Lá bối 1996
DUY BIỂU HỌC
Giảng luận
Thiền Sư Nhất Hạnh
---o0o---
1.
Tâm là đất gieo hạt
Mọi hạt giống gieo đầy
Tâm địa cũng chính là
Toàn thể hạt giống ấy
(The mind is the Field
In which all kinds of seeds are sown
What is callet the mind field
Is also the totality of these seeds).
Bài tụng này có nguồn gốc trong nhiều tác phẩm. Chúng ta đã từng học kinh Tạp A Hàm (Samyutta Nikaya) trong đó nói rất nhiều về hạt giống. Hạt giống tức là khả năng tiếp tục của các pháp. Nếu chúng ta nhìn sâu vào thực tại nhìn sâu vào sự sống và vào lòng sự vật thì ta thấy hạt giống trong nhiều hình thái khác nhau.
Câu thứ nhất của bài tụng “Tâm là đất gieo hạt”. Nếu muốn giữ gìn những hạt giống, không để mất mát đi thì phải có cái gì để cất chứa. Không có gì cất chứa hay bằng đất. Chúng ta trồng những kinh giới, địa tô, đến mùa thu cây trổ hoa và hạt giống chín rơi xuống đất. Nếu chúng ta bận việc quên cất giữ chúng đi thì đất vẫn cất giữ cho chúng ta. Đến tháng tư sang năm ta thấy lú nhú những cây tía tô, kinh giới nho nhỏ. Vì vậy đất có khả năng giữ gìn và bảo trì những hạt giống. Danh từ Duy Thức là năng tàng. Năng tàng là có khả năng có thể tàng trữ lại. Như là Tàng Cổ Viện là nơi tàng trữ cất chứa những tác phẩm nghệ thuật trong quá khứ.
Tâm có tính năng tàng. Năng là khả năng, công năng giữ gìn và tàng là bảo trì cất chứa giữ gìn duy trì những hạt giống. Và hình ảnh tuyệt diệu đã sử dụng là đất.
Trong bài mởi đầu kinh Địa Tạng có bài ca ngợi Đức Bồ Tát Địa Tạng rất hay “Khế thủ từ bi đại giáo chủ. Địa ngôn kiên hậu quãng hàm tàng”. Cuối đầu trước bậc Giáo chủ lớn đầy lòng từ bi. Đất có nghĩa là (kiên) chắc chắn, vững bền, (hậu) dày, nó bao trùm giữ gìn rất rộng rãi. Khả năng đất là có thể ôm, bao hàm giữ gìn rất rộng rãi. Nhờ có tánh chất kiên và hậu. Kiên là kiên cố, Hậu là dày, người có hậu là người có đức dày. Còn người mà sáng thế này chiều thế khác gọi là người vô hậu. Đức Địa Tạng (Jiso, Ksitigarpha) là người hay tìm những chốn địa ngục mà tới để cứu giúp những kẻ khổ đau. Tạng là danh từ (Store House), tàng (storing) là động từ cùng nghĩa. Ngôn ngữ Việt cũng dùng chữ tâm địa. Tâm địa của người đó như vầy như kia. Ta có Thiền Sư Thảo Đường Tổ Sư của một trong những phái thiền Việt Nam. Gốc người Trung Hoa, trước khi sang Việt Nam ngài có đi học với Thiền Sư Bách Trượng. Một hôm khi Thầy Bách Trượng đang giảng dạy cho đại chúng thì có một vị học trò đứng lên hỏi về con đường giải thoát, giác ngộ… Thầy Bách Trượng trả lời bằng một câu thơ “Tâm địa nhược thông, tuệ nhật tự chiếu”. Khi mà mặt đất của tâm được cởi mở thông suốt thì mặt trời trí tuệ tự nhiên chiếu tới. Khỏi phải đi tìm mặt trời trí tuệ. Thí dụ mặt đất của tâm, nếu mà được thanh thản thì mặt trời trí tuệ tự nhiên tìm tới, nó chiếu mình khỏi đi tìm, khỏi cực nhọc chạy tới Làng Hồng để tìm.
Tâm địa là một danh từ rất phổ thông. Tâm là đất gieo hạt. Trong tâm ta không biết có bao nhiêu là hạt giống. Tâm của chúng ta có thể phát hiện đủ loại hạt giống, đủ loại hiện tượng. Hạt giống của Ma, hạt giống của Bụt. Hạt giống của Thánh Hiền, hạt giống của côn đồ, hạt giống của sự trung kiên, hạt giống của sự phản bội. Chúng ta có thể thành thánh nhân vì chúng ta có hạt giống thánh nhân trong lòng. Chúng ta cũng có thể trở thành đạo tặc vì có những hạt giống này trong lòng. Chúng ta có hạt giống của sự chung thủy trong lòng mà cũng có hạt giống của sự phản bội. Vấn đề là chúng ta biết chăm sóc hạt giống chung thủy thì chúng ta trở nên người chung thủy. Nếu chúng ta không chăm sóc hạt giống chng thủy thì ngày nào đó chúng ta sẽ trở nên người phản bội. Phản bội cha mẹ,vợ chồng. Và vì vậy cho nên tâm của mình chứa đựng trong lòng nó tất cả những hạt giống.
Khi người nào đó được mô tả như người trung kiên. Chúng ta biết người đó là người trung kiên. Không có nghĩa là trong người đó không có hạt giống của sự phản bội. Người có tâm niệm cởi mở và tha thứ ta biết người đó có nhiều hạt giống cởi mở tha thứ nhưng điều đó không có nghĩa là người đó không có sự hận thù và nhỏ nhen. Nhưng mà tại vì những hạt giống đó quá nhỏ nên nó không phát hiện ra được. Khi một người đang tươi cười vui vẻ, ta biết rằng người đó có rất nhiều hạt giống của niềm vui nhưng điều đó không có nghĩa là người đó không có hạt giống của niềm đau. Nó có nhưng lúc đó chưa phát hiện. Vì vậy ta biết rằng tâm là đất gieo hạt. Mọi hạt giống chứa đầy. Vậy thì trong một người phàm phu có hạt giống của phàm phu mà cũng có hạt giống của thánh nhân. Ngược lại cũng vậy, trong một thánh nhân có nhiều hạt giống thánh nhân nhưng cũng có hạt giống phàm phu. Nếu chúng ta cẩn thận thì hạt giống phàm phu sẽ nhỏ đi, sẽ trở thành không quan trọng, nó không bao giờ phát hiện được. Nếu chúng ta không cẩn thận thì những hạt giống phàm phu sẽ được tưới tẩm và lớn lên.
Nếu ta để mỗi ngày có người đến tưới tẩm hạt giống phàm phu, chúng ta cho phép những hạt giống phàm phu của ta được tưới tẩm thì ta sẽ trở nên một người phàm phu. Điều này có thể xảy ra rất nhanh chóng trong vòng vài tuần lễ. Không tưới thì thôi, tưới thì mọc rất nhanh. Học tới đây cũng đủ cho ta tu tập rồi. Biết tưới tẩm giữ gìn những hạt giống tốt đẹp nơi ta và những người xung quanh ta. Khi gặp người xấu xa, đạo tặc ta cũng không nản lòng vì biết thế nào trong người này cũng còn những hạt giống thánh nhân mà vì có quá ít dịp tưới tẩm. Tu tập là làm sao để những hạt giống tốt của mỗi người mà ta nghĩ là quá tệ được tưới tẩm.
“Tâm địa cũng chính là toàn thể hạt giống ấy”.
Hai câu trên của bài kệ nói về ý nghĩa Năng Tàng. Năng tàng là khả năng cất giữ. Hai câu dưới nói về nội dung của sự cất giữ là Sở Tàng. Năng tàng là chủ thể của sự cất giữ và sở tàng là đối tượng của sự cất giữ. Đó là hai phần của tâm. Tâm được nhận thức làm hai phần: phần chủ thể và phần đối tượng. Phần chủ thể tức là khả năng cất giữ và phần đối tượng là đối tượng của sự cất giữ. Ví dụ ông giám đốc của bảo tàng viện là người có bổn phận giữ gìn rất kỹ những đồ cổ của quốc gia. Đó là năng tàng. Bảo tàng viện không phải chỉ là ông giám đốc và cái nhà cất chứa đồ cổ mà bảo tàng viện còn gồm luôn các món đồ cổ đang được giữ gìn nữa. Đó gọi là sở tàng, đối tượng của sự bảo trì.
Tâm của ta vừa là năng tàng vừa là sở tàng. Tâm này là tâm căn bản gọi là Tàng Thức. Ta có định nghĩa tâm là gì: Tâm là tàng thức. Tâm có nhiều tác dụng nhưng tác dụng đầu tiên là tàng. Tàng là cất giữ. Vừa nghe đến danh từ tàng ta phải ý thức là tàng thức (Alayavijnana), gồm hai phần: phần chủ thể cất giữ và phần đối tượng cất giữ. Sở tàng gồm những hạt giống được cất giữ như một đĩa cứng của máy điện não. Cất giữ rất màu nhiệm rất kỹ lưỡng những hạt giống và nếu ta biết cách ta chỉ cần nhấn đúng nút thì nó hiện ra đầy đủ hết, không khác gì một đĩa của máy điện não.
Tâm cũng còn một tên khác là “nhất thiết chủng thức” (Sarvabkijaka), tức là cái thức chất chứa tất cả hạt giống. Sarva là tất cả (nhất thiết). Bija là hạt giống (chủng). Savabijavijnana. Nó còn nhiều tên nữa. Tên kế là “ngã ái chấp tàng”. Lý do có tên này là vì cái tàng thức này, cái tâm này có thể bị nô lệ, bị nhận lầm là cái ngã của người ta. Chúng ta sẽ thấy là trong các thức có một cái thức gọi là mạc na (Manas). Anh ta cần có một cái gì để nhận là cái “ta” của anh. Nếu không có thì anh ta khổ lắm. Vì vậy anh ta ôm quàng ôm xiên ôm lấy tàng thức và coi cái này là của ta. Tàng thức vì vậy đôi khi bị kẹt. Tàng thức có khi bị kẹt và mất tự do. Tàng thức là đối tượng của một chủ thể đang ôm áp, đang yêu quý nó và cho nó là mình. Trong tình yêu này, người yêu ở đây là thức thức bảy. Mạc na thức và người được yêu là tàng thức, thức thứ tám. Tàng thức là đối tượng của sự thương yêu của sự ôm chặt do mạc na chủ trương và trong kinh gọi là ngã ái. Tự nhiên mình (tàng thức) là đối tượng của sự ôm chặt. Cái phần chủ thể ôm chặt đó, cái thức thứ bảy đó được gọi là ngã ái chấp. Còn thức thứ tám, cái thức bị ôm chặt gọi là ngã ái tàng (the object of attachment as a self). Chấp là ghì chặt lấy, làm cho nó dính vào như mủ mít. Thành ra thức thứ tám, thức căn bản có những tên sau đây: năng tàng, sở tàng, ngã ái chấp tàng và nhất thiết chủng.
Tâm được ví dụ như đất. Đất là một hình ảnh vi diệu để diễn tả về tâm. Ta có thiền sư Tăng Hội vào thế kỷ thứ ba, Sơ tổ của Thiền Tông Việt Nam, lớn hơn tổ Bồ Đề Đạt Ma cỡ ba trăm tuổi. Thiền sư Tăng Hội ví dụ tâm như biển (tâm hải), vì ngàn sông đều chảy về biển cả. Bởi vì những gì chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, chúng ta đau khổ, vui sướng, đều trở về biển cả của tâm.
Vì vậy tâm của ta chứa được nước của muôn sông. Nếu ta phân tích nước của đại dương thì chúng ta thấy được nước của muôn ngàn con sông. Nhìn vào tâm thì biết hết, thấy hết. Đây là hình ảnh đặc thù nói về tâm mà ta chỉ thấy ở giáo lý của Thầy Tăng Hội thôi. Còn nói về tâm như đất thì cũng có nhiều người nói. Nói tâm như biển thì vào đầu thế kỷ thứ ba Thiền sư Tăng Hội nói trong bài tựa của kinh An Ban Thủ Ý do SC Viên Quang dịch.
Khi mà chúng ta nói về tâm như năng tàng, sở tàng, ngã ái chấp tàng, nhất thiết chủng thì ta mới chỉ nói vài công dụng căn bản của tâm thôi. Tâm còn nhiều công dụng khác nữa. Đó là những danh từ được sử dụng trong Đạo Phật Đại thừa. Đạo Bụt thời Bụt còn tại thế thì được gọi là Đạo Bụt nguyên thỉ (Original buddhism, Primitive Buddhism). Sau khi Bụt nhập diệt một trăm năm sau thì đạo Bụt chia ra làm nhiều phái. Sau này ít nhất là thành hai ba chục phái. Thời này gọi là Đạo Bụt bộ phái. Nó kéo dài tới bốn năm trăm năm. Tới thế kỷ đầu trước Thiên Chúa giáng sanh thì ta bắt đầu có Đạo Bụt Đại thừa. Vì có chữ Đại thừa nên có khi người ta gọi đạo Bụt Bộ Phái là Tiểu thừa. Gọi như vậy là không được, đạo Bụt Bộ Phái không chịu đâu. Vì vậy nói về lịch sử đạo Bụt ta có thể chia làm ba thời: thời đạo Bụt nguyên thỉ (khó nhọc lắm mới phát hiện được vì nó bị che lấp bởi đạo Bụt Bộ Phái và đạo Bụt Đại Thừa). Chúng ta phải học Đạo Bụt Bộ Phái và Đạo Bụt Đại Thừa cho giỏi thì ta mới phát hiện được Đạo Bụt Nguyên Thỉ.
Đạo Bụt Nguyên Thỉ chỉ có bốn mươi lăm năm trong thời Bụt tại thế và khoảng một trăm năm sau khi Bụt nhập Niết Bàn. Tất cả khoảng một trăm năm mươi đến hai trăm năm thôi. Sau đó có sự chia rẽ giáo đoàn thành hai phái chính: Đại Chúng Bộ rất đông và Thượng Tọa Bộ. Sau đó có sự phân phái ra thành hai mươi bộ phái nữa gọ là đạo Bụt bộ phái kéo dài bốn trăm năm. Rồi khoảng một trăm năm trước Thiên Chúa Giáng Sinh phát sinh Đạo Bụt Đại Thừa với cách nhìn mới, cái nhìn sâu về Đạo Bụt. Vì vậy muốn biết rõ Đạo Bụt Nguyên Thỉ thì phải nghiên cứu Đạo Bụt Bộ Phái và Đạo Bụt Đại Thừa với tinh thần khoa học, với trái tim rất là rộng mở thì ta mới phát hiện ra Đạo Bụt Nguyên Thỉ nguyên chất.
Những danh từ như năng tàng, sở tàng, ngã ái chấp tàng, nhất thiết chủng được dùng trong Đạo Bụt Đại Thừa nhưng mà nội dung của nó cũng có trong Đạo Bụt Nguyên Thỉ. Ví dụ như trong truyền thống Hữu bộ (Sarvastivada) đóng đô ở Kashmire gần một ngàn năm, từ đó Đạo Bụt bộ phái được truyền sang Trung Hoa, thì trong truyền thống Hữu Bộ (Savastivada) đóng đô ở Kashmire gần một ngàn năm, từ đó Đạo Bụt Bộ Phái được truyền sang Trung Hoa, thì trong truyền thống Hữu Bộ (Asti: có, vada: thuyết, ism) chủ trương rằng tất cả mọi cái đều có. Học phái này sử dụng danh từ căn bản thức mulavijnana. Mula là căn bản, là gốc rễ. Không dùng chữ Chủng, Nhất thiết chủng, mà dùng chử Căn bản là hạt giống là rễ chứ gì đâu. Gốc rễ của tất cả mọi pháp đều có trong đó có cả gọi là Căn Bản Thức.
Còn trong phía Đồng Diệp bộ, Tamrasatiya (sau này là Theravada) có tên Hữu Phần Thức (hữu là sự có mặt), Bhavangasota. Sota là dòng nước. Mà trong tàng thức của Phật giáo Duy Thức cũng ví dụ Thức cho một dòng nước. “Hằng chuyển như bộc lưu”: thường trôi chảy như một dòng nước.
Trong những học phái gọi là Đạo Bụt bộ phái cũng có những danh từ ý niệm tương đương về tàng thức. Ta vừa mới nghe là trong Hữu bộ có danh từ Căn bản thức nó tương đương với tàng thức và trong Duy Thức Tam Thập Tụng (Ba Chục Bài Tụng Duy Thức của Thầy Thế Thân) cũng có chữ Căn bản thức: “Y chỉ căn bản thức, ngũ thức tùy duyên hiên, hoặc câu hoặc bất câu, như đào ba y thủy”. Vậy thì danh từ Căn bản thức nó cũng có trong Ba Mươi Bài Tụng Duy Thức. Nếu có danh từ Căn bản thức thì cũng có những từ không phải là Căn bản thức gọi là Chuyển thức. Tức là thức chuyển hiện từ thức căn bản mà ra. Nó có cái thức căn bản rồi lại có những thức khác phát sinh căn cứ từ thức căn bản mà ra. Tức là ta có thể hình thái nhận thức, và nhận thức căn bản của chúng ta là Tàng. Rồi từ đó có những nhận thức khác nữa. Chúng ta học như vầy không phải là học trong kinh mà là học trong tâm của ta, học để nhìn vào tâm của ta để thấy cái vận hành của tâm ta như thế nào, để nắm được cái tâm mà tu học
Giờ ta hãy coi cái địa vị của Căn bản thức ở trong năm thành phần gọi là ngũ uẩn, năm yếu tố tạo nên con người của chúng ta. Ví dụ ta vẽ trên bảng một vòng tròn tượng trưng cho một trái quít và năm múi quít. Phân tích con người chúng ta thấy trong đó có năm uẩn skandax (yếu tố, tụ tập, chứa nhóm lại: heap, aggregates). Múi quít đầu tiên gọi là sắc (rupa), phần sinh lý cơ thể chúng ta. Thân thể của tôi là sắc: tim, cang, tì, phế thận, mắt, tai mũi lưỡi, thân là sắc (form, shape). Múi quít thứ hai là thọ, những cảm thọ, (feelings). Ta biết rằng cảm thọ của chúng ta gồm ba loại (cảm thọ dễ chịu gọi là lạc thọ như khi được ăn ngon hay khi được khen, còn cảm thọ khó chịu như khi bị chê hay bị đau răng gọi là khổ thọ, và loại thứ ba là cảm thọ trung tính, gọi làxả thọ không dễ chịu). Trong một ngày chúng ta có không biết bao nhiêu là cảm thọ, ta sống với một dòng sông cảm thọ. Người nào có nhiều lạc thọ là người có hạnh phúc nhưng mà lạc thọ nhiều khi chỉ là khổ thọ trá hình, nó sẽ đưa đến khổ thọ khác. Ví dụ như khi mình uống rượu cay cay thì mình có cảm tưởng là lạc thọ nhưng sau đó thì lá gan của mình lãnh đủ hết. Thành ra khổ thọ dài dài. Suốt hai mươi bốn giờ trong một ngày không có lúc nào mà ta không có cảm thọ: Lạc thọ, khổ thọ và xả thọ.
Hôm nay chúng ta chưa học về Thọ. Chúng ta chỉ cần biết là không có lúc nào mà chúng ta không cảm thọ. Chỉ cần nhớ là khi có một cảm thọ ta có chánh niệm về cái thọ ấy hay không mà thôi. Trong khi ngồi thiền ta có thể có lạc thọ, khổ thọ và xả thọ. Thực tập chánh niệm về những cảm thọ của mình là khi có xả thọ ta biết ta có lạc hay khổ thọ. Đó là biết sơ khởi những khi chánh niệm vững thì ta thấy được bản chất, cái gốc rễ của xả thọ hay khổ thọ đó. Đó là thiền quán về cảm thọ, mình nhận diện được cái thọ đó. Nhờ nhận diện ra nó mình tiếp xúc với cái thọ đó trong chiều sâu của nó, biết nó phát sinh từ gốc rễ nào, điều kiện nào. Tại sao mà có cái lạc thọ đó hay cái khổ thọ đó? Người tu không bao giờ ngồi đó mà chịu chết cũng với cái khổ thọ hay lạc thọ của mình. Người tu không tự để cho lạc thọ, khổ thọ, xả thọ nó kéo mình đi như lục bình trôi riu ríu trên dòng sông vậy được. Cái biết đó sẽ giúp mình tiếp xúc sâu sắc hơn để biết cái gốc rễ của nó mà chuyển hóa về hướng nhẹ nhàng hơn, giải thoát hơn. Cái chìa khóa của sự tu học là như vậy, mình nắm lấy cảm thọ của mình, mình không là nạn nhân của các cảm thọ đó.
Uẩn thứ ba là Tưởng, tôi vẽ múi quít thứ ba. Tưởng đây không phải là tư tưởng (samjna) mà có nghĩa là tri giác. Đây là một tác dụng trong những tác dụng chính của thức, nghĩa là mình nhận biết được cái đối tượng của nhận thức mình. Ví dụ mình nhìn một cặp mắt kiếng, mình biết rằng đây là một cặp mắt kiến. Đây là một tri giác (a congition, a perception) tôi biết đây là tờ giấy, đây là Làng Hồng xóm Thượng chứ đâu phải là xóm Hạ, đây là khóa tu mùa đông. Tất cả những cái biết, cái nhận thức đó gọi là Tưởng. Thường ta cứ nghĩ là không có tri giác, không có tưởng thì chúng ta chết rồi. Không đúng. Có những sinh vật nó không cần có tưởng mà nó vẫn sống sống đôi khi nó còn sống vui hơn nữa. Đó là sinh vật gọi là vô tưởng, phi tưởng. Có những trạng thái thiền định gọi là Vô Tưởng Định. Điều đó không có nghĩa là mình không có đó. Mình không nhận thức, nhưng mình có những cái khác. Nhận thức chỉ là một phần trên mặt của Thức thôi. Có một cõi trời mà trong đó mình không cần nhận thức nhưng vẫn có mặt như thường. Đó là cõi Trời Vô Tưởng (Vô Tưởng Thiên). Cõi trời đó mình không cần đi máy bay mới tới. Khi mình đạt tới một trạng thái thiền định nào đó thì mình có thể nhập vào vô tưởng thiên, không còn thấy, không còn nghe. Chúng ta thấy cái hình một người mà hai mắt và hai cái tai bít lại. Điều đó không có nghĩa là mình chống lại tri giác nhưng trường hợp đó mình ngưng tác động của Thức về tri giác. Mình không có tri giác nữa. Nhưng mình có những cái khác. Không có tri giác không có nghĩa là mình không sống. Ví dụ khi mình đang vào trạng thái thiền định chú tâm vào một cái nào mà không phải là tri giác đó, thì lúc đó mình không còn tiếp nhận những đối tượng bên ngoài nữa nhưng không có nghĩa là mình không có mặt. Đôi khi mình có mặt vững chãi lơn. Thỉnh thoảng, trong một đám đông, những cái mình thấy, mình nghe làm cho mình bị tán loạn và tuy rằng mình có đó nhưng không còn vững chãi, không có mặt nữa. Đôi khi không nghe, không thấy nhưng có mặt rất vững chãi. Thành ra trạng thái vô tưởng chưa chắc nó yếu mềm, vắng mặt hơn trạng thái hữu tưởng. Đó là một cái ý niệm thôi. Có nhiều người khổ quá vì những cái họ nghe, thấy. Họ nói thà rằng tôi điếc và tôi mù đi thì tôi đỡ khổ hơn “trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Tri giác (tưởng) là cái thấy, cái biết của mình về một việc hay một sự kiện nào. Giữa cái Tưởng với cái thực tại luôn luôn có một khoảng cách. Phải tập chánh niệm, nhận diện, nhìn sâu tiếp xúc tận gốc rễ từng sự kiện thì các tri giác của mình mới dần đi gần thực tại. Bởi vì Bụt cho biết phần lớn những tri giác của ta đều sai lầm.
Hành (samskara) múi quít thứ tư có nghĩa là những hiện tượng được tập hợp thành, tiếng Anh gọi là formations. Chư hành vô thường là tất cả mọi hiện tượng được tập hợp nên đều là vô thường cả. Formations, conditions, dharmas, những sự vật hình thành nên do nhân và duyên gọi là formations. Ví dụ như hoa, lá được hình thành vên đều lo nhiều nhân và duyên (physiologica formations). Nhưng múi quít thứ tư nói về tâm hành (citta samskara), tức là những hiện tượng tâm lý thôi (mental formations). Thọ là những cảm thọ, tưởng là những tri giác của chúng ta, hai thứ này cũng là những hiện tượng tâm lý của ta. Vậy thì hành là gì? Hành là tất cả những hiện tượng tâm lý khác mà không phải thọ và tưởng. Tại vì phạm trù về thọ và tưởng quan trong quá nên chư Tổ chia nó nằm riêng, thành hai múi quít riêng. Vì thật ra thọ cũng là hành mà tưởng cũng là hành. Cái sợ, giận, buồn, vui, lo đều là hành cả. Trong đạo Bụt Duy Thức Đại Thừa có năm mươi mốt loại hành. nhưng Thọ là một loại Hành và Tưởng là một Hành khác. Những cái còn lại gồm bốn mươi chín hiện tượng tâm lý khác (metalfomations hay mental concommittlences).
Múi quít thứ năm được gọi là Thức (Vijnana). Khi ta chia trái quít ra làm năm múi thì mục đích là để thực tập cho dễ chứ không phải là để miêu tả thực tại mà thôi. Miêu tả thực tại thì có nhiều cách. Nhà họa sĩ miêu tả con cá khác với nhà sinh vật học, khác với người đầu bếp. Vấn đề ở đây không phải để miêu tả. Ta phân tích như vậy để hiểu và thực tập. Vì vậy có khi ta chia chía trái quít làm hai múi thôi: sắc và danh (mana &rupa). Có khi chia thành một múi thôi (thức). Thành ra có nhiều cách chia. Mỗi cách chia đều có mục đích cả. Mục đích chia là để cho ta thực tập, Danh là phần Tâm và Sắc là phần Thân. Khi chia làm hai thì ta có thể nối là Thân và Tâm ( soma & psicho: sinh tâm lý). Múi quít đầu thuộc về sắc (soma) và bốn múi chót thuộc về danh (psicho). Danh đây không có nghĩa là tên gọi, nó là Tâm. Danh và Sắc là trái quít hai múi. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là trái quít năm múi và một trái quít không chia múi là Thức. Tất cả những phân tích đó là để đi tới một cái thấy rất là chủ chốt. Nếu ta nhận thức rằng cái múi thứ nhất về sinh lý thì bốn cái múi còn lại là về tâm lý. Ta có thể thấy rõ là ba cái múi đầu (thọ, tưởng, hành) là tâm hiện khởi và múi chót là tâm căn bản. Căn bản thức. Chúng ta chỉ cần vẽ năm múi quít như vậy thôi ta có thể thấy được đại khái thì múi thứ năm là căn bản của những múi khác. Khi nói đến Năng tàng, Sở tàng, thì múi thứ năm mới là tàng chứ ba múi thọ, tưởng, hành kia hiện khởi rồi nó trở về. Thọ, Tưởng, Hành là những dòng sông nó phát khởi từ múi quít thứ năm tức là Thức và nó sẽ mang tất cả những hiện khởi của nó trở về Thức.
Giống như là TÂM HẢI, biển cả của tâm thức (danh từ của Thầy Tăng Hội). Khi ta buồn vui sung sướng khổ đau. Đó là những biểu hiện phía trên của tâm thức. Khi ta buồn hay vui cũng từ Căn Bản Thức mà phát hiện. Cho nên dù mình là Đạo Bụt Bộ Phái hay Đạo Bụt Đại Thừa thì mình cũng thấy múi quít thứ năm của Thức có tính cách Căn Bản Thức. Nó có tính chất của đất. Cây Tía Tô, cây Anh Đào dù cho nó vươn lên bao cao, có làm ra bao nhiêu triệu hạt giống thì rốt cuộc rồi nó cũng trở về với đất và đất sẽ ôm lấy nó. Dù ta có thấy cái này vui cái kia buồn rầu tất cả những cái đó đều trở về với Căn Bản Thức dưới hình thức hạt giống. Vì vậy cho nên chữ thức là tâm căn bản. Còn cảm thọ tri giác và 49 loại tâm hành khác đều là những biểu hiện của tâm thức; từ tâm thức mà sinh khởi và sẽ trở về. Mang hết tất cả những vốn liếng quy hướng cho tâm căn bản thức. Thành ra khi mình có niềm vui thì mình mang niềm vui ấy về nhà, mình nhẹ nhàng giải thoát thì mình cũng đem những cái ấy về nhà. Về Căn Bản Thức.
Ta cẩn thận đừng đem những cái tàn phá ngôi nhà mình. Căn Bản Thức, Tàng Thức nó cất giữ tất cả những hạt giống đó, đồng thời nó cũng là những hạt giống đó. Nó vừa là Năng tàng vừa là Sở tàng. Và tới đây ta đi tới những danh từ rất căn bản. Tâm của ta gọi là cittta hình dung bởi đất và biển và những hiện tượng phát hiện từ tâm nó giống như hoa trái, cây cối phát hiện từ đất hoặc như những đợt sóng phát hiện từ biển, những cái đó gọi là tâm sở (caitasika). Tâm (tâm vương) là citta và tâm sở là caitaska. Khi mình nói về Tâm Vương citta thì nghĩ tới biển hay đất và nghĩ đến Tâm Sở như cây cối hoa trái hay những đợt sóng. Một bên là gốc một bên là ngọn và tất cả đều phải trở về gốc. Thức gồm có hai phần: Tâm và Tâm Sở. Tâm như dòng sông và Tâm Sở là những giọt nước trong dòng sông. Trong kinh chúng ta thấy có ba danh từ nói về tâm; tâm (citta), ý (mana) và thức (vijnana). Trong kinh có khi dùng chữ Tâm, có khi dùng chữ Ýcó khi dùng chữ Thức. Nhưng khi đi vào chuyên môn về Duy Thức thì mỗi chữ được dùng trong một trường hợp quy định hẵn hòi. Về bản chất và nguồn gốc của đất và biển thì ta nên dùng chữ TÂM (citta) nhiều hơn. Về phương diện tác dụng tri giác, cảm thọ, suy tư, tưởng tượng, buồn đau vui, khổ thì ta nên dùng chữ THỨC (vijnana) và khi nói về cái biển trung tâm, cái động lực làm phát hiện nhận thức của thức thì chúng ta sử dụng danh từ Ý. Sau này ta sẽ thấy thức có tất cả tám tác dụng.
Tác dụng thứ nhất là Tâm nó mang phận sự căn bản là duy trì là Tàng. Tác dụng thứ hai là Ýù, nó mang tác dụng ôm ấp, ghì chặt nắm giữ. Nó chính là anh chàng làm công tác ôm ấp chấp chặt của tình yêu đó. Nó là anh chàng chuyên môn ôm ghì lấy một cái gì mà cho đó là cái ta, nó là manas = mạt na thức. Anh chàng đó ta phải sờ mó được, bắt mạch được và làm quen với nó. Ta đừng để cho anh chàng sống và hoạt động một mình. Ta phải cho Chánh niệm đi chung với nó. Và thức thứ sáu có sáu tác dụng khác (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức). Vì vậy cho nên phận sự của Tâm (citta) là Tàng. Sau này ta sẽ học một công dụng của nó là Dị thục. Công dụng của Ý là Tư Lương (mentation). Tức là cả ngày cả đêm không lúc nào không nói. “Anh là tôi đó, tôi là em đó, em là của tôi”. Đó là Ý (metation). Cái này là tôi là thân tôi tâm tôi, danh dự của tôi. Động tới là không được. Nhưng tự ái giận hờn ganh tỵ, danh lợi đều xuất phát từ Tư Lương. Và cái tác dụng của thức là Liễu Biệt. Liễu biệt cảnh tức là nhận thức được cảnh vật. Thức có sáu cái, ý có một và tâm có một. Tâm có tác dụng cất giữ duy trì và làm cho chín (dị thục) những hạt giống của mình. Ý có tác dụng âm thầm ôm chặt cho cái đó của tôi, danh dự của tôi bản ngã của tôi không được động tới. Liễu Biệt Cảnh có nghĩa là nhận htức được cảnh vật bên ngoài. Khi mà chúng ta nói thức thì chúng ta thấy có ba phạm trù, ba loại. Có khi gọi là Dị Thục tức là Tàng Thức có khi gọi là Tâm. Hai là Tư Lương là Ý, người yêu đó. Thứ ba là Liễu Biệt Cảnh. Thức có ba tác dụng. Tác dụng thứ nhất là là tác dụng của thức Alaya, tác dụng thứ hai tác dụng của thức Mạt na và tác dụng thứ ba là tác dụng của sáu thức còn lại, có năm thức cảm giác và thức thứ sáu là Ý thức.
Ta phải luôn luôn nhớ rằng ba loại thức này chia nhỏ ra thành tám, loại nào cũng phải được nhìn qua Tâm và Tâm Sở. Cái nào được gọi là Tâm và cái nào được gọi là Tâm Sở. Tâm là nói tổng quát, nói phần căn bản, Tâm Sở là nói về phần chi tiết, phần hiện tượng, biểu hiện. Tuy là những chữ tâm và thức mình dùng lộn xộn như vậy nhưng mà mình hiểu, mỗi chữ nó có nghĩa đặc biệt của nó. Khi mà nói nó với tư cách căn bản thì mình gọi là Tâm Vương (vua) và khi mình nó về hành tướng của nó và những tâm lý nó biểu hiện ra thì gọi là Tâm Sở. Ví dụ như ý thức của mình khi nó buồn thì Tâm Sở vui không biểu hiện. Điều đó không có nghĩa là ý thức chỉ là buồn không, nó có vui nữa nhưng mà lúc đó nó lén đi nó không phát hiện.
Có năm tâm sở, năm hiện tượng tâm lý (Mehntal formations) hiện diện cùng khắp, đi theo đủ tám thức gọi là năm Tâm Sở Biến Hành (universally operating) nó hiện hành hoạt động (sarvatraga) đủ cả ở nơi Tàng thức, Mạc na thức, và sáu loại thức cảm giác.
Năm Tâm Sở Biến hành: Xúc, tác y, thọ, tưởng, tư là năm trong số 51 chàng tâm sở. Là người tu phải nhận diện cho được khi các anh chàng này xuất hiện.
Xúc (sparsa) tức là tiếp xúc. Khi nào ta cũng học tiếp xúc hết. Xúc là sự xúc chạm giữa tâm và cảnh vật, thân và cảnh vật, tâm và tâm. Mình có thể xúc chạm nỗi buồn của mình những hiện tượng trong thiên nhiên. Nếu không có xúc thì không có nhận thức. Nếu con mắt tôi mà không có tiếp xúc với tờ giấy thì tôi sẽ không có tri giác về tờ giấy ấy. Cái tri giác đây là tờ giấy nó có được là nhờ sự tiếp xúc giữa con mắt tôi và tờ giấy, giữa cái nhận thức và đối tượng của sự nhận thức.
Tâm sở thứ hai là tác ý (manaskara). Có chữ manas trong nầy là chú ý. Chàng nghe một mùi hương chàng thấy một sắc diện, chàng chú ý liền lập tức. Chàng thấy nó đang chú ý, nếu không thì gặp nhau rồi thì cũng phớt lờ qua thôi. Tại sao nó chú ý? Mình phải tìm cái gốc ở trong tàng thức. Tại sao mới gặp lần đầu mà đã chú ý rồi? Tại vì trong tàng thức của mình nó chứa sẵn những âm thanh, những hình ảnh nào đó mà khi vừa tiếp xúc đã bị nó hút hồn lập tức. Khi mình ở trong một cuộc triển lãm xem tranh, hay là đi chợ mua áo quần hay là đi thăm một trung tâm bán cây cảnh, nó cũng vậy, tất cả đã được an bài trong tàng thức rồi. Cho nên tới bức tranh đó không thể không mua được, tới cái áo đó là không thể nào đi được. Đi ra rồi lại đi vô tất cả đã được quyết định trong này hết rồi, không phải là mưu mô của người làm áo đó. Như bên Mạc Tư Khoa có anh chàng khoảng gần bốn mươi tủôi, anh ta tới nghe Thầy giảng, đi học một ngày quán niệm và tới ngày hôm sau nữa thì anh ta xin quy y với Thầy. Sau khi thọ năm giới rồi thì anh ta tuyên bố một câu: “Tôi biết mà, tôi biết từ năm tôi mười bốn tuổi là thế nào tôi cũng gặp Thầy và tôi sẽ quy y với Thầy”. Anh ta cũng đã bốn mươi tuổi mà năm mười bốn tuổi làm gì mà đã gặp Thầy Nhất Hạnh và anh đã biết trước rồi thế nào tôi cũng gặp Thầy Nhất Hạnh và sẽ quy y với Thầy. Đó là vì anh ta đã gặp Thầy, một ông Thầy mà theo định nghĩa của tàng thức anh ta là phải như vầy, như vầy, tất cả đều đều được viết trong sổ tàng thức của anh. Anh ta nói một cách rất cương quyết, chắc chắn như vậy. Đó là Tác ý. Tác ý là bổng nhiên mình chú ý đến cái đó. Cái đó nó bắt mình được. Dính, Ca colle! Tự nhiên nó dính. Đâu phải dính cái xấu thôi. Dính cái tốt nữa. Tại sao gặp Thầy lần đầu mà anh đã thương Thầy rồi, mà đã biết rằng đây là Thầy mà mình đã kiếm từ mấy kiếp nay? Cái đó là Tác ý. Đối với giáo pháp cũng vậy, đối với Bụt cũng vậy. Thương gia Cấp Cô Độc mới nghe chữ Bụt thôi chưa thấy Bụt mà đã dính. Nghe chữ Bụt mà thương quá, sướng quá, ông ta ngủ không được, chờ đến sáng hôm sau để đi gặp Bụt liền. Đêm đó không ngủ cứ mơ mơ màng màng thức dậy và trông cho mau đến sáng để được đi gặp Bụt ở tu viện Trúc Lâm. Thành ra cái hạt giống phước đức tromg mình rất là quan trọng. Cùng đi với một người khác tới Làng Hồng, người đó ba ngày sau bỏ Làng đi, còn mình thì ở luôn, sự khác nhau nó không nằm ở Làng Hồng đâu mà nó nằm ở tàng thức.
Thọ (vedana)… Tưởng (samjna)….
Tư (centana). Tư đây không phải là suy nghĩ. Suy nghĩ trong danh từ đạo Bụt là Tầm và Tứ. Nó là hai cái hành khác. Vitaka và viccara. Còn Tư ở đây là sức mạnh quyết định. Tôi sẽ mua cái đó, tôi sẽ cưới cô ấy, nếu không thì tôi sẽ không bao giờ cưới vợ hết. Đó là anh chàng Kim Trọng vừa thấy cô Kiều thì xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư liền tức thì. Nếu quý vị chưa đọc nguyên văn bằng chữ Hán. Bản này rất tầm thường nhưng khi nó vào tay thi hào Nguyễn Du thì nó trở nên rất tuyệt diệu. Trong bản chữ Hán, anh chàng Kim Trọng thầy nàng Kiều lần đầu thì xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư liền ngay tức thì. Nếu mà ta không lấy được cô này thì suốt đời ta không lấy vợ nữa. Tư là một quyết định, một động lực nó đưa mình dính hẳn. Tác ý mới là chủ ý thôi, dính thôi nhưng Tư là một quyết định hẳn hòi rồi. Tiếng Anh là volition. Đó là một thứ nghiệp rồi. Mình biết là mình đi về hướng đó rồi. Nó có thể là tốt, nó có thể là xấu. Khi mà mình nghe tụng giới Tiếp Hiện hoặc năm giới hoặc sa di, khi ta nghe mình đã tác ý. Càng nghe càng cảm nhận sự sâu sắc, nó đáp ứng được tiếng gọi sâu kín trong tâm thức của mình thì mình sẽ có Tư. Mình phát nguyện mình sẽ thọ giới, mình tự nhủ mình sinh ra là để thọ giới này. Tất cả những điều đó đều đã được ghi chép sẵn trong tàng thức của mình. Vậy thì năm tâm sở này nó luôn đi đôi với chúng ta. Thọ là một tâm sở Biến hành, Tưởng là một tâm sở Biến hành. Hai tâm sở này quan trọng vô cùng. Mình tu là phải đi theo Thọ và Tưởng. Hễ có Thọ là phải tiếp xúc với Thọ chứ đừng để cho Thọ và Tưởng đi ngang qua và bị lôi cuốn theo. Phải nhận diện các Thọ và các Tưởng để thấy được cái bản chất cái nguồn gốc của nó trong tàng thức thì mình mới làm chủ được mình. Mình mới chuyển hóa được. Nếu quý vị tới Làng Hồng thì quý vị phải biết công việc đó là công việc căn bản. Quý vị có thể phục vụ đại chúng một cách tận tình. Quý vị có thể làm vườn rất giỏi, nấu cơm rất hay, làm việc rất giỏi, làm việc không biết mỏi mệt, không kể gì thời giờ của mình làm được những điều cực nhọc nhất mà đại chúng bỏ không chịu làm. Điều đó là điều hay nhưng điều đó là điều không phải là điều căn bản của Làng Hồng. Điều căn bản là mỗi khi mình có Thọ và mình có Tưởng, thì mình biết phải tiếp xúc với cái Thọ, Tưởng đó. Mình phải lấy ngọn đèn chánh niệm để soi cái Thọ và cái Tưởng đó để biết được nó, để nhận diện được nó. Lúc đầu thì chỉ nhận diện nó mà thôi. Mình đang buồn đây nè: “Buồn ơi chào mi. Tức là mình dùng ngọn đèn chánh niệm để nhận diện từng cái Thọ cái Tưởng của mình. Ban đầu thì nhận diện nó gọi tên được nó nhưng dần dần sẽ thấy được nội dung bản chất của nó. Đó là việc chính phải làm ở Làng Hồng. Vì vậy trong khi rửa nồi, rửa chén, lặt rau, nấu cơm, chặt củi, đốt lò, công việc chính của mình là phải luôn luôn nhận diện Thọ và Tưởng. Tại vì Thọ là một dòng sông, Tưởng là một dòng sông, nó trôi chảy mỗi ngày, đừng để nó trôi một mình, đừng để nó cuốn mình đi theo, mình phải nhận diện từng cái Thọ từng cái Tưởng.
Có Chánh niệm là có Tuệ. Ban đầu ánh sáng của chánh niệm chỉ dù cho mình nhận diện thôi nhưng từ từ chánh niệm lớn lên thì mình thấy được mặt mũi bản chất và gốc rễ của Thọ và Tưởng đó, thì mình mỉm cười được. Khi mà mình mỉm cười được thì nó không làm lung lạc được mình nữa, cái đó mới gọi là tu. Nếu không thì tới Làng Hồng để mà làm phước thôi, làm công quả thôi. Đó chỉ là tu phước thôi, mà tu phước thì không đi xa được bao nhiêu. Phải tu huệ. Tu huệ là phải có chánh niệm. Chánh niệm thì soi sáng được. Nhưng mà khi mình tu huệ như vậy thì cũng có phước mà cái phước lại lớn hơn cái phước kia nhiều lắm. Mình có thể làm bao nhiều công tác lớn hơn cái phước kia nhiều lắm. Mình có thể làm bao nhiêu công tác tại Làng nhưng nếu mà không có Chánh niệm thì phước đó rất nhỏ. Nếu mình làm ít như từng cử động đều làm trong Chánh niệm, có Tuệ thì cái phước đó mới lớn hơn nhiều. Ý nghĩa này chúng ta đã học trong kinh Kim Cương. Khi chùi nồi mà chùi trong chánh niệm thì phước đức khó mà đo lường, nhưng nếu khi chùi nồi mà phiền não thì phước đức chỉ to bằng cái nồi hay có khi nhỏ hơn cái nồi nữa. Thành ra phận sự của người tu học là phải theo dõi dòng sông cảm thọ hay là dòng sông tri giác. Tại vì tri giác của mình thường thường là sai lầm. Tri giác về mình cũng rất là sai lầm nữa, chưa biết rõ mình là ai, thì không biết rõ được chiều sâu của mình. Cái phòng khách của chính mình còn chưa biết rõ huống chi là cái nhà kho của mình nữa, trong khi đó mình không nhìn thấy được. Nếu mình thấy được mình, thì mình sẽ chấm dứt được không biết bao nhiều là sự giận hờn, đau khổ, buồn rầu và trách móc. Tất cả những đau khổ của mình đều có gốc rễ trong căn bản thức của mình cả. Vậy thì Thọ là Tâm hành, Tưởng là một Tâm hành, xúc, tác ý, tư là ba Tâm hành trong số những Tâm hành còn lại còn lại, tất cả những Tâm hành đều là sóng. Mà sóng cũng chính là nước. Ngoài sóng thì không có nước, mà ngoài nước thì không có sóng. Nước là Tâm vương còn sóng là Tâm sở. Tâm sở và Tâm vương là hai cái, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Điều này nó đúng cho cả tám thức. Tám thức chia làm ba loại Tâm, Ý và Thức: Citta, Manovijnana, Cita Manavijnana. Đây là những danh từ được dùng trong kinh. Nhưng ở trong kinh người ta hay dùng chữ Duy Tâm Citta Matrata như trong kinh Hoa Nghiêm. Sau này chỉ có những kinh như kinh Lăng Già mới dùng tới Duy Biểu, Duy Thức mà thôi. Trước thì chỉ dùng tới danh từ Duy Tâm mà Duy Tâm cũng có nghĩa là Ý, cũng có nghĩa là Thức. Tâm đó bao gồm cả ý và thức. Vì vậy cho nên ta cũng có danh từ Citta matra là duy tâm, vijnanavada là Duy Thức, vijnaptimatra là Duy Biểu. Có nhiều danh từ như vậy nên dùng cho thống nhất. Tâm là dị thục là năng tàng là sở tàng là ngã ái chấp tàng là nhất thiết chủng. Ý là Tư lương, ghì ôm chặt dính mắc vào.
Thức là Liễu biệt cảnh tức là nhận thức về cảnh vật.
Trong 51 anh chàng tâm sở kể trên có những anh chàng rất hiền lành, tốt đẹp, lợi lạc cho sự giác ngộ giải thoát của mình, gọi là Tâm sở thiện có những anh chàng không hiền, anh chàng mà nếu mình cứ tưới tẩm và để cho người ta tưới tẩm gọi là tâm sở không hiền (trong kinh dùng chữ tâm sở không hiền chứ không dùng chữ ác) gọi là Tâm sở bất thiện. Có những tâm sở không phải không hiền mà cũng không phải hiền. Nó tùy thuộc từng hoàn cảnh cho nên gọi là Tâm sở bất định. Trong trường hợp suy nghĩ miên man càng suy nghĩ là càng buồn rầu cuống cuồng lên là Tầm Tứ lúc đó bất thiện. Nhưng có những khi càng suy nghĩ càng thông suốt phấn chấn thấu rõ. Sự việc hiểu và thường thì tầm tứ lúc đó là tâm sở hiền. Đó là Tâm sở bất định.
Công đức của hai Thầy Vô Trước và Thầy Thế thân đối với Đại Thừa rất là lớn. Thầy Vô Trước theo đại thừa đã lâu trong khi Thầy Thế Thân đang còn nghiên cứu học hỏi theo Đạo Phật Bộ Phái. Thầy Thế Thân rất giỏi về Hữu Bộ và Kinh Lượng Bộ, Thầy đi con đường của Thầy và nghĩ rằng Đại Thừa không chính thống Phật giáo. thầy đã không đọc các tác phẩm Đại Thừa mà còn chê bai Đại Thừa rất nhiều.
Đêm đó trời có trăng, Thầy đan đi thiền hành thì gặp người anh là Thầy Vô Trước đang ngắm trăng và đọc bài kệ về Đại thừa. Và lúc ấy những hạt giống trong tàng thức của Thầy đã chín mùi nên thầy tác ý, thọ, tưởng và tư luôn ngay lúc ấy, và Thầy chuyển sang Đại Thừa một cách rất là im lặng. Thầy hối hận là lâu nay Thầy đã công kích Đại Thừa quá mạnh vì chưa thấy được giá trị của Đại Thừa. Trong sách chép lại là Thầy hối hận và Thầy bẻ một cây ngứa, định cắt lưỡi của Thầy. Nhưng thầy Vô Trước quay lại và hỏi: “Em đó hả? Đang làm gì vậy?” Thầy Thế Thân nói: “Em hối hận quá đinh cắt lưỡi của em để trừng phạt tội em đã nói xấu Đại Thừa”. Thì Thầy Vô Trước nói “Em đừng có cắt cái lưỡi của em uổng lắm. Tại vì biết bao nhiêu người trong đó có anh đang cần cái lưỡi của em để xiển dương Đại Thừa”. Lúc đó Thầy Thế Thân mới giữ cái lưỡi đó lại và đã phục vụ Đại Thừa một cách rất sâu sắc và hữu hiệu. Mỗi người là một cây đuốc rất là cự phách trong làng Phật giáo Đại Thừa Asanga: Vô Trước là không có dính mắc, không có bị kẹt. Và người em đã đọc, đã chú thích Nhiếp Đại Thừa Luận (Mahayansangraha). Vì vậy bản Nhiếp Đại Thừa Luận đã được dịch, chú giải bằng chữ Hán rất nhiều lần và bản chú giải của Thầy Thế Thân cũng đã được Thầy Huyền Trang dịch ra chữ Hán. Ta có bản dịch Nhiếp Đại Thừa Luận bằng chữ Hán. Bản chữ Hán của Thầy Huyền Trang. bản chữ Pháp của Etienne Lamotte do trường Đại Học Louvain xuất bản năm 1973 Editons Peters. Rất mong quý vị nên đọc ít nhất là một chương của Nhiếp Đại Thừa Luận tên và Sở Tri Y, tức là thức thứ tám của mình. Tất cả những nhận thức của mình đều có nền tảng trong thức thứ tám cả. Đây là lần đầu ta mới biết được cái gốc gác của Duy Thức học, lần đầu ta mới được hệ thống hóa. Ở Việt Nam ta có đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết có người anh là Thích Tịnh Hạnh cũng đi tu và hai anh em đi tu rất thành công, rất xuất sắc, đều tu một chùa, rất thương nhau và khi nhìn hai Thầy, người ta hay nghĩ đến hai Thầy Vô Trước và Thế Thân.
Có một điều rất căn bản mà ta cần biết về thức là nhận luôn luôn gồm chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Biết thì luôn luôn có người biết và đối tượng được biết đến. Ý thức thì phải biết ý thức về cái gì. Đó là điều căn bản ta cần biết để bắt đầu mà cũng để thực tập cho tới nơi. Điều này không dễ hiểu đâu, có thể ta chỉ mới hiểu chút xíu thôi. Vì vậy tôi mong quý vị nuôi dưỡng ý thức chánh niệm đó, thực tập cho tinh chuyên và rồi một ngày nào đó quý vị sẽ có trực nhận đích thực bằng kinh nghiệm sống của quý vị chứ không phải bằng ý niệm.
Nhận thức thì luôn luôn gồm chủ thể và đối tượng. Mình có khuynh hướng nghĩ rằng mình chỉ có cái chủ thể nhận thức thôi, mình cất sẵn trong túi khi nào cần đem cái chủ thể nhận thức ra xài giống như cây thước bỏ trong túi. Muốn đo cái gì cứ lấy ra đo dễ hiểu. Ví dụ khi mình giận. Giận là một biểu hiện của tâm mình, nhưng biểu hiện thành hai phần: Chủ thể giận là mình đang giận và Đối tượng giận là những nguyên nhân nào đó, hay ai đó bằng hành động hoặc lời nói nào đó đã tưới tẩm những hạt giống giận đang nằm ngủ trong tàng thức mình. Phải có chủ thể và đối tượng của cái giận. Thành ra khi mình nói cái nhận thức của tôi hình như sai lầm. Phải nói cái nhận thức của tôi về cái gì mới đúng. Một nhận thức phải được nhận diện khi chủ thể và đối tượng chạm nhau và biểu hiện ra cái nhận thức đó. Có thể nó chỉ kéo dài chừng một giây. Và trong thời gian biểu hiện đó ta thấy có chủ thể và đối tượng chạm nhau và biểu hiện ra cái nhận thức đó. Có thể nó chỉ kéo dài chừng một giây hay ngắn hơn một giây. Và trong thời gian biểu hiện đó ta thấy có chủ thể và đối tượng, đồng thời phát sinh và cùng sinh. Như là khi có bên trái thì có bên phải phát sinh đồng thời. Không bào giờ có một bên phải mà không có bên trái. Và phút giây kế tiếp thì có thể có một nhận thức mới khác, phát sinh cũng như trên nhận thức kế tiếp này cũng có hai phần vừa chủ thể nhận thức vừa đối tượng nhận thức.
Vì đối tượng chuyển biến nên chủ thể nhận thức dĩ nhiên cũng chuyển biến. Nhận thức có nhiều nhiệm vụ vì vậy ta có thể nói nhận thức gồm một thức, hai thức, ba thức, bốn thức, năm thức, sáu thức hay tám thức… Vì vậy nói thức chỉ có một cũng đúng, nói thức có hai cũng đúng, nói ba cũng đúng, nói thức có tám hay có chín cũng đúng. Các điều này không có chống đối nhau. Ví dụ như khi mình nói Thầy Nhất Hạnh có ba phần vừa là ông Thầy tu vừa là Thi sĩ vừa là Tác viên xã hội vừa là người làm vườn. Nhưng lời tuyên bố đó không chống đối nhau. Vì vậy có những nguồn tuệ giác khác nhau. Tùy theo tuệ giác và cách trình bày của người diễn dịch về thức và những tuệ giác đó không hẳn chống đối nhau mà nó sẽ bổ túc cho nhau.
Chúng ta nên biết vai trò căn bản nhất của tâm thức là giữ gìn, bao trùm và giữ trọn vạn vật chung lại với nhau. Thông thường người ta vẫn nghĩ là thức tức là khả năng phân biệt, tri giác, là hiểu, là tưởng tượng nhưng thật ra khả năng căn bản nhất của tâm thức là giữ trọn vạn vật quy tụ chung vào nhau để giữ gìn. Nếu khả năng giữ trọn chung vào nhau ấy mà không có, quý vị sẽ thấy mọi vật bắt đầu tan rã. Giống như một khối nam châm nó hút vào nhau tất cả những hạt giống, tất cả những kinh nghiệm, nó diễn tả một thứ tổng thể có hòa điệu nhịp nhàng đó là vai trò căn bản của tâm thức. Vì vậy ta có danh từ kho chứa. Nhưng tâm thức ở đây không có nghĩa chỉ là cái nhà kho. Đôi khi mình gọi là citta, là tâm. Đó là vai trò thứ nhất của tâm thức, vai trò thứ hai là như vầy. Đôi khi tâm thức bị hiểu sai như là nó có một cái ngã riêng biệt. Vai trò thứ hai của tâm thức là ôm lấy cái nhà kho và đồ đạt trong kho (alayavijnana: tàng thức) như của riêng mình, cái phần này của tâm thức có cái tên là Manas (Mạt na) và Alayavijnana trở bổng trở thành nạn nhân của Manas. Tàng thức đâu có muốn nhưng vẫn là nạn nhân của anh chàng quá chấp ngã Manas này. Rất nhiều cách suy nghĩ, phán xét, suy đoán từ những tri giác của chúng ta đều sai lầm vì chúng ta bị anh chàng Manas này ảnh hưởng, vì vậy khi kéo theo những hành động sai lầm và những hậu quả sai lầm gây đau khổ dài dài cho ta. Đó là Ý Mentation, là biết, là luôn luôn tin rằng ôm ấp rằng mình có một cái ngã, cogitating, always believing, always embracing, recongizing as a self, as it me, ti is mine. Vai trò thứ ba là vai trò nhận thức về cuộc đời, về thiên nhiên, nhận thức về thân thể, về thế giới và về nhiều thứ khác nữa. Đó là vai trò của sáu thức như nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức, sáu thức này mình gọi chung là thức (vijnana) Mid: cita, manas and vijnana.
Bây giờ ta hãy quan sát cây sồi trước mắt ta. Ta có khuynh hướng nghĩ rằng cây sồi nó hiện hữu độc lập với tâm thức ta. Ta lấy tâm thức ra mà nhận diện cây sồi. Cái mà ta có thể chắc chắn là cây sồi ta đang quan sát chính là đối tượng của nhận thức và vì vậy nó là một phần của nhận thức, bởi vì nhận thức có hai phần, phần chủ thể và đối tượng và vì vậy cây sồi đang đứng trước mắt ta, nó thật ra đang đứng trong tâm thức ta. Và khái niệm về thời gian không gian cũng vậy và những cái đó là đối tượng của nhận thức của ta. Nếu ta tin tưởng rằng cây sồi nọ đang đứng trong không gian của ta. Nếu ta tin tưởng rằng cây sồi nơi đang đứng trong không gian và thời gian hoàn toàn độc lập với cái biểu hiện của tâm ta thì không chắc đâu. Ta cần phải suy gẫm lại điều điều đó. Tâm thức biểu hiện thành hai phần, phần chủ thể và phần đối tượng. Và nếu mình tin rằng phân nữa của nhận thức luôn luôn nằm trong mình, độc lập hẳn với phần kia thì ta sai lầm. Ví dụ như ăn (chủ thể) thì ta phải nói rõ ăn cái gì (đối tượng). Uống (chủ thể) uống cái gì (đối tượng). Nhận thức cũng vậy. Nhận thức (chủ thể) về cây sồi hay về người nào hay sự kiện nào (đối tượng). Thành ra người mình thương hay mình ghét đều là đối tượng của tâm thức mình. Giống như cây sồi vậy thôi. Người ấy không là một thực thể độc lập với tâm thức mình. Mình có thể nói phần lớn cái người kia là biểu hiện của tâm thức của chính mình. Ví dụ như khi mình bị tiếng sét ái tình với ai đó. Cái đối tượng của sự yêu thương của mình, tức làhình ảnh của người mình yêu đều hoàn toàn tự vẽ ra trong tâm mình, mình vẽ một hình ảnh về người đó hoàn toàn xa lạ với thực tế người đó. Mình cần phải sống chung nhìn sâu thấy kỹ người đó ba năm sau, sáu năm mình mới nhận ra rằng cái hình ảnh đó hoàn toàn do mình tự dựng lên. Nhưng nếu mình khám phá ra những điều mà mình không thấy lúc ban đầu thì đó cũng là đối tượng của cái nhận thức của mình.
Tâm thức của mình nó có phần cá biệt mà cũng có phần cộng đồng. Ví dụ về cái đẹp. Có những cái gì được mình và một người khác xem là đẹp bởi vì có phần tâm thức cộng đồng chen vào. Ví dụ như mình đi ban đêm mình thấy một con ma hay một con rắn và mình la hoảng lên nhưng Sư anh mình nói đó chỉ là biểu hiện của tâm mình chứ không thật. Mình tức lắm và mình dẫn sư em tới, Sư em cũng thấy y như mình. Nhưng Sư anh nói dù hai hay ba bốn người thấy thì cũng là biểu hiện của tâm thức cộng đồng của các em thôi. Chúng ta nên nhớ không phải ba bốn người có khi hàng trăm ngàn người, thị trường chứng khoáng ở Paris New York đều như thế cả, cứ suy luận tính toán hô hoán lên, tuyên truyền… Thế là giá cả tăng vọt hay hạ thấp từ vàng tới đô la tới các thứ khác. Chỉ cần suy luận tính toán rồi tạo thành một loại tâm thức cộng đồng ảnh hưởng dây chuyền tạo không biết bao nhiều là đau khổ. Tâm thức cá nhân và tâm thức cộng đồng là những gì ta sẽ từ từ học sau.
Kỳ trước chúng tôi vẽ 5 múi quít để chỉ năm uẩn trong ta: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Mỗi một nhóm như một dòng sông biến chuyển không ngừng. Tu học là nhận diện và từng giọt nước trong những dòng sông ấy. Ta tiếp xúc với thân, quán sát những gì xảy ra trong thân. Kế đó là tiếp xúc với từng cảm thọ trong ta. Sự phát sinh của một cảm thọ, sự chuyển biến của cảm thọ đó. Ta cũng tập tiếp xúc với từng tri giác trong tâm hành. Ta cũng tập tiếp xúc thật sâu sắc, từng hiện tượng sinh và tâm lý. Bụt có dạy ta phương pháp tiếp xúc rất sâu sắc từng hiện tượng. Điều này ta đã học bằng các sử dụng ba cái chìa khóa pháp ấn: Vô thường, Vô ngã và Niết bàn để mở khóa thực tại. Vì vậy khi ta tiếp xúc với một hiện tượng trong dòng sông Sắc. Ta tiếp xúc bằng Chánh Niệm. Bởi vì Chánh Niệm là năng lượng duy nhất mà mình có thể sử dụng để tiếp xúc. Khi mình dùng Chánh Niệm để tiếp xúc thì mình thấy sâu hơn cái đối tượng của nhận thức mình. Ví dụ như ta tiếp xúc với lá gan của ta. Nếu ta tiếp xúc bằng chánh niệm, ý thức sự hiện diện lá gan mình. Khi mình tiếp xúc với lá gan bằng chánh niệm, như thế thì lá gan cảm nhận được và nghe sướng lắm vì được chú ý. Nếu ta tiếp xúc sâu hơn thì mình thấy được tính cách vô thường của lá gan, chuyển biến không ngừng. Gan mình mạnh khỏe hồi ba tháng trước không có nghĩa là nó mạnh hoài nếu mình không giữ gìn chăm sóc nó. Đồng thời mình cũng thấy được tính cách vô ngã của lá gan. Sự khỏe mạnh của lá gan tùy thuộc vào sự mạnh khỏe của nhiều yếu tố không phải là gan như là một bộ phận tiêu hóa của mình, như là các thức ăn thức uống của mình. Khi mình thấy được tính cách vô thường và vô ngã của lá gan mình và mình thấy được những khó khăn của nó và mình bắt đầu hiểu và thương và chăm sóc nó. Chỉ khi hiểu sâu sắc, mình mới có thể chăm sóc lá gan mình kỹ lưỡng hơn. Thành ra khi ta dùng ba cái chìa khóa mà Bụt trao để mở cửa thực tại về lá gan của ta, ta mới hiểu nó sâu sắc và mới thương mà chăm sóc thật sự và hành động có thể chuyển hóa tình trạng của lá gan mình. Điều này cũng đúng với lá phổi hay trái tim hay các bộ phận khác. Mình sẽ không hút thuốc, uống rượu và ăn uống bừa bãi đẻ làm mệt gan, dơ phổi, nghẽn tim… Nếu mình tiếp xúc sâu sắc thì mình mới tiếp xúc được chìa khóa thứ ba là Niết bàn và khi đó mình mới đạt tới tình trạng nhẹ nhỏm là không còn sợ hãi. Vô thường và Vô ngã giúp mình khám phá hiện tượng về mặt phần Tích môn. Và nếu mình tiếp xúc sâu hơn mình sẽ tiếp xúc được Bản môn của lá gan mình. Phương pháp này có thể dùng để tiếp xúc với các bộ phận khác của cơ thể, của cảm thọ của tri giác và của tâm hành. Cảm giác đau buồn, cảm giác buồn giận, lo lắng.. tất cả những cảm thọ đều có thể được tiếp xúc bằng chánh niệm và ta nên đem ba chìa khóa trên ra mà sử dụng để mở khóa thực tại về từng tâm hành. Như thế ta mới có thấy sâu sắc về Vô thường, Vô ngã và Niết bàn của từng tâm hành. Đó là cốt tủy của thiền tập theo lời Bụt dạy và sự thực tập trở nên dễ dàng thôi. Chính sự nghiên cứu về tâm thức có thể gtiúp mình làm việc này dễ hơn. Thế kỷ thứ ba mười Thiền sư Thường Chiếu nói rằng: “Nếu mình hiểu sự vận hành của tâm thức mình thì sự tu học trở nên dễ dàng hơn nhiều”. Vì vậy khi ta học về sự vận hành của tâm, điều này giúp cho sự thực tập tu học trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn nhiều.
Hạt giống có nhiều loại
Mê ngộ và khổ vui
Sanh tử va niết bàn
Danh xưng và Tướng trạng
Hạt giống có đủ loại: đủ loại có nghĩa là không có loại hạt giống nào mà không có trong ta. Dù nó yếu hay mạnh, quan trọng hay không quan trọng đều có đủ hết. Hôm trước tôi có nói rằng chúng ta có hạt giống của sự trung kiên; điều đó không có nghĩa là không có hạt giống của sự phản bội, sinh tử và niết bàn, mê và ngộ và khổ vui. Tức là ta có hạt giống của sinh tử và niết bàn. Sinh tử ở đây có nghĩa là trôi lăn ngụp lặn trong khổ đau chứ không có nghĩa là sinh ra rồi chết đi. Đây có nghĩa là luân hồi là khổ cách này rồi khổ cách khác. Nói theo con nít Việt Nam “Giờ là khổ dài dài” không thoát ra được. Trôi lặn trong sinh tử.
Chúng ta không phải đợi năm sáu chục năm mới sinh tử một lần đâu. Mỗi ngày chúng ta có thể sinh tử hàng triệu lần. Sinh tử trong thân, sinh tử trong tâm, đau khổ lắm. Trong một giờ mà ta có thể sinh tử biết bao nhiêu kiếp. Chết rất nhiều lần trong một giờ đồng hồ khổ đau vô lượng. Thành ra sinh tử là khía cạnh khổ đau của sự sống trong đó có sự sợ hãi, căm thù, buồn khổ thì gọi là sinh tử. Niết-bàn là cái ngược lại là sự chấm dứt sinh tử, sự mát mẽ, sự không sợ hãi, sự vững chải. Chúng ta có đủ hạt giống của sinh tử, đủ hạt giống của niết bàn. Hai loại hạt giống đó không hẳn nó chống bán nhau trong ta có đánh giặc với nhau. Đừng có tưởng tượng là Niết-bàn và sinh tử đang đánh giặc trong ta. Cũng giống như ta không nên tưởng hoa và rác đang đánh giặc với nhau. Tại vì rác khác với hoa. Nhìn sâu thì ta thấy rằng trong rác có hoa. Ta cũng biết trong hoa có rác nếu ta không khéo không sống cho có chánh niệm thì hoa biến thành rác rất mau chóng. Không những trong hoa có rác mà ngay trong rác có hoa. Nhưng mà rác chưa biểu hiện đó thôi. Nếu mình người phàm phu thì đợi mười ngày sẽ thấy hoa là rác. Còn người thực tập tỉnh thức thì đã thấy ngay trong hoa có rác, ta thấy rác ngay trong tự tính bất nhị niết bàn của nó. Thành ra người người mê nhìn hoa chỉ thấy hoa thôi, người ngộ thì thấy trong hoa có rác. Không sợ rác gì hết, tại vì biết rằng nếu không có rác thì làm gì có hoa. Thành ra khi cầm hoa trong tay thì biết ơn rác chớ không hẳn mình phải thù rác vì vậy hoa không thù rác đâu, chỉ có mình u mê cho nên mình mới thù rác.
Chúng ta nhìn Bụt và nghĩ rằng Bụt với Ma là hai kẻ thù không nhìn mặt nhau. Đó là ta nhìn bằng con mắt phàm tục. Nếu ta nhìn bằng con mắt tĩnh táo thì ta có thể thấy Bụt và Ma Vương có thể nắm tay nhau đi thiền hành rất là thân ái. Ngày xưa tôi dã viết một bài về cuộc viếng thăm Bụt và Ma Vương. Hồi đóThầy A Nan chưa giỏi nên không muốn Bụt gặp Ma nhưng bây giờ Thầy giỏi rồi. Trong khi Đại Thừa có nói “Niết bàn sinh tử thị không hoa” có nghĩa là Niết-bàn và Sinh Tử là hoa đốm giữa hư không. Trước hết là chính tại ý niệm sai của mình cho là hai cái đó chống bán nhau. Thật ra mình phải sử dụng chất liệu Sinh Tử để làm Niết-bàn và Niết-bàn làm chất liệu để làm ra Sinh Tử. Cũng giống như hoa và rác. Nếu thấy được như vậy thì mình không còn sợ hãi nữa.
Trong tâm thức của mình có chứa đựng những hạt giống của Niết-bàn và Sinh tử mà mình chỉ có thể tìm Niết-bàn trong Sinh Tử thôi. Có một Thiền sư Việt Nam thời Lý vào một hôm tới hỏi Thầy: “Thầy dạy con phải tìm cảnh giới không sinh tử thì con phải đi tìm cảnh giới không sinh tử ở đâu?” vị Thiền sư trả lời: “Con đi tìm ngay ở chỗ sinh tử đó”. Tại vì anh trốn chạy rác nên không bao giờ anh tìm ra hoa cả. Thành ra những cái buồn của mình có thể tạo ra sự an lạc hạnh phúc của mình. Trong cái buồn cái giận cái khổ của mình, nếu mình biết sử dụng ba cái chìa khóa mà Bụt trao cho là Vô thường, Vô ngã, Niết-bàn để mở cửa thực tại thì mình sẽ tìm thấy Niết-bàn, vững chải, an ổn ngay trong cái sợ hãi sầu khổ của mình. Vì vậy trong Đại Thừa có câu: Phiền não tức Bồ đề. Thường thường phiền não là ngược lại với Bồ đề, là u mê tham giận, kiêu căng. Bồ đề là sự giác ngộ nhưng chính trong cái phiền não mình mới thấy được sự giác ngộ an lạc vững chãi. Cho nên khi nói rằng tôi đi tìm an lạc đi tìm Niết-bàn thì phải diệt cho hết những phiền não của tôi đi, như vậy là người chưa thấy được nguyên tắc của sự hành đạo. Như vậy là sai, giống như khi người làm vườn vừa có cọng rác nào là đem vứt đi hết tới khi muốn có phân để trồng trọt thì không còn gì. Như vậy người đó không biết làm vườn. Khi biết được điều đó thì mình không còn sợ phiền não nữa.
Hạt giống có nhiều loại, sinh tử và Niết-bàn, mê, ngộ và khổ, vui. Chúng ta có hạt giống mê, nhưng cũng có hạt giống ngộ. Nếu chúng ta ham tưới những hạt giống mê thì nó sẽ mọc lên tươi tốt. Sống trong đời ai mà không có đi qua những cơn mê. Nhưng những cơn mê đó được nuôi dưỡng hoài bởi sự tươi tắn. Nhưng mê hoài rồi thì cũng đến giai đoạn tỉnh. Tỉnh tức là có Ngộ. Sở dĩ ta tỉnh được vì có những hạt giống ngộ trong mình. Theo giáo lý Duy Biểu thì ta có hạt giống ngộ, ta đừng có lo. Đôi khi những đau khổ do cơn mê nó giúp ta tiếp xúc được những hạt giống của ngộ nên chúng ta tỉnh dậy, mê và ngộ không hẳn là kẻ thù. Thương thường đại mê là đại ngộ. Càng mê nhiều thì ngộ càng lớn. Đại nghi thì đại ngộ, đại mê thì đại tỉnh. Chúng ta có hạt giống của mê ngộ và khổ vui. Hạt giống, đủ thứ khổ và đủ thứ hạt giống của niềm vui. Những vui thật sâu sắc, những vui thật cạn cợt che dẫu những nỗi khổ lâu dài.
Danh xưng và tướng trạng. Danh xưng là một loại hạt giống. Tướng trạng là một loại khác. Danh xưng là tên gọi của một sự vật. Trong tâm thức, tàng thức của ta, ta có đủ thứ hạt giống về tên gọi, ví dụ ta có một hạt giống của tên gọi cái này là núi cái kia là sông người tỉnh là Bụt, người mê là Ma, người như vầy thì gọi là cha, người kia là mẹ. Đó là những hạt giống về danh xưng. Đối với loại người những hạt giống về danh xưng rất quan trọng. Mỗi hạt giống về danh xưng có thể làm phát khởi trong ta những hạt giống khác. Gọi là hạt giống về tướng trạng. Danh xưng có gốc từ nhĩ thức (audio) và tướng trạng có gốc từ nhãn thức, hình ảnh (visue). Bản dịch tiếng Anh bài kệ thứ hai There are different varieties of seeds: seeds of samsara of nirvana, of delusion, of elightenment, seeds of sufferings, of happiness, seeds of names and words, seeds of perceptions (images).
Ví dụ trong tàng thức chúng ta đang có hạt giống vừa danh xưng Paris mà cũng vừa tướng trạng Paris. Vừa có người động đến chữ Paris tức là họ động đến hạt giống danh xưng Paris thì ta có thêm về hình ảnh Paris như là tháp Eiffel, nhà thờ Notre Dame. Đó là hạt giống tướng trạng ta đang nằm trong tàng thức ta đầy đủ hết. Đứng về phương diện Phật học thì chúng ta có rất nhiều hạt giống về danh từ Phật giáo. Có những danh thì rỗng nó không có nội dung, có những danh từ ta không hiểu hay hiểu lầm ví dụ như danh từ thức đó, ta chưa hiểu hoặc hiểu sai lầm về thức. Những tướng trạng những đối tượng của tri giác nó nằm trong tâm thức của chúng ta có thể là nó rất xa vời sự thực, có thể nó hoàn toàn do sự tạo dựng, tưởng tượng của tâm thức ta. Ta không biết được không thấy được ranh giới giữa cái sự thực và những điều mà mình tiếp nhận bằng tri giác. Ví dụ khi ta nói đến danh từ Bụt đó hiện ra từ một hạt giống mà ta tiếp nhận khi nhìn một tượng Bụt lúc còn bé thơ, những điều mà ta đọc được trong sách về Bụt. Nội dung của tri giác chúng ta về Bụt nó được cất chứa trong tâm chúng ta. Nhưng mà bụt đó có phải là Bụt tự thân hay là hình ảnh của Bụt mà chúng ta có trong tâm và chúng ta gán cho đó là Bụt của thực tại. Ta vì hồi ba bốn tuổi chúng ta có một ý niệm về Bụt. Nhưng ta đi vào chùa được nghe dạy về Bụt thì cái ý niệm ngây thơ về Bụt biến mất và cho ta có ý niệm rõ rệt hơn về Bụt nhưng chưa chắc ý niệm đó đã phù hợp của thực tại. Cho nên đối tượng của những tri giác của chúng ta mà ta cất giữ trong tâm, có tính chất “Thức biến” tạo tác của tâm thức nhiều hơn sự thật. Ví dụ người mà ta thương, đối tượng của sự thương yêu của chúng ta có thể là nó không giống với cái người trong thực tại. Chúng ta tạo ra những hình ảnh này hình ảnh nọ về người đó, chúng ta lý tưởng hóa người đó, chúng ta thấy người đó đẹp hơn là trong thực tại.
Khi mà ta ghét cũng vậy, ta tạo tác ra một hình ảnh về người ta ghét trong tâm ta. Nghe đến tên người đó thì sân si đùng đùng nổi dậy và những hình ảnh dễ ghét của người đó nổi dậy. Nhưng mà cái hình ảnh đó chưa chắc nó đã phù hợp với thực tại. Thành ra ta cất chứa tất cả cái hình ảnh sai đó. Có thể ta đang sống trong một vũ trụ đầy dẫy những sai lầm ảo tưỏng vậy mà chúng ta cứ tưởng rằng chúng ta đang tiếp xúc thật sự với thế giới, với loài người và những loài khác. Có thể là chúng ta rất thương kính Bụt và ta nghĩ rằng khi gặp Bụt ta sẽ lạy xuống liền và đi theo Ngài không rời một giây phút nào hết để nghe Ngài thuyết pháp dạy dỗ… nhưng có hể rằng ngày mai chúng ta đi gặp bụt ở Sainte Foy thì chúng ta không thèm nhìn, tại vì chúng ta có một hình ảnh về Bụt khác. Mà Bụt chúng ta gợp ở Sainte Foy có thể là Bụt thật nhưng chúng ta không thèm để ý tới. Bụt nói câu gì chúng ta cũng cải lại, chúng ta nói ông nói tầm bậy tầm bạ, tại vì mình có trong tâm những hạt giống tri giác sai lầm mà mình chắc mẩm là đúng. Ví dụ như mình chắc mẩm là Bụt thì có hào quang, mặc áo vàng khoát y thật đẹp. Tới chừng khi gặp Bụt mặc áo sơ mi thì mình đâu có chịu. Bụt gì mà mặc áo sơ mi? Bụt gì mà không có hào quang? Vì vậy cho nên ta nên biết cái tri giác, cái tưởng của chúng ta đưa vào trong tâm thức chúng ta nhiều hạt giống về danh xưng về tướng trạng và chúng ta sống với thế giới đó. Và chính vì cái thế giới mà chúng ta tự tạo tác bằng những ảo giác đó, nó ngăn che không cho ta tiếp xúc với sự thật khi sự thật đến gần.
Ngay chính nhận thức của ta đối với chúng ta cũng vậy. Ta có thể có một tri giác rất sai lầm về chính ta. Có khi ta thù ghét ta, ta khinh miệt ta mà thật ra có thể ta không như vậy. Ta có những khả năng những tài ba những yếu tố mà ta vì những trở lực ngăn che nào đó ta không tiếp xúc được. Vì vậy, thường thường là ta có một cái hình ảnh rất méo mó về chính ta, rất méo mó về người và về sự vật. Này nhé ta thử xem xét vại cái kho tàng thức của ta xem có bao nhiêu danh từ (danh xưng) và hình ảnh (tướng trạng) về người và về vật. Ví dụ như ông Bush. Ta biết gì về ông Bush? Chúng ta có những tri giác trực tiếp nào về ông Bush? Những cái thương cái ghét của chúng ta về ông Bush có rất nhiều. Đôi khi cũng cái thương ghét đó căn cứ tren một ý niệm do sách báo do tuyên truyền mà có. Ta nghe nói về Lý Thường Kiệt, về Tổng thống Miterand, về núi Alpes, núi Pyrenées, núi Phú Sĩ, về sông Cửu Long. Tất cả những thứ đó đều có danh xưng và tướng trạng cả; Và hễ chúng ta có danh xưng thì chúng ta tin chắc rằng chúng ta có cái thực tại mà cái danh xưng đó đại diện. Đó là điều rất sai lầm. Hễ chúng ta có cái danh xưng cất ở trong lòng ta thì ta có ảo tưởng rằng ta có sự thật mà danh xưng đó đại diện. Tổng thống Bush à? Tôi biết quá mà! Thật ra thì ta không biết gì hết về ông Bush hết. Mình chỉ có tên ông Bush và một vài cái người nói qua nói lại về ông Bush. Bụt cũng có thể như vậy. Có thể mình chưa biết được về Bụt ra sao cả. Mình chỉ nghe nói và có danh từ về Bụt và dựng lên một hình ảnh về Bụt khác xa thực tại về Bụt. Đối với chính mình cũng vậy, chính mình cũng chưa biết thấu đáo về mình. Cho nên tập quán sát về cái tưởng, về cái tri giác của mình rất quan trọng. Nước Pháp là một danh xưng. Danh từ nước Pháp làm hiện trong ta một quốc gia, hình ảnh của quốc gia đó, tri giác về quốc gia đó, đứng về phương diện lãnh thổ, dân chúng tính tình phong tục tập quán, kinh tế có thể ta không biết nhiều nhưng tại vì chúng ta có đặt chân trên nước Pháp nên ta có cảm tưởng ta biết nước Pháp là cái gì. Có thể cái biết đó rất sai lầm, rất xa lạ với cái thực tại nước Pháp.
Ngay chính nước Việt Nam cũng vậy, có thể cái tri giác của chúng ta về nước Việt Nam rất là sai lạc nhưng ta cứ chắc là ta biết nước Việt Nam là gì. Tướng là hình ảnh về thực tại mà hình ảnh đó ta nắm được là do tưởng, tức là tri giác (chủ thể). Tướng của núi Phú Sĩ, núi Pyrénées núi Hy Ma. Tướng là tri giác và tướng là đối tượng của tri giác. Perceptino, tri giác ta có hai phần chủ thể và đối tượng. Đối tượng sai lạc thì chủ thể cũng sai lạc. Đối tượng méo mó thì chủ thể cũng méo mó. Khi mà ta có tri giác sai lầm thì nó tạo không biết bao nhiêu vấn đề. Chúng ta hiểu lầm, nhận lầm. Tất cả những đau khổ của chúng ta đều phát sanh ra từ những nhận thức sai lầm của chúng ta về sự vật chúng ta có được bao nhiêu đâu, chúng ta chỉ có một số danh từ về cái đó. Còn hình ảnh mà ta có về cái đó thì quá xa lạ và sai lạc với sự thật về cái đó. Vậy mà chúng ta cứ cương quyết là chúng ta biết rõ rồi, biết thật rồi, chúng ta nắm vững về sự thật đó, là chúng ta biết tất cả rồi! Tất cả những đau khổ của chúng ta đều từ chỗ đó mà phát sinh, chỗ tri giác (Wrong Perceptions). Tri giác sai lầm gây ra cảm thọ khổ đau. Người đó ghét mình, không có thèm nhìn mình, người đó không công nhận sự có mặt của mình, người đó muốn tiêu diệt mình. Toàn là những tạo tác cường điệu của tâm thức mà thôi. Cho nên Thiền tập là để đi tới những tri giác chính xác hơn. Và nếu tin chắc tri giác mình là đúng thì rất nguy hiểm. Luôn luôn phải khiêm nhường tự hỏi: tri giác tôi đã chính xác chưa? Nó gần với sự thật được mấy mươi phần trăm? Luôn luôn phải cho mình một không gian để cho tri giác mình được sâu sắc vững chãi hơn.
Có hai loại tướng: tướng riêng là tự tướng và tướng chung là cộng tướng. Có nhiều loại tướng. Có khi ta nói đến sáu tướng có khi nói đến bốn tướng và có khi nói đến hai tướng. Hôm nay ta chỉ nói đến hai tướng thôi: tự tướng và cộng tướng. Ví dụ khi ta nói ngựa. Ngựa là cộng tướng. Bất cứ con ngựa nào cũng đều được gọi là ngựa. Nhưng khi người ta nói đến con Kiền Trắc hoặc Xích Thố thì nó đặc biệt ta không coi là cộng tướng được vi chỉ có một con ngựa tên Kiền Trắc hay Xích Thố thôi. Trong triết học Trung Hoa người ta nói ngựa trắng không phải là ngựa. Tại vì có nhiều loài ngựa: ngựa ô, ngựa đen, ngựa vàng… ngựa trắng là một loại ngựa quá đặc biệt nó không phải là ngựa nữa. Ngựa là cộng tướng nhưng ngựa trắng đã có tính cách tự tướng rồi. Chúng ta sẽ đi từ từ vào ý niệm về tướng chung và tướng riêng trong những bài sau.
Hạt giống của thân, tâm
Giới địa và thế gian
Tất cả được cất chứa
Nên thức gọi là tàng
Trong bài kệ thứ hai ta thấy hạt giống của sinh tử niết bàn, của mê ngộ của khổ vui, hạt giống của danh xưng và hạt giống của tri giác. Bây giờ đây có hạt giống của thân, của tâm, của giới, của địa, và của thế gian… hạt giống của thân có nghĩa là cái sắc thân của chúng ta cũng có hạt giống ở trong thức của ta. Tại vì chúng ta đã nghe những cảm thọ, tri giác và tâm hành phát hiện trong tâm chúng ta đều có gốc rễ, có hạt giống trong thức cả.
Ba múi quít thọ, tưởng và hành có hạt giống trong múi quít thứ tư là thức. Ta sẽ nói đến một sự thực không chấp nhận hơn. Đó là cái thân thể của chúng ta cũng được phát hiện ra từ trong thức của chúng ta. (Căn thân phát hiện từ chủng tử bản hữu). Nếu ta nghĩ là thức xuất phát căn thân này là thức thứ sáu hay thức thứ bảy thì ta khó chấp nhận. Nhưng nếu căn thân xuất phát từ nhất thiết chủng thức thì hiểu được. Tại vì tàng thức nó chứa được tất cả những hạt giống trong đó có hạt giống của thân. Trong tàng thức gồm có tàng thức của cá nhân và tàng thức của tập thể. Ta nhớ lại ngày xưa ở Việt Nam khi các cô cậu bắt đầu mặc áo dài ngắn ngủn gọi là mini áo dài thì có nhiều người đi Pháp mới về thấy áo dài sao mà xấu quá, tại vì khi họ lìa quê hương áo dài rất tha thướt. Anh ta không chấp nhận được áo dài có thể ngắn củn cởn như vậy được. Nhưng ở Việt Nam một thời gian thì anh ta thấy áo dài ngắn rất đẹp. Đó là tâm thức cộng đồng đã ảnh hưởng đến anh ta. Nó tạo ra cái mốt. Mốt là sản phẩm của tâm thức cộng đồng. Có những cái là sản phẩm của tâm thức cá nhân và sau đó có thể trở thành sản phẩm tâm thức cộng đồng. Có nhiều cái mà nhìn kỹ thì mình thấy đó là sản phẩm của tâm thức cộng đồng. Ví dụ một nền dân chủ, một thể chế quốc hội lập hiến hay một phong trào nào đó. Ai cũng muốn làm cái đó cả. Tất cả những cái đó đều do tâm thức cộng đồng tạo nên. Có những lúc trên thế giới nước nào cũng muốn chứng tỏ mình thương những người thuyền nhân. Thành ra hồi đó giúp đỡ thuyền nhân là một phong trào nhưng rồi sau đó bỏ rơi luôn. Phong trào đó là tâm thức cộng đồng của một số nhà báo nhà nhân bản nhà chính trị xướng xuất. Nhiều cái như thị trường chứng khoán, giá đồng đô la, giá đồng Mark, giá vàng… cũng là những tạo tác của tâm thức cộng đồng một số người trong giới tài phiệt. Có tàng thức của cá nhân của cộng đồng. Ta biết rằng ý niệm về đẹp, về xấu, về vui, về khổ của chúng ta không phải là cá nhân đâu. Nó phản chiếu ý niệm về đẹp về xấu, về vui về khổ của nhiều người. Nếu tất cả đều nói cái đó không đẹp thì tự nhiên ta thấy cái đó không còn đẹp nữa. Kỳ lạ vậy đó. Nếu ai cũng nói cái đó đẹp quá mà thì tự nhiên ta thấy đẹp. Vì vậy cho nên cái núi Phú Sĩ, cái thân thể chúng ta cũng do tâm thức biểu hiện. Tất cả đều nằm trong tàng thức cộng đồng. Điều này ban đầu chúng ta không hiểu được nhưng từ từ rồi chúng ta sẽ hiểu, tức là không những cảm thọ tri giác những tâm hành của chúng ta đều có hạt giống ở tàng thức mà sắc cũng có hạt giống ở tàng thức nữa. Sắc thân của ta cũng do tâm thức nó biểu hiện ra rồi sự mạnh khỏe hay sự đau yếu của cái thân của ta cũng do tâm thức nó tạo ra luôn. Nếu chúng ta không thấy được hôm nay thì sau này học và tu từ từ chúng ta sẽ thấy.
Giới là cõi mà ta ở cũng do tâm thức của ta biểu hiện luôn. Giới (dhatu) thì ta nói có ba giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Có ba cõi: cõi dục là cõi ham muốn (realm of desire). Đi ra siêu thị thì biết liền. Cõi của chúng ta ở đó. Cõi sắc (the realm of form) là cõi vật chất nhưng nhẹ nhang tinh tế hơn cõi dục. Còn cõi vô sắc (the realm of no form) là cõi trong đó vật chất (matters) không có mặt nhưng chỉ có những cái không phải vật chất như năng lượng. Năng lượng cũng là một thứ vật chất khá loãng. Nhiều nhà khoa học nói vật chất là năng lượng cô đọng lại và năng lượng là vật chất pha loãng ra. Thành ra cõi vô sắc là cõi có nhiều năng lượng hơn. Cái tâm của mình, cái giận của mình, cái khổ của mình cũng là năng lượng. Vậy thì ba cõi đang bốc cháy là từ tâm thức của chúng ta biểu hiện. Chúng ta nên nghĩ là từ tâm thức cộng đồng chúng sanh biểu hiện. Ai tạo ra cái cõi lửa cháy. Ta chứ ai nữa? Cứ nghe nói Làng Hồng thôi, Làng Hồng mà thanh tịnh, an lạc, vui vẻ, có hạnh phúc là do ai tạo ra? Do cái tâm thức cộng đồng của chúng ta. Mà nếu Làng Hồng bốc cháy là do ai tạo ra? Cũng ta tạo ra phải không? Làng Hồng là một cái địa nho nhỏ, do tâm thức cộng đồng của người cư trú tại Làng tạo ra. Cái địa đó dễ chịu hay khó chịu đều do tâm thức cộng đồng tạo ra hết, không có gì khó hiểu hết. “Tam giới bất an do như hỏa trạch”, nghĩa ba cõi nó không yên giống như nhà lửa là vì tâm thức của ta có nhiều lửa quá.
Có tất cả mười địa (bumi) tức là những cõi mà các vị Bồ-tát đi ngăng qua. Cõi đầu là hoan hỉ địa. Nếu mới bước vào Làng Hồng là nghe vui khỏe liền, nếu Làng Hồng mà tạo được không khí như vậy thì có thể gọi là hoan hỉ địa, sơ địa của các vị Bồ-tát. Còn tới Làng Hồng mà thấy ai cũng quạu hết thì làng chưa phải là hoan hỉ địa. Chúng ta sẽ từ từ đi ngang qua những địa như là viễn hành địa, pháp vân địa trong đó có rất nhiều hạnh phúc, rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi. Và những địa đó từ đâu mà phát hiện. Nếu chúng ta tu học giỏi, có nhiều an lạc thì chúng ta phát hiện ra những địa rất dễ thương. Những cái tịnh độ nho nhỏ mà chúng ta lập ra để tu học và để làm hạnh phúc cho người là những cái địa nho nhỏ phát sanh từ tâm thức của chúng ta. Ví dụ như có năm bảy người tu học có kết quả, có an lạc, có hạnh phúc, đi ra lập một trung tâm tu học, đem cái hạnh phúc của mình biểu hiện ra thành khung cảnh cho người khác tới để tham dự. Thì đó là tạo một cái địa. Và cái địa ấy từ tâm mà ra. Giới, địa và thế gian. Thế gian đây gồm có hai loại: tình thế gian và khí thế gian. Tình thế gian là thế giới của loài hữu tình. Nghĩa là loài người, cầm thú và cây cỏ tất cả loài đó thuộc về thế gian của loài hữu tình. Xã hội loài người, xã hội các loài khác cũng đều do tâm thức cộng đồng từ A lại gia mà biểu hiện. Khí thế gian là khung cảnh mà trong đó các loài hữu tình đang sinh sống: núi, sông, không khí, trái đất, lớp ozone. Những cái đó cũng là sáng tạo phẩm của tàng thức. Tàng thức duy trì hết những cái đó. Nó biểu hiện ra và nó duy trì lại. Tất cả đều vận hành theo cái quy luật nhịp nhàng, tất cả đều phát hiện từ thức A lại gia gọi là tàng. Trong tác phẩm Bát Thức Quy Cũ của thầy Huyền Trang (The Standard Verses of the Eight Vijnana) mà ta gọi tắt là quy cũ, tức là những bài tụng mẫu mực về tám thức, thì Thầy Huyền Trang ở thế kỷ thứ bảy có dùng câu: thọ huân trì chủng căn thân khí, (thầy đã dịch xong những bài học mẫu mực về tám thức, dịch rất hay nhưng vì quá cô đọng nên đọc lên nếu không cắt nghĩa sẽ không hiểu). Câu của Thầy Huyền Trang về tám thức có nghĩa là thức này nó tiếp nhận và nó huân tập những kinh nghiệm, những tri giác của mình đi vào từ cái giác quan nghe, thấy, ngửi, nếm, xúc… tất cả những cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc, đó đều bị tiếp nhận bởi tàng thức để tạo nên những hạt giống gọi là thọ huân. Huân là ướp, cất, chứa. Ví dụ sáng nay ta đi học một bài Duy thức, tất cả những cái đó đi vào tàng thức ta và như vậy gọi là thọ huân. Thọ huân là tiếp nhận và huân tập. Trì chủng tức là duy trì bảo tồn lại nó không không mất nữa. Đôi khi mình nghĩ là mình quên nhưng nó không mất. Căn tức là những cơ quan cảm giác như mắt tai mũi lưỡi thân ý. Ta có sáu căn, thân là một căn trong sáu căn, khí là khí thế gian, thiên nhiên vạn vật. Tất cả những cái này: căn thân, khí thiên nhiên, con người các loại tất cả đều được tiếp nhận và duy trì bởi các thức này. Công việc của thức này là tiếp nhận, duy trì hạt giống, duy trì căn thân và khí.
Ở tâm lý học ngoài đời ta chỉ học về ba múi quít ở giữa nhiều hơn. Nhưng khi ta học về thức là ta học từ cái căn bản của nó là thức thứ tám. Có những cái mà ta chưa bao giờ ta được học ở tâm lý học ngoài đời. Tác dụng đầu tiên của thức là giữ gìn, duy trì. Mà duy trì ở đây là duy trì cả vũ trụ, duy trì cả thế giới duy trì hết tất cả những hạt giống.
Có hạt giống sẵn có.
Có hạt giống trao truyền
Huân tập thời thơ ấu
Cả thời gian thai nghén
Cố nhiên là trong tàng thức chúng ta có tất cả các loại hạt giống. Nhưng ở đây có sự phân biệt, có hai loại hạt giống: Hạt giống sẵn có (Bản hữu chủng tử). Bản hữu và vốn có gốc sẵn có từ thời vô thỉ, trong tuệ giác Bụt dạy, không có cái giây phút bắt đầu. Luôn luôn nói về vô thỉ và vô chung. Điều này hơi khó hiểu cho chúng ta sống trong một khung cảnh thời gian và không gian và khung cảnh khuôn khổ đó do trí óc mình tạo ra. Mình tạo ra một khung thời gian và không gian, cái gì cũng được đặt vào khung đó. Mình đòi hỏi phải có cái lúc bắt đầu và lúc chấm dứt mình đòi tất cả nằm trong khung thời gian mà tâm thức mình tạo tác và đóng khung lại. Nhưng Bụt nói rất rõ thời gian và không gian là những sáng tạo của tâm thức. Thật ra thời gian và không gian làm ra nhau. Mãi đến khi Einstein trình bày thời gian và không gian không là hai thực thể riêng biệt, không có thời gian thì không có không gian, hai thứ này làm ra nhau, chừng đó khoa học mới bắt đầu thấy chút xíu nào những trình bày của Duy Thức.
Trong Duy Thức học thời gian, không gian và tâm thưc là một. Trong đạo Bụt ngày xưa những yếu tố tạo ra sự sống tạo ra vũ trụ vạn vật gồm có: Địa, thủy, hỏa, phong, không, thời, phương, thức. Tức là đất, nước, gió, lữa, không gian, thời gian, phương hướng và tâm thức. Tám cái nhưng trong mỗi cái nó chứa đựng bảy cái kia. Vì vậy khi bác Học Einstenin nói rằng thời gian và không gian không phải là những thực thể độc lập. Thời gian nó làm bằng không gian, không gian nó làm bằng thời gian, thì nhà bác học thấy được điều đó nhưng nhà bác học không nói rõ ra là tâm thức cũng làm ra yếu tố thời gian và không gian. Thành ra khi mình bắt buộc vũ trụ có một cái bắt đầu tức là mình giả định không gian và thời gian là những thực tại khách quan. Nhưng khi mình học Duy Thức thì mình biết rằng không gian, thời gian không là những thực tại khách quan. Nó là những sáng tạo phẩm của thức. Vì vậy cho nên thuyết tương đối của khoa học bây giờ giúp ta hiểu giáo lý vô thỉ vô chung của đạo Bụt. Tại vì khoa học nó có giá trị thực nghiệm nên nó có uy tín và người ta tin nhưng mà đạo học cũng là một khoa học thực nghiệm, nhưng thực nghiệm đây không phải là ở phần vật thể mà về tâm linh nên cũng đáng tin lắm. Có điều người dạy đạo phải thật sự sống kinh nghiệm tâm linh đó thì mới soi thấu được ngọn ngành của tâm thức một cách rất thực nghiệm. Các nhà khoa học mới họ cũng nương vào tuệ giác của đạo học để đi tìm. Vì vậy hạt giống gọi là hạt giống sẵn có nó không có cái bắt đầu. Nó có sẵn từ vô thỉ tức là lúc không có bắt đầu. Nếu mình nói nó có sẵn từ lúc bắt đầu thì mình kẹt vào ý niệm về thời gian. Tôi thường nói nó có sẵn từ lúc không bắt đầu Non beginning. Nói như thế giúp người ta vượt thoát ý niệm về bắt đầu. Một hồi sẽ thấm. Cho nên nói rằng những hạt giống đó không phải chỉ là kết quả của kinh nghiệm, tại vì kinh nghiệm là kinh nghiệm trong sự sống hằng ngày và những hạt giống đó được gieo trồng vào tâm thức của mình trong đời sống hằng ngày thì đối tượng những kinh nghiệm chỉ là một phần nhỏ của tổng số hạt giống trong ta thôi. Trong ta có những hạt giống có sẵn rồi. Có những hạt giống được trao truyền cho chúng ta. Ai trao truyền? Có thể là ông bà ta trao truyền lại. Điều này có tính cách khoa học. Những tài ba của ta, những đức hạnh của chúng ta, những khả năng, những vụng về, những nỗi khổ đau của chúng ta đều có thể là những hạt giống của ông bà trao truyền lại. Chúng ta có những hạt giống của Lý Thường Kiệt của Trần Hưng Đạo nhưng cũng của Trần Ích Tắc. Chúng ta có đủ hạt giống hết, hạnh phúc, đau khổ, tài ba, vụng về. Điều này nhờ Di Truyền Học người ta mới thấy được thôi chứ Bụt nói từ lâu rồi, đôi khi nuôi chuột đến chín mười thế hệ thì tới thế hệ thứ 7, con chuột mới thể hiện đặc tính của ông bà chúng. Di truyền học cho ta thấy những đặc tính trong thân và trong tâm của chúng ta nó bắt nguồn từ những hạt giống từ ông bà xa xưa, tổ tiên cách chúng ta đến nhiều đời. Vì vậy khi chúng ta giải thoát an lạc thì ông bà tổ tiên cũng được giải thoát. Ta thực tập không riêng cho ta mà cho tổ tiên nữa. Chúng ta thực tập cho không những bao thế hệ tổ tiên mà chúng ta còn thực tập cho bao thế hệ con cháu tương lai đang có sẵn trong ta. Giống như cây chanh tuy chưa có hoa có trái, nhưng hoa chanh và trái chanh nó có sẵn trong cây chanh rồi, chỉ còn chờ thời gian biểu hiện thôi. Thì các thế hệ con cháu cũng sẵn có trong chúng ta rồi, nếu ta tu học có an lạc giải thoát thì con cháu ta tuy chưa biểu hiện nhưng cũng đã thấm nhuần công trình tu học là kết quả an lạc giải thoát. Cho nên một người tu học thì cả tổ tiên dòng họ và ngay cả con cháu đều hưởng thụ ngay trong giờ phút hiện tại. Đó là cái nhìn của đạo Bụt. Cho nên mình nắm lấy một ngày mà tu học cho an lạc cho tinh tấn cho hạnh phúc thì trong hai mươi bốn giờ đó ta mang lại an lạc hạnh phúc cho cả tổ tiên và cho cả con cháu chúng ta. Tại vì một ngày nó chứa cả thời gian vô cùng và không gian vô tận mà nếu mình để cho một ngày trôi qua oan uổng thì tội nghiệp cho tổ tiên và cho con cháu. Trong chúng ta biết bao nhiêu người phí phạm để cho những ngày tháng trôi qua oan uổng.
Có hạt giống sẵn có, có hạt giống trao truyền, huân tập thời thơ ấu, cả thời gian thai nghén.
Những hạt giống trao truyền đó là Tân huân chủng tử. Huân là ướp và gieo vào, tân là mới. Chúng ta phân biệt ra hai loại chủng tử: chủng tử sẵn có và chủng tử mới trao truyền và chúng ta có ý niệm rằng chủng tử mới trao truyền đó chúng ta không có sẵn, chúng ta chỉ mới có khi vừa được huân vào thôi. Điều này không được đúng lắm. Có thể nói những hạt giống mà ta tiếp nhận từ sự trao truyền mà nó đã có sẵn trong ta nhưng nó không được quan trọng, không được to lớn. Trao tuyền ở đây là trao truyền làm cho hạt giống đó trở nên quan trọng. Thí dụ như quý vị không biết hát và nghĩ rằng mình không có hạt giống của sự ca hát, nhưng khi về Làng Hồng một thời gian thì chẳng những hát được mà còn thích hát nữa. Hạt giống hát nơi mình, mình tưởng nó là hạt giống tân huân, mới trao truyền, kỳ thực sự thật không hẳn như vậy. Mình đã có hạt giống biết hát sẵn có trong mình nhưng hạt giống đó rất yếu và hàng năm năm, mười năm, hàng trăm năm rồi chưa được tưới tẩm và phát triển. Bây giờ vừa được tăng thượng duyên, trợ duyên, những điều kiện thuận lợi, những hạt giống đó được tưới tẩm và mình bổng thích ca hát và mình nghĩ đó là những hạt giống thuần túy tân huân trao truyền. Nhưng sự thật có phần bản hữu của nó nhưng vì nhờ những điều kiện thuận lợi, những tăng thượng duyên giúp mình phát triển những hạt giống sẵn có trong mình. Điều này phù hợp với những điều Bụt dạy về cái giác tính của mình. Mình tới với thầy, với bạn, với giáo lý giác ngộ và giải thoát và nghĩ rằng những giáo lý giác ngộ và giải thoát là những điều tân huân mới trao truyền. Nhưng kỳ thật mình cũng có những hạt giống đó trong bản thân bản tâm và Thầy hay bạn chỉ giúp mình những điều kiện để trở về tiếp xúc với những hạt giống đó và làm cho những hạt giống đó lớn mạnh. Quý vị nhớ câu Bụt nói ngày Ngài mới giác ngộ không? Lạ thay! Tất cả mọi chúng sanh đều có khả năng tỉnh thức, giác ngộ, hạnh phúc, an lạc, nhưng mà họ cứ để mình trôi lăn trong chốn khổ đau từ kiếp nầy sang kiếp khác. Nói như vậy có nghĩa là những hạt giống đó có sẵn trong mình hết rồi, bây giờ Bụt và Tăng đoàn chỉ giúp mình trở về chạm vào, tiếp xúc với những hạt giống đó. Bụt và giáo đoàn chỉ làm vai trò tăng thượng duyên, tức là những điều kiện thuận lợi. Vì vậy khi phân biệt hai loại hạt giống cũng là một loại tạm thời phân biệt để hiểu và để tu thôi, chứ hai loại loại hạt giống đó không chống đối cách biệt nhau nhiều đâu.
Huân tập thời ấu thơ. Cả thời gian thai nghén. Khi mình mới bắt đầu được thai nghén trong bụng mẹ và lúc đó thức alaya của mình bắt đầu hoạt động. Thức alaya này đã bắt đầu tiếp nhận những hạt giống hạnh phúc và khổ đau và người trao truyền cho mình những hạt giống đó chính là mẹ mình hay cha mình. Khi một thiếu phụ có mang một em bé, thiếu phụ đó hàng ngày đang gieo vào trong tàng thức của mình và vào tàng thức của em bé: ăn cho hai người, uống cho hai người, gieo trồng trong tàng thức của hai người. Cho nên một bà mẹ tương lai phải hết sức cẩn thận. Tất cả những gì mình ăn uống, buồn vui, khổ đau lo lắng mình đều có tác dụng gieo vào những hạt giống trong tàng thức của em bé và của mình. Cho nên bà mẹ tương lai phải tu nhiều lắm: khi đi đứng nằm ngồi, ăn uống, xem ti vi, nói chuyện phải hết sức cẩn thận. Tại vì những gì mình tiếp nhận bằng tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý đều là những con sông đưa những hạt giống vào tàng thức của em bé và của mình. Cho nên phải tu thật nhiều. Phải nuôi con không phải từ lúc con còn thơ mà nuôi từ lúc con chưa sinh. Phải có những cái trường huấn luyện các bà mẹ trong tương lai, các thiếu phụ mà thấy rằng mình bắt đầu có em bé là những người phải đi học những phương pháp đi đứng nằm ngồi, giữ gìn cảm thọ, những tri giác của mình, tiếp xử với người khác vì đó là những nghệ thuật rất cao để tránh gieo vào tàng thức của con những hạt giống xấu và chỉ để gieo vào những hạt giống hạnh phúc an lạc mà thôi. Giá dụ mình có mang em bé mà mình đi đứng nằm ngồi đều có chánh niệm, thở và mĩm cười, buông nhẹ những bực bội lo âu chỉ tụng kinh Pháp Hoa thì em bé có thể hưởng ngay những hạt giống như vậy. Còn người cha tương lai cũng phải ý thức thật nhiều mới được. Tại vì những cử chỉ đối với vợ mình đều gieo vào tàng thức em bé, một câu nói nặng, một cái nhìn trách móc, một cử chỉ lạnh nhạt, hay một không khí bực bội, ngột ngạt trong gia đình do cha mẹ em bé gây nên là em bé lãnh đủ. Thành ra ta cần phải ý thức rằng tàng thức em bé rất mong manh và tàng thức em bé có mặt đó và nó tiếp nhận tất cả những gì xảy ra trong đời sống gia đình. Ta nên nhớ khi ta còn bé ta học gì, làm gì cũng dễ nhớ, cũng tiếp nhận, những kỷ niệm ấu thơ rất sâu đậm nhưng khi ta lớn tuổi, học trước quên sau. Thì cũng vậy, những cử chỉ thô bạo thiếu chánh niệm của người lớn thường nặng nề gieo vào tâm em bé khi bé còn ngây thơ. Những hành động hay lời nói nặng nề đó ảnh hưởng suốt cả cuộc đời của em. Nếu chúng ta đem áp dụng những giáo lý về huân tập thì ta có thể tổ chức sự dạy dỗ những lớp tu học cho những người làm cha làm mẹ trong tương lai biết đường. Tại vì họ không biết rằng khổ đau của một người bắt đầu từ những hạt giống khổ đau ngay từ khi mình còn trứng nước, ngay từ khi mình mới tượng hình trong bụng mẹ. Nếu thế hệ tương lai mà giỏi thì các vị có thể có những trường huấn luyện như thế giúp cho nhiều ông bà, cha mẹ tương lai biết cách cư xử với nhau, giữ gìn trong tinh thần chánh niệm để sau này em bé không khổ. Tại vì đưa ra đời một sinh mạng mới là chuyện rất lớn. Có những người không tu, không học gì hết mà sinh con quá nhiều, mỗi năm đưa ra đời một đứa. Rốt cuộc có mười đứa mười hai đứa. Hai vợ chồng rất đau khổ vì mình ngu dốt không biết cách tu học giữ gìn cho nhau, trách móc giận dỗi nhau dài dài. Rồi thì mình gieo vào trong tâm thức mười mấy đứa con đó toàn là những hạt giống khổ đau. Thế là lớn lên dĩ nhiên những người con đó khổ đau và làm khổ đau những người khác. Vì vậy cho nên thế hệ tương lai nếu giỏi thì phải viết sách, tổ chức những khóa tu tập dạy dỗ cho các bậc làm cha mẹ tương lai. tại vì họ thấy cái tầm quan trọng của sự nuôi con và nuôi con ở đây là một nghệ thuật huân tập. Ngăn ngừa những hạt giống khổ đau được gieo vào trong con và tìm cách gieo vào tâm địa của con những hạt giống hạnh phúc. Có hạt giống trao truyền, huân tập thời thơ ấu, cả thời gian thai nghén. Khi em bé sinh ra em chưa hiểu tiếng người nhưng câu chuyện giữa cha mẹ, em bé chưa hiểu nhưng điều đó không có nghĩa em bé không tiếp nhận những hạt giống. Khi cha mẹ nói chuyện với nhau, những tình cảm của mình được biểu hiện trong ngôn ngữ. Nói một câu mà cái giọng nói chuyên chở sự bực bội, tuy em bé không hiểu lời nói nhưng nó tiếp nhận ngay sự bực bội của câu nói. Nếu trong nhà mà không khí thanh tịnh an lạc thì em bé được hưởng. Còn nếu trong nhà không khí nặng nề thì em bé cũng lãnh đủ. Đừng nghĩ, còn ở trong thai hay sinh ra mà còn nhỏ thì không biết gì. em bé là một dĩa cứng của máy điện tử đang còn mới tinh. Thành ra cái gì thoáng qua trong không khí là nói cảm nậhn và thu vào hết. Có những em bé bệnh ngay từ nhỏ tại vì cha mẹ làm khổ nhau khi nó còn ở trong bụng mẹ và cha mẹ tiếp tục làm khổ nhau khi em bé ra đời nên chúng nó sợ người lớn lắm. Ở Tây phương người ta thường để em bé trong một phòng riêng cho nó nhiều đồ chơi. Nếu người ta quan sát thì họ thấy có một số các em bé rất tự nhiên vui chơi khi vắng mặt người lớn trong phòng riêng ấy, nhưng khi chúng vừa nghe tiếng mở cửa người lớn bước vào thì nó im lặng và mềm ra như một cọng bún, tại vì nó sợ người lớn. Tâm lý học Tây phương gọi đó là những em bé mềm (les enfants mous) tại vì người lớn đã làm cho nó đau khỏi ngay từ trong bụng mẹ. Người lớn có cúi xuóng ôm, nựng nịu nó cũng không phản ứng gì hết vì những hạt giống sợ người lớn quá rồi. Khi người lớn vừa mở cửa đi ra nó lại cười giỡn chơi lại với những trái banh màu của nó. Khổ đau đó bắt đầu từ trứng nước.
Từ gia đình bè bạn
Nơi xã hội học đường
Hạt giống nào cũng có
Tính cách riêng và chung
Những hạt giống được trao truyền từ ông bà, cha mẹ, từ trong đời sống gia đình, từ học đường, từ bè bạn. Nếu các bạn mình chơi thân mà khổ đau trồi sụt lên xuống thì mình cũng khổ đau trồi sụt lên xuống. Không phải mình bắt chước nhưng nó đi vào hồi nào không hay, rồi mình cũng có những hành xử thái độ đó có khi mình không kiểm soát được vì nó âm thầm huân vào. Cho nên người ta mới nói phải chọn bạn mà chơi là vậy. Khi mình ngồi nói chuyện với một người có nhiều tị hiềm, sợ hãi, ganh tị thì sau khi nói chuyện chúng bốn mươi phút với người đó tàng thức của mình dã khác rồi tại vì đã tiếp nhận những hạt giống khổ đau của người đó khi những hạt giống đó biểu hiện, có khi mình chỉ cần ngồi nói chuyện với một người đó chừng một giờ đồng hồ thì tâm thức mình bị tê liệt, mình không muốn làm ăn gì nữa cả. Tại vì tâm thức của mình tiếp nhận từ những người đó những hạt giống bi quan, khổ đau. Đôi khi mình rất thương người đó thấy người đó rất tội nghiệp. Nhưng nếu mình không tu, không biết giữ chánh niệm trong thời gian mình ngồi nói chuyện với người đó mình chia sẽ những khổ đau của người đó mình tiếp nhận hết những hạt giống khổ đau của người kia đem vào tưới tẩm những hạt giống khổ đau của chính mình và nghe mệt nhoài. Cho nên mình phải chánh niệm để biết cái tình trạng sức khỏe của tâm thức mình. Mình cẩn thận không nên thân cận nhiều, nói chuyện nhiều với người có quá nhiều khổ đau có quá nhiều hạt giống bất an, nhìn cái gì cũng toàn màu đen. Không phải là mình kỳ thị họ nhưng nếu mà mình biết mình đang yếu thì mình phải chọn bạn mà chơi, để mình có thể tiếp nhận được những hạt giống an lành và hạnh phúc. Rồi khi mình khá vững rồi thì khi đó mình có khả năng tiếp xúc với người khổ đau và có thể giúp họ, nhưng luôn phải biết cái sức khỏe cái khả năng của mình ranh giới giữa khả năng thu nhận và chuyển hóa những đau khổ của người kia và sự bị tràn ngập mới những hạt giống bất an của người kia. Luôn luôn trong một khóa tu một hai tháng cho những người rất khổ đau và mình là Giáo Thọ thì mình phải có bổn phận lắng nghe nỗi khổ của họ, phải hiểu để giúp họ. Cố nhiên là cá vị Giáo thọ phải mở lòng mình ra để tiếp xúc với người mình muốn giúp. Nhưng nếu các vị Giáo thọ không tu thì các vị lãnh đủ. Tại vì những gì mình nghe có thể đánh động những đau khổ của mình và những đau khổ của mình có thể lớn lên nếu trong thời gian mình tiếp xúc với người kia mình không chánh niệm. Cũng như là một bác sĩ về tâm thần cần tiếp xúc với bệnh nhân tâm thần của mình. Cố nhiên bác sĩ phải mở lòng ra để hiểu nỗi khổ của bệnh nhân mà tìm cách giúp cho đúng mức. Nhưng nếu người bác sĩ đó không mạnh khỏe về tinh thần thì trong những phút tiếp xúc đó người bác sĩ bị tưới những hạt giống đau khổ vào bản thân mình. Một Giáo thọ phải luôn luôn tu tập để tưới tẩm vào tâm thức mình những yếu tố của an lạc trị liệu. Khi mạnh thì mình mới giúp được. Cái khả năng giúp người của vị giáo thọ luôn luôn giới hạn. không phải mình là Giáo thọ, là Thầy mà mình có thể làm quá sức mình được. Nếu mỗi ngày mình chỉ nghe và chỉ tiếp xúc với những khổ đau thì mình cũng sụm luôn, cho nên mỗi ngày mình chỉ có quyền tiếp xúc với người khổ mà mình muốn giúp trong giới hạn nào đó thôi. Đừng nên làm quá giới hạn mình.
Còn bác sĩ tâm lý cũng vậy. Khi mình tiếp xúc với một người, nghe người đó, hiểu người đó rồi giúp người đó rồi thì mình có thể tiếp xúc với người thứ hai. Nhưng mà khi mình biết rằng công việc ngay hôm nay đã đủ thì mình phải chấm dứt sự tiếp xúc. Không nên làm quá khả năng của mình, mình đừng có rán đừng nói cuộc đời khổ quá, tôi không có quyền nghỉ ngơi được vì nếu mình không nghỉ ngơi thì mình sẽ bị chuyển theo con đường kia. Sau khi giúp một người khổ rồi thì mình phải có dịp đi thiền hành, tạo cơ hội và thì giờ để tiếp xúc cái tươi mát và an lạc trong mình và xung quanh thì mới có đủ sức khỏe và khả năng để tiếp tục công việc giúp người. Dù chưa là Giáo thọ, trong chúng ta ai cũng có dịp lắng nghe giúp đỡ một người bạn đau khổ. Sau khi lắng nghe niềm đau của bạn mình rồi phải tập giữ một khoảng cách với người đó, đi thiền hành riêng hay làm những công tác khác một mình thật chánh niệm, cho mình có thời gian và không gian tiếp xúc với cái gì tươi mát trong mình và chung quanh mình thì mình mới khỏe ra, sáng suốt hơn, có sức khỏe tâm linh, đủ khả năng giúp bạn mình hữu hiệu được. Nếu mình chỉ có lòng tốt muốn giúp người thôi mà không biết sức khỏe của tâm thức mình, cứ tiếp tục thân cận, tiếp tục đưa vào tâm mình toàn là hạt giống bi quan, trách móc bất an của người kia thì mình cũng sẽ bị tràn ngập những hạt giống sân hận, bất an, và mình cũng sẽ từ từ trở nên người ưa trách móc sân hận theo người kia. Mình phải biết tu cho mình đưa vào thân tâm mình những yếu tố của sự an lạc, mạnh khỏe thì mới nắm vững nghệ thuật giúp người lâu bền được.
Một bác sĩ tâm thần hay một Giáo thọ cũng vậy, không thể nói vì có nhiều người bệnh tâm thần quá tôi không từ chối giúp họ được, tôi không có quyền nghỉ ngơi. Nếu để cho thân mình mệt mỏi, tâm mình bị tràn ngập những hạt giống khổ đau của cuộc đời và từ từ đánh mất mình thì mình không giúp được ai. Thầy cũng thế, mỗi khi tiếp xúc hai hoặc ba người để giúp họ tìm con đường thoát khổ thì tôi cũng phải đi thiền hành hay đi chơi với con nít một thời gian còn nếu không thì mình biết rằng mình không đi xa được.
Những hạt giống từ gia đình trao truyền, từ bè bạn trao tuyền, nơi xã hội, nơi học đường. Mình tiếp xúc với xã hội cố nhiên là tiếp xúc với đủ hạng người, đủ thứ đau khổ và xã hội cũng gieo vào rất nhiều thứ ghạt giống. Gia đình là xã hội đầu tiên, học đường cũng là một xã hội. Tại vì Thầy và bạn cũng gieo nhiều hạt giống trong mình. Nhìn sâu vào tàng thức mình sẽ thấy rất nhiều hạt giống nào là gia đình, bạn bè, Thầy và những người ngoài xã hội. Tất cả những hạt giống đó, hạt nào cũng có hai tính cách: riêng (biệt tướng) và chung (cộng tướng). Nó có nghĩa là mỗi hạt giống vừa có tính cách cá nhân và cộng đồng. Hạt giống của mình đó nhưng mà nó mang theo cái con người, hạnh phúc, cái khổ đau của người mà đã trao truyền cho mình, người đã ảnh hưởng tới mình. Vì vậy hạt giống đó tuy là riêng của mình nhưng là hạt giống chung của mình với người đó, với xã hội, với học đường, với tổ tiên. Bất cứ hạt giống nào cũng có hai tính chất cộng tướng và tự tướng cả. Ví dụ mình có một hạt giống tài năng, mình cắm hoa đẹp, khi chưa cắm hoa thì không ai thấy tài năng đó cả, nhưng khi cắm hoa rồi thì người ta thấy tài năng đó của mình. Hạt giống tài năng đó có thể là của ông bà tổ tiên, cũng có thể từ bạn bè từ học đường hay những sách ảnh nghệ thuật mình xem. Thành ra cái hạt giống tài năng đó vừa là của mình, vừa là của tổ tiên, của bạn bè, học đường, xã hội, hạt giống đó vừa là riêng mà vừa chung. Nhận thức mình về cái đẹp của một bức họa của một lối kiến trúc, của chiếc áo dài. Nhận thức đó phản chiếu cái quan niệm thẩm mỹ của mình mà đồng thời phản chiếu quan niệm của xã hội mình ông bà mình. Ví dụ dưa cải kho đối với mình rất ngon. Nhưng cái ngon của dưa cải kho đó vừa có tính cách riêng vừa chung. Tại vì ông bà mình ăn món đó nhiều đời rồi mình mới được huân tập cái chuyện ăn dưa cải kho rồi nên khi nói tới danh từ dưa cải kho thì mình thích. Nhưng với những người Tây phương ăn dưa cải kho vào họ không thấy ngon bởi vì ngon là ngon với ai. Còn trong khi đó những thứ phô mai rất đắc tiền mà người Tây phương rất thích nhưng người Việt Nam ăn vào là dội liền. Thành ra cái ngon cái dỡ, cái đẹp cái xấu còn tùy thuộc theo cái hạt giống, tùy thuộc theo cái tính chất riêng và chung của hạt giống.
Ví dụ như núi Phú Sĩ, ta có hạt giống núi Phú Sĩ. Cái danh ngôn về núi Phú Sĩ hay núi Pyrénés, nó có thể làm biểu hiện cái hình ảnh về núi Phú Sĩ, cái hạt giống, hình ảnh nhận thức hay tri giác về núi Phú Sĩ hay núi Pyrénés ở trong chúng ta nói là của ta, nó không giống của người khác. Nhưng cái nhận thức đó của chúng ta về núi Pyrénés hay núi Phú Sĩ nó chứa đựng cái nhận thức của người khác. Cũng như cái danh ngôn về Bụt có trong ta đồng thời ta cũng có một nhận thức mà hình ảnh về Bụt trong ta. Nhận thức trong ta là của ta nhưng đồng thời nói chịu ảnh hưởng những nhận thức khác của người khác về Bụt. Tại vì Thầy có nhận thức về Bụt bạn mình có nhận thức về Bụt, sách vở có nhận thức về Bụt chúng ta học, chúng ta đọc, chúng ta nghiên cứu, chúng ta đưa những nhận thức ấy vào trong nhận thức của ta. Vì vậy cho nên hạt giống về Bụt trong ta vừa có tính cách riêng mà cũng vừa có tính cách chung. Hạt giống nó như vậy thì tâm thức cũng vậy. Mỗi hạt giống đều có tự tướng và cộng tướng đều có tính cách chung và riêng thì tâm thức tức là dòng sông của các hạt giống nó cũng có tình cách chung và riêng. Vì vậy ta có danh từ tâm thức cộng đồng (collective cosciousness) và tâm thức cá nhân. Tâm thức cá nhân nó chứa đựng tâm thức cộng đồng.
Trong tâm lý học Tây phương hiện đại người ta đã nói đến tâm thức cộng đồng và tâm thức cá nhân rồi. Trong ngành tâm lý trị liệu Tây phương dù nó còn trẻ chỉ độ một trăm tuổi thôi nhưng người ta đã nó tới tâm thức cộng đồng. Tây phương có nhà tâm lý học Karl Jung đã nói tới tâm thức cộng đồng. Hiện nay có nhiều nhà tâm lý trị liệu đã đi theo đường lối chữa trị của Jung. Nhà tâm lý học này đã từng có cơ hội tiếp xúc với đạo Bụt Tây Tạng. Trước đó Tây phương có nàh tâm lý học Freud đầu tiên khai thác về vô thức nó tương đương với thức alaya tàng thức. Cố nhiên Jung bị ảnh hưởng triết thuyết của Ferud nhưng Jung đã đi xa hơn và đã nói đến tâm thức cộng đồng. Nghĩa là những tình cảm những ninh nghiệm khổ đau hạnh phúc trong tâm mình có phản chiếu tâm thức cộng đồng và vì vậy cho nên mình có thể thấy trước rằng tâm lý học đạo bụt sẽ tiếp tục ảnh hưởng tâm lý học Tây phương. Và lề lối chữa trị các bệnh tâm lý bây giờ và sau này nó sẽ từ từ chịu ảnh hưởng sâu sắc của Duy Biểu Học. Cho nên những khóa tu của ta mở cho các nhà tâm lý trị liệu Tây phương luôn luôn rất là đông đảo. Ban đầu họ tưởng là họ đến để học hỏi lý thuyết nhưng tới khóa tu thì đâu chỉ học về lý thuyết, phải thực tập hơi thở, thiền tọa, thiền hành cho nên sau đó họ được thấm nhuần sự thực tập như khi chúng ta nói tới tâm thức cộng đồng chúng ta hãy nghĩ đến một thời gian thôi, nghĩa là tâm thức cộng đồng này là của những người cùng sống trong cùng thời đại của chúng ta. Ta chịu ảnh hưởng và ảnh hưởng trở lại họ ý niệm về hạnh phúc, về thành công, về đau khổ về thế giới, về dân chủ. Tất cả những cái đó trong ta đều chịu ảnh hưởng rất sâu đậm với cái nhìn cái thấy của những người khác trong xã hội. Nhưng trong đạo Bụt ta thấy trong suốt chiều dài của thời gian. Nghĩa là những hạt giống mà chúng ta có trong tâm ta nó có tính cách cộng đồng không những của những người sống trong cùng một thời gian mà của những người sống trong thời gian khác nữa. Có nghĩa là một hạt giống trong tâm thức của ta nó chứa đựng kinh nghiệm, ý niệm nhận thức của tổ tiên ông bà nữa.
Vì vậy cho nên ở đây, điều mà ta có thể nhấn mạnh là tâm thức cộng đồng không phải chỉ là tâm thức cộng đồng trong giới hạn không gian. Không những là tánh cách chung của tâm thức ta nó phản chiếu cái nghe, cái thấy, cái nhìn, cái hiểu của người đương thời mà là của cả những thế hệ quá khứ. Cho nên cái danh từ chủng tử bản hữu rất quan trọng. Chúng ta không những mang theo xã hội của chúng ta mà cả những xã hội của các thế hệ tổ tiên chúng ta trong chúng ta nữa. Cho nên phạm vi kinh nghiệm chỉ là một phần rất nhỏ trong duy biểu mà thôi. Tại vì phạm vi của kinh nghiệm chỉ là phạm vi của hạt giống trao truyền (tâm huân), còn trong Duy biểu thì ngoài hạt thì ngoài hạt giống trao truyền còn hạt giống sẵn có. Hạt giống bản hữu và vì vậy cho nên Duy biểu học nó vượt ra khỏi biên giới chủ nghĩa Duy nghiệm. Tại vì tổ tiên của chúng ta đã kinh nghiệm và những kinh nghiệm của tổ tiên chúng ta đã trao tuyền lại cho chúng ta trong những hạt giống mà trước khi sinh ra đời ta đã có sẵn. Khi ta mới đậu thai trong bụng mẹ, ta nhỏ xíu như một hột mè hay nhỏ hơn nữa. Nhưng đừng khinh thường. Trong cái hạt nhỏ đó có chứa cả vô lượng biên kinh nghiệm của bao thế hệ đi trước. Cái vô cùng nhỏ nó chứa đựng cái vô cùng lớn. Thấy được cái điều đó rồi, thấy được chúng sinh thai nhỏ hơn hạt cát mà chứa đựng thời gian vô cùng và không gian vô biên rồi thì mình mới thấy rằng cái việc giữ gìn một thai nhi nó quan trọng biết mấy. Khi mà ý tưởng phá thai nó xuất hiện thì ta biết rằng vũ trụ rung rinh, bởi vì cái hạt cát kia chứa đựng bao nhiêu thế hệ tổ tiên trong đó và chứa đựng bao nhiêu thế hệ tương lai. Vậy mà trong thời đại chúng ta chuyện phá thai là chuyện cơm bữa, xảy ra quá dễ dàng và không cần quán chiếu sâu sắc.