Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Di Giáo Giảng Giải (PDF)

28/10/202513:00(Xem: 321)
Kinh Di Giáo Giảng Giải (PDF)
Kinh Di Giáo Giảng Giải
Kinh Di Giao Giang Giai-Bia

LỜI ĐẦU SÁCH

    Kinh Di Giáo là một bộ kinh mà đại đa số người xuất gia đều phải học. Chúng tôi dùng chữ “Phải” trong tiếng Anh gọi là “must be”, chớ không phải “have to”. Động từ must be nó có nghĩa là bắt buộc phải làm. Còn động từ “have to” cũng có nghĩa là phải, nhưng không có bắt buộc, có thể làm mà cũng có thể không làm. Nói thế để thấy rằng, bản kinh này bắt buộc người xuất gia nào cũng phải học. Ngoài bộ kinh này ra, người xuất gia còn phải học Kinh Tứ Thập Nhị Chương và bộ Luận Qui Sơn Cảnh Sách. Vì tánh cách quan trọng của những bộ kinh này nên trong thiền môn thường gọi là Phật Tổ Tam Kinh. Riêng kinh này, ngoài những lời ân cần nhắc nhở dặn dò tha thiết của đức Phật, nó còn mang một ý nghĩa rất sâu sắc và thực tế. Đọc bản kinh này, ta mới  thấy được tấm lòng từ bi cao cả vô lượng vô biên của đức Phật.

   Thông thường, chúng ta hay nói là Phật nhập Niết bàn. Nói thế không hẳn là sai, nhưng xét kỹ cũng chưa hẳn là đúng lắm. Nếu nói đúng thì chỉ mới đúng có một phần thôi. Vì sao? Vì đúng, là chỉ đứng về phương diện ứng thân Phật ra đời ở Ấn Độ mà nói. Còn không đúng là vì sau ngày Phật thành đạo dưới cội cây Tất bát la (Bồ đề) là Ngài đã vào Niết bàn rồi. Vì Niết bàn có rất nhiều nghĩa: Diệt, Diệt độ, Diệt tịch, Bất sanh, Vô vi, An lạc, Giải thoát... Thế thì, có lúc nào mà Phật không ở trong Niết bàn, đâu phải đợi đến 80 tuổi Ngài đến xứ Kushinagar mới gọi là nhập Niết bàn. Chẳng qua, Ngài chọn nơi đó để xả bỏ báo thân của Ngài đó thôi. Vì thế, hiện tượng Phật nhập Niết bàn ta có thể hiểu đó là theo Thế giới tất đàn, Tích môn hay Tục đế. Còn đứng về phương diện Đệ nhứt nghĩa tất đàn, Bản môn hay Chơn đế thì không thể nói như thế. Vì có lúc nào mà Phật không an trú trong Niết bàn? 

    Bộ Kinh Di Giáo này, có thể coi như là những lời trăn trối phó chúc sau cùng của đức Phật. Ngài khuyến nhắc dặn dò các Thầy Tỳ kheo, sau khi Ngài nhập diệt phải lấy giới luật làm Thầy. Đồng thời, nếu có gì chưa rõ thông suốt những lời Ngài dạy thì nên trình bày những điều nghi vấn để Ngài giải thích.

   Kinh này xuất hiện ở Trung Quốc vào thời đại Diêu Tần (384 – 417), và bản kinh do Ngài Cưu ma la thập dịch. Căn cứ vào bản dịch đó mà có nhiều nhà nghiên cứu và chú giải làm cho quyển kinh ngày càng phong phú phổ cập và được mọi người quan tâm chú trọng nhiều hơn.

    Riêng bản thân chúng tôi, những năm còn ở Phật học viện, tôi rất may mắn được học qua bộ kinh này. Vì trong chương trình của những năm học cấp Sơ đẳng, đã được quý Thầy trong Ban Giảng Huấn giảng dạy chúng tôi qua các bộ Kinh Luận căn bản: Luận Qui Sơn Cảnh Sách, Kinh Tứ Thập Nhị Chương và Kinh Di Giáo v.v... Nay chúng tôi thể theo sự yêu cầu của học chúng Tổ Đình Phước Huệ mà chúng tôi mạo muội cố gắng biên soạn để đem ra giúp cho quý vị đó.

   Vẫn biết, khả năng kiến thức Phật pháp của chúng tôi vẫn còn giới hạn nông cạn, kinh nghiệm tu tập vẫn còn non kém, nhưng vì muốn thể hiện tinh thần “Lục Hòa” Phật dạy, gọi là “Kiến hòa đồng giải”, đem chỗ sở học hiểu biết nông cạn của mình được bao nhiêu thì giúp bấy nhiêu. Đồng thời, khi biên soạn cũng là cơ hội tốt để chúng tôi dồi mài nghiên tầm học hỏi thêm. Như vậy, thiết nghĩ cũng là một việc làm vừa hữu ích cho mình và cũng đem lại sự lợi lạc cho người khác. Do nghĩ thế, nên chúng tôi không ngần ngại cố gắng biên soạn làm tài liệu hướng dẫn cho học chúng. 

   Trong khi biên soạn, chắc chắn chúng tôi không sao tránh khỏi những điều lỗi lầm sai sót, nếu có, kính mong các bậc Cụ nhãn Cao minh Thiện hữu tri thức xa gần, hoan hỷ niệm tình thứ lỗi và chỉ giáo cho. Soạn giả xin hết lòng tri ân đa tạ. 

   Nhân đây, chúng tôi cũng xin thành kính tri ân Thượng tọa Thích Minh Từ đã giúp cho phần phát họa hình bìa. Thượng tọa Thích Phước Viên đã giúp cho phần kỹ thuật trình bày và in ấn. Chúng tôi cũng không quên kính cảm ơn Sư Cô Phước An và Thức xoa ma na Vạn Tường đã tận tâm giúp cho phần sửa bản in. Đồng thời, chúng tôi cũng xin chân thành tri ân chư Tôn Đức Tăng, Ni, quý liên hữu trong hai đạo tràng: Phước Huệ và Quang Minh, cũng như quý Phật tử xa gần đã phát tâm hỷ cúng tịnh tài góp phần ấn tống quyển kinh này. Chúng tôi xin hết lòng tùy hỷ tán thán công đức của toàn thể liệt quý vị.

   Nguyện đem công đức pháp thí này hồi hướng về cho pháp giới chúng sanh đồng trọn thành Phật đạo.

   Kính nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho chư Tôn liệt vị thân tâm thường lạc, vạn sự hanh thông, tùy tâm mãn nguyện.

Khởi soạn ngày 9/5/2025
Pháp Lạc Thất
Kính ghi
Tỳ kheo Thích Phước Thái
pdf-download
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com