tu. Tại vì đạo Bụt dạy rằng là mình phải thực tập vô tác. Nếu mình muốn bỏ một cái gì mà mình đi kiếm một cái khác thì mình tìm cái khác không được. Tại vì cái khác đó Bụt dạy là phải tìm ở trong cái này. Cái Niết-bàn phải tìm ở trong cái luân hồi. Cái nước phải tìm trong cái sóng. Và vì vậy cho nên chúng ta có những câu nói khá phổ thông nhưng mà ít người hiểu được. Phiền não tức Bồ đề. Phiền não tức là những tâm trạng khổ đau của mình. Những tâm sở bất thiện: tham, sân, si, mạn, nghi, kiến nó là Bồ đề đó. Vì vậy cho nên muốn đi tìm bồ đề thì phải nắm lấy những cái phiền não đó mà chuyển hóa, còn nếu không thì không có bồ đề đâu. Đó là giáo lý tương tức.
Giác với mê một. Cũng như mình sắp chết khát mà người ta đưa một ly nước ở trong đó có bùn, uống không được, mình biết rằng chỉ uống được khi mà ly nước đó trong, nhưng mà nếu liệng ly nước bùn đi thì không bao giờ có ly nước đó cả, phải tìm cách lọc ly nước bùn đó để uống. Vì vậy cho nên tất cả những phiền não, tất cả những cái gì có mặt hôm nay trong thế giới của chúng ta, trong cái thân tâm của chúng ta, chúng ta chấp nhận hết để chuyển hóa, chúng ta đừng có ý niệm trốn chạy để tìm một cái khác: một cõi tịnh độ, một cõi thiên đường, nó nằm ở một địa phương khác. Và như vậy thì mới đúng con đường của Bụt dạy. Tại vì không những địa, thủy, hỏa, phong, không gian, thời gian mà phương hướng nó cũng nằm ở trong thức. Và chúng ta nghĩ rằng làtịnh độ nó nằm ở phía Tây nhưng mà chúng ta không biết rằng phía Tây nó cũng nằm ở phía Đông. Tại vì phía Tây không thể nào có được nếu không có phía Đông. Phía Đông và phía Tây nó tương tức. Mình không có thể thoát khỏi cái mà mình đang ghét được, chỉ có thể chuyển hóa nó thành ra cái thương mà thôi. Khi làm vườn mà thấy được cái tương tức của sự vật có nghĩa là khi có rác, mình giữ rác lại chuyển hóa rác để rác thành hoa.
Những cái phiền não, những cái hoàn cảnh khổ nhục, đau thương mình phải chấp nhận, mình phải nắm lấy và mình phải chuyển hó tất cả những cái dó thành ra an lạc, thành ra giá trị, thành ra hạnh phúc. Và vì vậy cho nên giác và mê tương tức. Nó có nghĩa là chúng ta không phải bỏ một cái gì để tìm một cái khác. Giác nó nằm trong mê. Bồ đề nó nằm trong phiền não. Nếu chúng ta nhận thức được điều nay, chúng ta sẽ thấy được cái khác biệt giữa đạo Bụt và một số rất lớn các tôn giáo khác. Trong đạo Bụt chúng ta được Bụt dạy rằng: chúng ta phải chấp nhận cái bây giờ và ở đây. Dầu cái bây giờ và ở đây nó chứa đựng những cái đau khổ, những cái phiền não. Tại vì nếu không chấp nhận thì chúng ta đánh mất cái chúng ta đang tìm. Vì cái giác nó được làm bằng cái mê. Cái hạnh phúc được làm bằng cái khổ đau. Cái chân như được làm bằng cái luân hồi, vì vậy cho nên chấp nhận cái bây giờ và cái ở đây là cái điều kiện tiên quyết của sự thực tập. Mà chấp nhận được rồi thì tự nhiên chưa thực tập mà bắt đầu có an lạc được rồi.
Ở đây chúng ta thấy rằng bài tụng thứ 42 đem cái ý niệm tương tức ra áp dụng vào sự tu học. Tôi đã từng thấy những người tu Tịnh độ 20, 30 năm nhưng mà vẫn không có đạt được, vẫn không có nắm bắt được nguyên tắc này và cứ nghĩ rằng Tịnh độ là một cái hoàn toàn khác biệt, xa cách không có dính líu tới cõi này. Và sống trong cõi Ta-bà này có nhiều khổ đau, có nhiều bất như ý thì sinh ra cái tâm chán ghét và chỉ mong cầu tới cõi kia thôi, cái cõi nó nằm ở trong không gian, một cái không gian khác. Và xét cho cùng thì thấy rằng quan niệm đó nó không có phù hợp với giáo lý căn bản của đạo Bụt.
Trong trại học tập cải tạo, tất cả mọi người đều phải vâng theo những cái điều mà ông linh gác, những ông cán bộ đưa ra. Nếu mà mình cứ tiếp tục nghĩ rằng cái hạnh phúc của mình nó chỉ có được khi mà rời cái trại học tập cải tạo này thì những giờ phút mình ở trong trại học tập cải tạo này sẽ vô cùng đau khổ. Con người đang ở trong trại học tập cải tạo mà nói rằng: “Bây giờ ta đang ở trong trại học tập cải tạo, ta không có cơ hội để thoát ra cái trại này bây giờ, vậy thì ta phải chấp nhận cái trại này và làm cho cái trại này thành cái chỗ dễ chịu nhất mà ta có thể làm” thì người đó bắt đầu có an lạc, có hạnh phúc. Người đó có thể thực tập hơi thở, thực tập bước chân chánh niệm và người đó có thể có được sức khỏe, và an lạc mà những người khác không thể nào có. Đã có những người báo cáo rằng là trong trại tù họ thực tập ngồi thiền để cho cái tâm nó yên , nhưng mà cán bộ thấy mình ngồi thiền, họ không thích. Ngồi thiền, ngồi bất động nhắm mắt lại và ngồi rất vững, nó giống như là một hình thái thách đố. Mình phải co rúm người lại, mình phải tỏ ra sự sợ hãi thì những người cai ngục mới hài lòng. Còn nếu mình ngồi thiền rất vững, rất an lạc, dầu là mình có quyền trong cái thời gian không có đi làm việc ở ngoài mình ngồi, nhưng mà điều đó cũng được họ nhìn như là một cái hình thức thách đố: “Tôi không sợ anh, tôi vẫn có an lạc ở trong trại.” Và cho nên những người đó không có được quyền ngồi thiền ngay ở trong cái phòng giam của mình. Thì những người đó đợi đến khi họ tắt đèn dậy ngồi thiền. Và khi mà ngồi trong tư thế kiết già thì tự nhiên cái thế giới của khổ đau nó biến thành cái thế giới của sự an lạc. Và dầu không có ở trong cái tư thế kiết già đi nữa mà nằm xuống cho thẳng và tâm nó khoan khoái là đã đỡ khổ hơn những người khác rất nhiều rồi. Cho nên chấp nhận cái bây giờ và ở đây không có nghĩa là bó tay chịu chết. Chấp nhận cái bây giờ và ở đây là để mình có thái độ khôn ngoan, để có một cái thấy sâu sắc và để cái khả năng chuyển hóa được tới chưng nào hay chừng đó cái hoàn cảnh trong đo mình đang sống. Và đó đích thực là sự tu học. Còn nếu mình cứ nghĩ rằng: sau này thoát ra khỏi trại cải tạo về nhà, mình sẽ không có lo danh lợi, mình sẽ lập một cái chùa, cái am mình tu thì đợi như vậy không bao giờ tới cả. Mình phải thực tập ngay trong cái giờ phút hiện tại và ngay ở đây. Cho nên cái điều mình được học ở đây trước tiên là phải chấp nhận cái bây giờ, ở đây và chuyển hóa. Chúng ta đi sang bài 43.
Không trốn chạy sinh tử
Quán chiếu cần niệm lực
Thấy được tính y tha
Là chứng nhập tương tức.
“Không trốn chạy sinh tử”. Đây là một kết luận tất yếu của những bài tụng trước. Tại vì bất sinh bất diệt nằm ở trong sinh tử, vì vậy cho nên mình trốn chạy sinh tử là không bao giờ mình nắm cái bất sinh bất diệt. Đó là nguyên tắc tương tức. “Không trốn chạy sinh tử, quán chiéu cần niệm lực”. Đây là những bài tụng rất thực tế. Công việc của quán chiếu, cần phải có năng lực và năng lượng, đó là chánh niệm, gọi là niệm lực. Nếu không có niệm lực thì không làm ăn gì cả. Cho nên phải tập như thế nào để trong đời sống hằng ngày mình tạo ra được cái niệm lực. Cũng như một cái máy điện nó tạo ra được điện. Thì có điện mới có ánh sáng, mới có thể nấu cơm được, mới có thể làm nhiều việc khác. Và vì vậy cho nên chánh niệm là cái năng lượng cần có để làm công việc này, tức là công việc quán chiếu.
Sống chánh niệm và quán chiếu mọi sự vật ở trong ta và xung quanh ta và khi mà chúng ta chứng nhập được tính y tha là chúng ta chứng nhập được tính tương tức, tương nhập của mọi sự, mọi vật, tức là tự tính Niết-bàn. Vì vậy Niết-bàn không phải là bây giờ không có và sẽ có trong tương lai. Niết-bàn nằm ở trong cái bây giờ và cái ở đây. Nó nằm trong cái bàn, nó nằm trong cái ghế, nó nằm trong cái nhà, nó nằm trong cái núi, nó nằm trong đám mây, nó nằm trong mỗi tế bào cơ thể của chúng ta. Và nếu chúng ta đưa ngón tay ra cho khéo, chúng ta sờ mó thì chúng ta tiếp xúc được với Niết-bàn. Và ngón tay đó là y tha khởi, tức là vô thường quán và vô ngã quán. Vô thường quán, vô ngã quán mở cửa Niết-bàn, nó khiến chúng ta có thể sờ mó được tự tính Niết-bàn của sự vật. Có thể là trong những tôn giáo khác, họ cũng có ý niệm về Niết-bàn nhưng mà họ có thể gọi Niết-bàn là Thượng đế hay Niết-bàn là nước Chúa. Nhưng mà có những nhà thần học nói nước Chúa nó nằm ở đây trong lòng mình có thể tiếp xúc bất cứ lúc nào thì Niết-bàn nó cũng vậy. Niết-bàn là tự tính viên thành của tất cả vạn sự vạn vật, nó có ngay bây giờ và ở đây. Nhưng mà tại vì chúng ta bị kẹt về ý niệm thường và ngã cho nên chúng ta không sờ mó được. Vì vậy cho nên sử dụng vô thường quán, vô ngã quán, y tha khởi quán thì chúng ta có thể sờ mó được Niết-bàn ngay trong hiện tại. Sờ mó được Niết-bàn tức la thoát ra được sanh tử ngay bây giờ, ở đây. Sờ mó được sóng thì đồng thời sờ mó được nước. “Không trốn chạy sanh tử, quán chiếu cần niệm lực, thấy được tính y tha, là chứng nhập tương tức”. Niệm lực là một trong năm lực. Lực tức là năng lượng, energy. Lực thứ nhất là niềm tin, gọi là Tín lực. Lực thứ hai là Tấn lực. Tấn tức là sự hăng hái, nồng nhiệt, mong cầu, ý chí. Niệm lực là thứ ba. Lực thứ tư là Định lực và thứ năm là Tuệ lực. Và chúng ta biết rằng trong năm lực. Niệm lực là căn bản. Tín là faith, tức là minh có niềm tin. Mình tin là mình có thể sờ mó được tới cái chân như Niết-bàn, viên thành thật đó. Và đây không phải là một niềm tin mù quáng. Tại vì năm lực nên được vẽ thành vòng tròn. Tín, đưa tới sự tinh tấn. Khi mà mình không có tin gì hết thì mình rã rời tay chân, cho nên muốn có năng lượng để làm cái gì thì phải có một niềm tin. Tin ở bản thân tin nơi tuệ giác của mình, tin nơi tuệ giác của Bụt. Thì niềm tin đó đưa lại cho chúng ta rất nhiều năng lượng, năng lượng đó gọi là tấn. Rồi chúng ta mới chế biến năng lượng đó thành ra chánh niệm. Mà hễ có niệm tức là chúng ta có định. Chúng ta sống trong chánh niệm thì đi tới, đi lui, làm cái này, làm cái khác, nhìn người này, thấy người kia đều ở trong định hết. Định tức là định quán chiếu. Lúc này là chúng ta có khả năng thấy được tính y tha của sự vật xung quanh ta và trong ta. Và nếu chúng ta định ít thì thấy được y tha của một cái rồi thì mất luôn đi vào thường và ngã liền. Mà tuệ giác nó giúp cho tín tâm của chúng ta vững hơn. Và vì vậy năm cái đó nó cũng tương tức. “Thấy được tính y tha, là chứng nhập tương tức”. Tương tức, tức là cái này là cái kia, cái này có trong cái kia.
Nương hơi thở chắnh niệm
Tưới hạt giống bồ đề
Chánh kiến là đóa hoa
Nở trên vùng ý thức.
Đối tượng của niềm tin là hạt giống hiểu, hạt giống Bồ đề nó nằm ở trong tâm thức của chúng ta. Đây không phải là niềm tin không căn cứ, một niềm tin vu vơ, không kiểm chứng. Tại vì hạt giống của hiểu và thương nằm trong tâm thức của tất cả chúng ta. Hạt giống đó gọi là hạt giống Giác ngộ. Hạt giống Bồ đề. Boddhi có nghĩa là tỉnh thức, giác ngộ, nó cùng là một với chánh niệm. Khi mà chúng ta tin tưởng vào khả năng giác ngộ của chúng ta như là Bụt đã khai thị, thì phương pháp của chúng ta là dùng hơi thở để nuôi dưỡng chánh niệm và chánh niệm đó là thức nước tưới rất mầu nhiệm. Nó tưới lên hạt bồ đề càng lớn. Cho nên ở trước tôi có nói rằng: Nếu chúng ta trong một cộng đồng tu học mà muốn lớn lên, muốn có cái tuệ giác đừng có ốm yếu, nghèo khổ, muốn cho tuệ giác và hạnh phúc lớn lên thì chỉ chúng ta phải tưới cái tuệ giác đó, cái hạnh phúc đó. Mà cái chất liệu để tưới là chánh niệm. Thành ra đi, đứng, nằm ngồi, nói chuyện trong tất cả những công tác đó là phải có chánh niệm. Mình tin rằng mỗi ngày mình đều phải lớn lên. Còn nếu không, mình còn đi, và không có lớn lên. Và lớn lên được là nhờ chánh niệm, biết sống chánh niệm mỗi ngày. Mình phải tin tưởng như vậy và mình kiểm chứng cái tin tưởng của mình. “Nương hơi thở chánh niệm, tưới hạt giống bồ đề”. Hạt giống bồ đề ở trong mình, tức là hạt giống nó hiểu nó đưa tới hạt giống thương, hạt giống bừng tình. Bừng tỉnh tức là chợt hiểu. Và chỉ có chánh niệm mới làm được chuyện đó. “Chánh kiến la đóa hoa, nở trên vùng ý thức”. Ở đây chúng ta đề cập tơi tám con đường tám sự hành trì chân chánh gọi là Bát Chánh Đạo. Chánh kiến tức là sự hành trì chân chánh đầu tiên, tức là cái thấy đúng với sự thật (right understanding). Chánh kiến là tuệ. Nhưng mà tuệ này không phải là cái tuệ mà nó nằm ở trong alaya thức. Tại cái này là cái thấy rõ ràng, cái thấy ở trên ý thức. “Chánh kiến là đóa hoa, nó nở trên vùng ý thức”. Đây là thức alaya, ở đây chúng ta có hạt giống bồ đề, hạt giống hiểu, hạt giống thương yêu. Ở trên này chúng ta có thức thức bảy và thức thứ sáu và năm thức khác. Thức thứ sáu đóng vài trò của người làm vườn, và vì vậy cho nên nó phải tưới tẩm những hạt giống này. Người làm vườn thì phải tưới những những hạt giống và chúng ta có những hạt giống của bồ đề, hạt giống của hiểu, của thương, chúng ta phải tưới. Người làm vườn phải tin tưởng ở nơi đất, đó là tin. Người làm vườn phải siêng năng tưới tẩm, gọi là tấn. Người làm vườn phải tưới hằng ngày bằng chánh niệm mà muốn tưới hằng ngày thì phải chuyên tâm, mà cái gì cũng là để tưới những hạt giống. Tôi ăn cơm, tôi uống nước, tôi đi thiền hành, tôi rửa nồi, tôi nấu cơm, tất cả những cái đó là để tưới tẩm những hạt giống bồ đề ở trong tôi. “Lên non vùi hạt bồ đề, xôn xao để lại dưới kia bụi hồng”, không lo những chuyện khác chỉ lo một chuyện thôi là vùi hạt bồ đề xuống và tưới thôi. Thì tự nhiên mai mốt cái hạt này nó lớn lên và tự nhiên nó nở một bông hoa ở trong vùng ý thức, tự nhiên sự giác ngộ bừng ra mà mình không cần phải kêu gọi. Ví dụ như là trong thiền viện mỗi khi Thầy cho mình một bài học, một bài tập, một công án thì cái công án đó mình phải vùi ở trong đất của tàng thức. Còn cái công án đó mình giữ trong thức thứ sáu thì mình chỉ có cái cách là đánh bóng chuyền với công án đó thôi, đó không phải là tu học. Dùng cái trí năng mình để mà mình suy nghĩ công án đó không phải là tu, chỉ có thể nói thôi, lý luận thôi. Thành ra khi mình tiếp nhận một công án hay một đề tài tu học thì mình phải đem cái đó mà vùi xuống đất của alaya thức; Tôi gởi bạn, bạn giữ giùm cho tôi, nuôi nấng cái đó cho tôi. Sau khi vùi cái hạt giống bồ đề đó rồi thì mình phải tưới. Mỗi ngày đi, đứng, nói cười làm việc phải có chánh niệm tưới cái đó, chỉ tưới thôi. Chỉ cần có chánh niệm thôi thì tự nhiên alaya có khả năng nuôi dưỡng, làm lớn lên và một ngày nào đó tự nhiên mình thức dậy hoặc mình nghe câu nói gì tự nhiên bừng ra cái hiểu biết, đó gọi là giác ngộ, đó gọi là Satori theo người Nhật. Satori có nghĩa là ngộ. Ngộ là tự nhiên hiểu được. Có những điều mình mờ mịt không biết bao nhiêu năm, tự nhiên một buổi sáng thức dậy hay nghe một tiếng động gì dó, mình bừng tĩnh và hiểu được cái đó. Cũng như tụng kinh, có những kinh tựng mười năm, hai mươi năm tự nhiên có một buổi đó, đọc tới câu đó, mình hiểu. cái đó là tuệ giác, là đóa hoa nở trên vùng ý thức. Trước đó mình cứ nghĩ rằng tụng mười năm rồi, mình không thấy chuyện gì hết. Tại vì mình không có tưới, mình chỉ tụng không thôi. Trong khi mình tụng, mình phải có ý thức những câu mình tụng và mình phải dồn chánh niệm vào, thì tự nhiên một bữa đó, đọc cái câu đó mình hiểu. Biết bao nhiêu câu kinh, mình đọc qua mà không hiểu gì hết. Như là mình đi vào trong rừng tìm bông hoa Ngọc Lan. Nó có nhiều bông hoa lan rất là đẹp, sờ sờ đó mình đi ngang mình tìm mà không thấy. Ăn thua là có chánh niệm. Trong đời sống hàng ngày mình phải có chánh niệm và mình tưới những hạt giống ở trong tàng thức của mình bằng chánh niệm. Trong đời sống hàng ngày mình phải có chánh niệm và mình tưới những hạt giống ở trong tàng thức của mình bằng chánh niệm, thì một ngày nào đó không tìm nó cũng hiển hiện ra. “Chánh kiến là đóa hoa, nở trên vùng ý thức”. Vùng ý thức là thức thứ sáu. Khi mình học về con đường bát chánh, tám sự hành trì chân chánh, mà mình nói chánh kiến là sự khởi đầu của tu học cũng không đúng lắm. Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh mạng, chánh niệm, chánh định. Thì thường thường mình nói là phải có cái thấy chân chính rồi mới bắt đầu tu được, nhưng mà kỳ thực cái này cũng là hoa trái. Mình bắt đầu bằng một cái thấy nhỏ bé như vậy đó, rồi mình mới tu tập theo những cái đó nhưng mà càng tu tập thì những cái này nó làm cho cái thấy của mình càng ngày càng lớn. Và cái thấy dó càng ngay càng lớn thì những hành trì khác của mình cũng càng ngày càng lớn. Vì vậy cho nên chánh kiến đồng thời nó vừa là nhân, nó vừa là quả. Cái thấy của mình nó giúp cho mình tu đúng nhiều hơn hay đúng ít. Và những sự tu học của mình giúp cho chánh kiến của mình càng lớn lên. Chánh kiến là hoa trái của sự tu học chứ không phải chỉ là cái vốn liếng ban đầu thôi. Và vì vậy cho nên càng tu tập chánh niệm, chánh định, chánh tinh tấn (cái này nó có ngũ lực ở trong) thì cái thấy này của mình nó càng sáng và cái thấy đó ở đây có thể gọi là đóa hoa, mà alaya thức nó cống hiến cho chúng ta. Nó cống hiến ở trên bình diện ý thức. Ở dưới này nó có hoa rồi, nhưng mà dưới này có hoa rồi thì tự nhiên ở trên này thế nào cũng có hoa. “Nương hơi thở chánh niệm tưới hạt giống Bồ đề”, đây là những pháp hành trì rất là thực tiễn. “Chánh kiến là đóa hoa, nở trên vùng ý thức”. Chánh kiến càng lớn thì hành trì càng giỏi. Hành trì càng giỏi thì chánh kiến càng lớn.
Như ánh sáng mặt trời
Chiếu soi loài cây cảnh
Chánh niệm khi thắp lên
Chuyển hóa mọi tâm hành.
Hai câu đầu là ví dụ nói về mặt trời và loài thực vật. Mặt trời - hình như không có làm việc gì nhiều, ngoài cái việc soi chiếu loài thảo mộc. Nó không có làm gì cả, nó chỉ soi chiếu thôi. Nhưng mà chính nhờ sự có mặt của mặt trời mà loài thảo mộc nó lớn lên được. Cái màu xanh của loài thảo mộc là do mặt trời hiến tặng. Những loài thảo mộc mà lớn lên được, làm hoa, làm trái đều là do ánh sáng của mặt trời cả. Cố nhiên nó có những tăng thượng duyên khác như là mưa, như là phân v.v… nhưng mà mặt trời nó rất quan trọng. Mặt trời là một nguồn năng lượng nó giúp tất cả mọi loài sinh trưởng và chúng ta biết rằng mặt trời là một nguồn thực phẩm của chúng ta. Mặt trời nuôi chúng ta bằng năng lượng của nó. Tại vì không có mặt trời cây cỏ không có mọc được. Những người ăn thịt thì họ cũng ăn mặt trời là tại vì thú vật nó ăn cây cỏ và mình ăn thú vật thì cũng là mình ăn mặt trời như thường.
Ngày xưa mình nói là “Trời che đất chở”, đất chở thiệt, nhưng mà trời không những che mà còn nuôi mình nữa. Quán chiếu rất rõ thì thấy mặt trời là cha đi làm về nuôi con. Tất cả chúng ta dù ăn chay hay ăn măn cũng ăn mặt trời hết. “Như ánh sáng mặt trời, chiếu soi loài cây cảnh” Nó chỉ làm công việc duy nhất là chiếu soi thôi nhưng mà nó nuôi hết. “Chánh niệm khi thắp lên, chuyển hóa mọi tâm hành”. Khi mà chúng ta thắp chánh niệm lên chúng ta có vùng năng lượng đó có khả năng chuyển hóa mọi tâm hành. Tâm hành tức là tâm sở (cita samkara), tức là những hoạt động của tâm ý. Chánh niệm là những tâm hành trong những tâm hành mà niệm là một tâm sở được liệt vào trong năm tâm sở biệt cảnh (dục, thắng giải, niệm, định, huệ). Vậy thì niệm chẳng qua là một tâm hành thôi. Chúng ta đã học tương tức rồi, một tâm hành nó chứa đựng những tâm hành khác ở trong nó. Tâm hành này nó ngộ nghĩnh lắm. Khi mà nó phát hiện, nhất là khi nó mạnh, thì nó chuyển hóa được tâm hành khác cũng như là ánh sáng mặt trời nó chuyển hóa các loài cỏ cây và nó thay đổi bộ mặt của sự sống, của trái đất. Ở Hòa Lan trồng nhiều hoa Tulipe. Ở Việt nam chúng ta có hoa Sen. Buổi sáng thức dậy, những bông tulipe, những bông sen úp lại và khi mặt trời lên thì nó chiếu vào những bông tulipe, bông sen, đó là công việc của mặt trời. Chánh niệm cũng làm như vậy. Nó không làm gì hết. Ánh sáng nó chỉ chiếu thôi. Nhưng mà ánh sáng mình có thể hiểu nó như là một nguồn năng lượng. Khoa học nói rằng ánh sáng được làm bằng những hạt nhỏ gọi là những quang tử (proton) và những cái quang tử đó làm ra năng lượng và ánh sáng. Nó không phải đi xung quanh bông sen mà chơi. Nó không có đi xung quanh mà nó đi vô. Tại những hạt quang tử đó thắm vào trong từng cánh sen đi vào bông sen, tức là tiếp xúc nguồn năng lượng khác. Và chúng ta đã học trong bài đầu là khi mà hai nguồn năng lượng tiếp xúc nhau thì sẽ có một hiện tượng xảy rra. Hiện tượng đó có thể là tích cực hay tiêu cực. Một hai giờ đồng hồ sau thì những quang tử đó vào trong bông sen khá nhiều rồi và nó có cái sức mạnh chuyển hóa, nó làm cho bông sen từ từ hé ra, nở ra. Phải có mặt trời lên nó mới nở. Vậy thì năng lượng của mặt trời chuyển hóa tất cả mọi loài cây cỏ. Các loài cây cỏ đó gọi là photosensitive. Tất cả mọi loài thảo mộc đều có khả năng tiếp nhận ánh sáng mặt trời. Thì tâm hành cũng vậy. Tâm hành cũng như một loài cây cỏ. Tất cả những tâm hành đều có khả năng tiếp nhận cái năng lượng của chánh niệm và thay đổi hết. Cho nên khi thắp lên ánh sáng chánh niệm thì tâm hành nào khởi lên cũng lãnh cái năng lượng của chánh niệm. Chánh niệm là mặt trời. Khi mà mình thắp được cái mặt trời chánh niệm ở trong ý thức thì bất cứ một tâm hành nào mà khởi lên đây thì nó sẽ tiếp xúc. Nó sẽ chuyển hóa. Buồn thì có buồn nhưng mà phải có chánh niệm. Giận thì giận đi nhưng mà phải có chánh niệm. Tôi đang thở vào và biết rằng tôi đang giận. Tức là ban đầu mình giận thì chưa có niệm. Mà khi mình tu tức là cái giận nó khởi lên mình không có đập lại cái giận mà mình mời chánh niệm lên để săn sóc cái giận đó của mình. Cho nên mới nói rằng tôi đang giận và tôi biết rằng tôi đang giận. Tức là có chánh niệm nó cùng ở chung với cái giận. Và nếu mà nuôi chánh niệm được lâu thì cái giận sẽ được chuyển hóa. Nó chuyển hóa ít hay nhiều tùy theo cái sức mạnh của chánh niệm lớn hay nhỏ. Thành ra tất cả những bí quyết của sự tu học là thắp lên một mặt trời chánh niệm ở trong vùng ý thức cho đến khi những tâm hành khác phát hiện lên thì nó được tưới tẩm và có chánh niệm đứng ra để săn sóc, để đỡ đầu, để chuyển hóa. Cho nên không có chánh niệm thì mình lưu lạc, mình trôi lăn theo sinh tử mà có chánh niệm thì bắt đầu có hướng đi được chuyển hóa.
Phương pháp tu không phải là đánh dẹp những tâm niệm phiền não, không phải đuổi nó đi. Tại vì đuổi nó đi thì nó đi đâu. Nó đi xuống dưới này (alaya) chớ nó đi đâu. Mà càng ép thì nó càng lớn, thành ra đừng có đuổi nó đi. Chấp nhận nó và dùng ánh sáng chánh niệm để mà xúc tiếp. Xúc tiếp thì nó tạo ra những sự chuyển hóa. Hôm trước Sư anh Từ Chơn có hỏi câu: “Những hạt giống đau khổ mà mình tiếp nhận từ hồi thơ ấu thì mình phải làm thế nào để chuyển hóa?” Thầy có trả lời nhưng mà trả lời chưa đủ. Câu trả lời của Thầy là: Cứ để nó nằm yên ở dưới đó và mình cứ tiếp xúc và gieo trồng những hạt giống an lạc, hạnh phúc thì tự nhiên những hạt giống an lạc, hạnh phúc lớn lên nó sẽ tới, nó sẽ chuyển hóa dùm. Và đó là chuyển gián tiếp. Thức thứ sáu gởi những người bạn đi và những người bạn đó tới chuyển hóa dùm những cái hạt giống đau khổ kia. Phương pháp thứ hai là phương pháp mỗi khi hạt giống đó hiện lên thì mình phải đón tiếp nó bằng ánh sáng chánh niệm và mỗi khi nó chạm ánh sáng chánh niệm thì nó yếu đi một chút. Nó yếu đi một chút, lạ kỳ vậy đó, đừng có đuổi nó. Mà có chánh niệm thì nó ló đầu ra thì mình biết nó là cái gì. Không có chánh niệm, thì nó ló đầu ra mười lần, trăm lần một ngày mình cũng không có nhận diện được. Mình không có nhận diện được rằng đó là những hạt giống đau khổ mà đã gieo trồng vào trong con người của mình khi mình còn là em bé. Có chánh niệm thì mình có thể nhận diện nó ra được, mà nhận diện nó rồi thì mời chào nó và cho nó ở lại trong cái phòng khách này. Nó muốn ngồi chơi với mình bao lâu cũng được với điều kiện là mình có ngọn đèn chánh niệm ở đó. Nó ngồi càng lâu càng tốt nếu mà có chánh niệm, tại vì ngồi càng lâu thì cái sức chuyển hóa càng dài. Như là mặt trời, nếu không có mây được hai giờ đồng hồ, thì hai giờ đồng hồ những cái bông hoa tiếp nhận được năng lượng mặt trời.
Không có sợ. Trong kinh có nói tới điều tâm niệm mà Bụt dạy cho Thầy, các Sư cô làm mỗi ngày để mà quán chiếu, để mà chuyển hóa cái sợ. Thường chúng ta có năm cái sợ:
1) Sợ già. Mai mốt tôi già, tôi đi lụm khụm rồi có ai đỡ tôi không.
2) Sợ bệnh.
3) Sợ chết.
4) Sợ phải xa cách những người mình thương và những cái gì mình thương.
Những cái sợ đó nó luôn luôn nó nằm ở dưới này. Mình có cố đè xuống, mình có cố quên thì nó cũng nằm ở dưới này.
5) Sợ là không biết mình phải đi đâu.
* Có năm điều quán niệm như thế này:
1. Tôi thế nào cũng già. Tôi không thể nào tránh được cái già. Mỗi ngày, người tu phải đọc câu đó. Nghĩa là mỗi ngày ông Thầy tu phải mời cái hạt giống sợ già đi lên, mà biết rằng mời nó lên phải tiếp nó bằng chánh niệm. Thành ra các Sư cô, Sư chú có thể đưa năm cái điều quán niệm này vào trong nghi thức tụng niệm mỗi buổi sáng và một người đọc cũng được (I am of the nature to giow old. I an not escape old are). Phương pháp Bụt dạy chúng ta quán chiếu cái sợ chúng ta có thể hiểu được dễ dàng dưới ánh sáng Duy Biểu học. Tức là mỗi ngày chúng ta phải mời cái hạt giống đó lên mà không có chánh niệm thì chúng ta khổ lắm, chúng ta không tự làm chủ. Và vì vậy cho nên chúng ta phải thắp sáng chánh niệm: tôi thế nào cũng phải già. Tôi biết rằng tôi không thể nào tránh khỏi cái già.
2. Tôi thế nào cũng bệnh. Tôi không thể nào không bệnh. Tôi không thể tránh khỏi bệnh.
3. Tôi thế nào cũng chết. Tôi không thể nào tránh khỏi chết.
4. Những điều tôi thương và những điều tôi trân quý ngày hôm nay một mai thế nào cũng phải từ giã.
5. Tôi sinh ra từ hành động của tôi. Chỉ có hành động của tôi đi theo tôi mà thôi.
Không có cái gì đi theo tôi hết dầu là người Cha, người Mẹ, người yêu hay là con cái, hay là quyền hành, hay là tiền bạc, không có gì đi theo tôi hết chỉ có nghiệp, tức là hành động, đi theo tôi thôi, và người tu sĩ hay là thực tập đạo giải thoát sáng nào cũng mời nó lên, mỉm cười và nó là ta biết các ngươi nằm ở trong đó, mời các ngươi lên đây chơi. Và mỗi ngày như vậy chiếu một ít ánh sáng chánh niệm vào thì nó yếu từ từ. Và một ngày nào đó, nó sẽ được chuyển hóa. Những niềm đau của chúng ta mà chúng ta sợ nó, chúng ta phải làm như vậy thì nó mới chuyển hóa được. Nếu chúng ta không làm như vậy thì nó có thể có những phương pháp khác, nhưng mà chúng ta làm được cả ba phương pháp thì rất hay.
Phương pháp thứ nhất là gieo trồng và tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc để những hạt giống này tới chuyển hóa dùm những hạt giống đau khỏ. Chúng ta khỏi đụng chạm tới tiếp xúc.
Phương pháp thứ hai là chánh niệm suốt ngày để khi nào nó ló đầu lên là mình nhận diện nó. Nó ló đầu lên hoài nhưng mà mình không biết đó thôi. Ví như mình đi vào trong restaurant, nhìn một vòng ròi cuối cùng rồi mình chọn cái bàn ở góc đó mình ngồi, trong khi đó nó có nhiều chỗ. Nếu mình có chánh niệm mình sẽ buồn cười mình hỏi: “Tại sao mình chọn cái bàn đó mình không chọn cái bàn này?” Tất cả đều nằm sẵn ở trong, nó an bày, nó đã viết sẳn rằng mình chọn cái bàn đó. Chúng ta có những cái tập khí như vậy. Ngồi trong phòng học cũng vậy. Tại sao quý vị tới mà không ngồi chỗ này, mà ngồi sau đó? Tất cả những cái đó đều đã viết sẳn trong alaya thức của mình hết. Đó là trường hợp “cái đó” nó phát hiện mà nếu có chánh niệm thì mình biết: “À, đúng cái chỗ này là cái chỗ mình muốn rồi mà mình phải nhìn kỹ tại sao mình ưa nhìn chỗ đó”. Nó phải có lý do mà hạt giống đó trao truyền. Những con chim đã bị thương một lần rồi thì mỗi khi nó thấy một cành cây cong nó không muốn tới đậu vì cành cây cong làm cho nhớ tới cây cung đã bắn mũi tên vào nó. Chim bị tên thì thấy cành cây cong cũng sợ. Hồi thơ ấu mình có thể đau khổ bởi những cái này cái khác. Rồi bây giờ đây những cái hạt giống đau khổ đó nó còn, thành ra mình tiếp xử với sự sống hiện tại trên cơ bản những đau khổ những hạt giống đau khổ đó nó còn, thành ra mình tiếp xử với sự sống hiện tại trên cơ bản những đau khổ những hạt giống đó. Và vì vậy cho nên trong đời sống hằng ngày những hạt giống đau khổ trong quá khứ của mình, cái mặc cảm này kia, kia nọ nó xuất đầu lộ diện nhiều lần lắm, nhưng mà tại vì chúng ta không thắp mặt trời chánh niệm cho nên chúng ta không thấy đó thôi. Vì vậy cho nên phương pháp thứ hai là sống chánh niệm suốt ngày đến khi những hạt giống đó ló đầu ra chúng ta nhận diện được: “À, mày đó hả, tao biết”. Thì tự nhiên nó mất đi sức mạnh của nó. Tại vì nó là một vùng năng lượng mà chánh niệm là một vùng năng lượng khác mà hai cái vùng năng lượng gặp nhau một cái là nó có sự chuyển hóa. Cái buồn, cái sợ đều là năng lượng và khi màtiếp xúc với năng lượng chánh niệm đó thì có chuyển hóa.
Phương pháp thứ ba là khi chánh niệm chúng ta vững rồi thì chúng ta đừng có đợi nó lên, chúng biết rằng nó ở dưới thành “mời anh lên chơi,tôi rảnh”. Những cái sợ, những cái buồn, những cái thất vọng, những cái ước mơ không thành tựu của mình làm cho mình nuối tiếc đau khổ, mời nó lên! “Bây giờ đây tôi rảnh, mời anh lên chơi. Hai đứa mình ngồi nói chuyện, mình là bạn cũ với nhau lâu đời rồi”. Phải thắp đèn lên cho đàng hoàng, mời lên. Thì đó là trường hợp năm cái sợ mà Bụt dạy mình làm. Đối diện trực tiếp với nó và đừng coi nó như kẻ thù, nó là mình. Cái hạnh phúc của mình là mình. Cái đau khổ của mình cũng là mình. Cái thương của mình là mình. Cái giận của mình cũng là mình. Thành ra mình phải đối xử với tất cả những cái tâm hành đó với cái thái độ bất nhị. Còn thái độ đánh đuổi, kỳ thị nó không phải là bất nhị. Và tu học không phải biến mình thành ra bãi chiến trường: phe chánh đánh với phe tà. Có thể là trong những truyền thống khác, họ nghĩ là tu học tức là chia con người mình ra thành hai phe: một phe chánh và một phe tà. Phe chánh đánh phe tà. Nhưng mà trong đạo Bụt, cái mà mình gọi là phe tà chính là mình và mình phải chăm sóc cái đó, mình phải chấp nhận cái đó. Tại vì phiền não tức là bồ đề. Mình phải chấp nhận cái phiền não và phải chăm sóc cái phiền não để mà chuyển hóa cái phiền não. Không phải là vấn đề đánh. Càng đánh thì nó càng mạnh. Càng đè ép thì nó càng lớn. Ở đây mình thấy rất rõ cái nguyên tắc tương tức, bất nhị củasự tu học.
Thứ nhất là nhờ những hạt giống tốt nó chuyển hóa giùm.
Thứ hai là nhận diện chúng khi mà chúng xuất hiện ở trên bình diện của ý thức (thức thứ sáu)
Thứ ba mời nó lên.
Có ba phương đó để đối phó với những hạt giống khổ đau ở trong người của mình mà nếu làm được cả ba cái thì rất vững. Thường khi mà người ta khổ quá gần chết chìm rồi, chưa thực tập chánh niệm, niệm lực yếu, thì chưa nên làm cái thứ ba. Làm cái thứ nhất thật nhiều. Rồi khi mà cái thứ nhất làm được khá rồi, năng lượng chánh niệm đã khá nhiều rồi thì lúc đó ráng làm cái thứ hai, tức là ráng nhận diện cái đau khổ khi mà nó xuất đầu lộ diện. Nhận diện được chừng nào thì những cái đau khổ yếu đi chừng đó. Và khi mà mình biết rằng mình có đủ sức mạnh rồi thì mình có đủ sức mạnh rồi thì mình mời nó lên. Giống như mình biết trong vườn mình có cái lỗ, dưới đó có con rắn. Mình biết rằng mình chưa có khả năng bắt con rắn đó thành ra mình lấy cục đá, mình chận lại đừng có cho nó lên. Rồi mình đi học : “Bây giờ, tôi có một con rắn độc ở dưới đó, phải làm thế nào?” Khi mình học, mình đã mạnh, vững chãi, thực tập xong rồi thì mới bê cục đá đó ra, rồi mới mời nó lên, nếu không thì nó cắn chết. Cái niềm đau trong tiềm thức của mình cũng vậy. Mỗi khi nó lớn quá, mỗi khi nó lên một cái, mình tê liệt, mình không làm ăn gì được hết. Thành ra không có nên mời nó lên sớm. Không có mời niềm đau của mình lên sớm mà mình phải thực tập phép thứ nhất, thực tập phép thứ hai. Khi mình mạnh rồi, mình biết ở dưới đó con rắn bị giam nhiều ngày ở dưới đó yếu rồi thì lúc đó mình mời nó lên. Mời nó lên thì nắm cổ được nó. Cái niềm đau của mình cũng như vậy.
Chúng ta học lại:
“Như ánh sáng mặt trời, chiếu soi loài cây cảnh, chánh niệm khi thắp lên, chuyển hóa mọi tâm hành”.
Chuyển hóa chứ không phải là tranh đấu với nó hay tiêu diệt nó. Thành ra quý vị thấy rằng qua bài tụng này của Duy Biểu học, chúng ta thấy được giáo lý bất nhị, giáo lý tương tức, cái phương pháp bất bạo động trong sự tu học cũng như là trong hành động hàng ngày.