Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984)

19/04/202305:22(Xem: 2217)
Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984)

ht thich tri thu

LƯỢC SỬ

HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ
(1909-1984)




Hòa Thượng húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, hiệu Trí Thủ. Hòa Thượng sinh giờ Hợi ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu tức ngày 1 tháng 11 năm 1909. Xuất thân từ một dòng tộc nối đời sùng mộ Phật pháp. Hòa Thượng thuộc thế hệ thứ tám của họ Nguyễn, họ khai canh và khai khẩn làng Trung Kiên, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Dòng tộc này từ thế hệ thứ ba có Thiền Sư Đạo Minh – Phổ Tịnh trụ trì kế tổ Tổ đình Báo Quốc – Huế, kiến lập Sắc Tứ Linh Quang Tự tại thôn nhà (làng Trung Kiên, Triệu Phong, Quảng Trị) vào năm Gia Long nguyên niên (1802). Đời thứ tư có Hòa Thượng Nhất Định – Tánh Thiên khai sơn Tổ đình Từ Hiếu. Thế hệ thứ sáu Hòa Thượng Trừng Nhã, tự Chí Thanh khai sơn chùa Giác Lâm. Thế hệ thứ bảy Hòa Thượng Ngộ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ khai sơn chùa Hải Đức. Đồng hàng thứ tám có Hòa Thượng Tâm Lượng, hiệu Diệu Hoằng trùng hưng Diệu Đế quốc tự.

Thân phụ ngài húy Văn Minh, pháp danh Trừng Khiết, tự Diệu Quang, hiệu Hưng Nghĩa. Thừa tiếp gia phong, theo hạnh tu bán thế tục gia, lập am thất Phổ Tế tại vùng đồi phía Nam kinh thành Huế, quy ngưỡng Phật pháp. Thân mẫu tục danh Lê Thị Nậy, tự Chiểu, người làng Cu Hoan, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ngài là con trai trưởng, gia đình có hai em, một trai là Nguyễn Văn Khâm và một gái là Nguyễn Thị Vân.

Từ tấm bé, ngài đã theo đòi nghiên bút với Hán tự, chữ viết văn học thời này. Lên chín là khá làu thông việc đọc và viết các bài kinh nhật tụng. Ảnh hưởng đạo phong của các bậc tôn túc thân tộc, vốn ươm sẵn cốt tủy bồ đề và túc duyên với Phật pháp, mười bốn tuổi ngài theo bác ruột học kinh ở chùa Hải Đức – Huế. Dòng tộc vốn kính ngưỡng cao danh và đạo vị của Thiền Sư Viên Thành nên năm mười bảy tuổi ngài được cho đầu sư thọ học với Thiền Sư tại chùa Tra Am (Trà Am), Huế. Ngài được Bổn Sư Viên Thành nhận làm đệ tử thứ tư, ban pháp danh Tâm Như, pháp tự Đạo Giám và giáo huấn nghiêm ngặt. Ba đại sư huynh ngộ pháp nổi danh của ngài là Trí Uyên, Trí Hiển và Trí Giải.

Đủ hai mươi tuổi, Bổn Sư cho vào giới đàn chùa Từ Vân ở Đà Nẵng thọ Cụ Túc giới, Hòa Thượng trúng tuyển Thủ Sa Di trong số 300 Giới Tử tại giới đàn này. Do đó, Bổn Sư Viên Thành đã cho pháp hiệu là Thích Trí Thủ với ý khen tặng chữ Thủ là đứng đầu.

Sau hai năm cư tang Bổn Sư tại chùa Tra Am, ngài cùng các pháp lữ vào chùa Thập Tháp, Bình Định tham học với Hòa Thượng Phước Huệ vào năm 23 tuổi.

Mãn học, ngài ngồi ghế Giáo Thọ, dạy trường Phật Học Phổ Thiên ở Đà nẵng. Vì chưa thỏa lòng cầu pháp, ngài trở ra Huế, cùng các vị đồng học ở Thập Tháp ngày trước, tổ chức Trường Phật Học tại chùa Tây Thiên, cung thỉnh Tăng Cang Giác Nhiên chùa Thiền Tôn làm Giám Đốc, Hòa Thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp làm Đốc Giáo dạy nội điển, đồng thời mời các Cư Sĩ như bác sĩ Lê Đình Thám dạy luận học, các cụ Nguyễn Khoa Toàn, Cao Xuân Huy… dạy các môn về văn hóa theo trình độ đại học. Ở trường này, ngài đã chính thức học chương trình đại học Phật Giáo cũng như văn hóa. Trong thời gian này, ngài đồng thời làm Giảng Sư cho Hội Phật Học Huế và dạy lớp trung đẳng Phật học cũng mở tại chùa Tây Thiên. Lúc này, ngài được hai mươi bảy tuổi. Khi Hội Phật Học mở trường tiểu học Phật Giáo tại chùa Báo Quốc, ngài đã kiêm dạy chúng Tăng Sinh ở đây.

Sau khi tốt nghiệp Trường Phật Học Tây Thiên, năm 29 tuổi (1938), ngài về trụ trì chùa tổ Ba La Mật, nhưng vẫn tiếp tục công việc giảng dạy cho Hội và các trường Phật học. Năm 1939, Ni Trường thành lập tại chùa Từ Đàm, Sơn Môn và Hội Phật Học giao ngài đặc trách việc đào tạo và điều hành Ni Trường này. Đây là cơ sở Ni Bộ đầu tiên được hình thành. Năm 1940, ngài trùng tu chùa tổ Ba La Mật. Năm 1941 mở Trường Sơn Môn Phật Học tại chùa Linh Quang Huế, chủ trương xây dựng kinh tế tự túc cho học chúng làm phương tiện tu trì trong giai đoạn kinh tế khủng hoảng thời bấy giờ. Ngài cũng chủ trương cho Học Tăng học văn hóa. Chính ngài đích thân dẫn Tăng Sinh đi thi tiểu học. Việc Tăng Sinh học văn hóa và thi lấy bằng cấp ngoài đời đã gây chấn động không ít trong số người chủ trương đào tạo Tăng Sinh theo nề nếp cũ.

Cách mạng tháng 8 dấy khởi, với cương vị Trị Sự Sơn Môn Thừa Thiên, ngài đã cùng nhiều vị lập Hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung Bộ, chủ trương tờ nguyệt san Giải Thoát làm cơ quan tuyên truyền. Ngài đắc cử Đại Biểu Hội Đồng Nhân Dân Thừa Thiên và được chính quyền mời đến Trung Bộ Phủ giao quyền sắp đặt lại chùa chiền, hủy bỏ chế độ chùa vua trước đó.

Năm 1948, ngài mở giới đàn tại chùa Báo Quốc, thân làm chủ đàn. Tại giới đàn này, ngài đã phục hồi ý nghĩa của Thất Chứng mà các giới trường xưa nay ít coi trọng. Trong ý nghĩa đó, ngài đã cung thỉnh các vị tôn túc giới đức cao dày làm Tôn Chứng để chứng minh cho sự truyền giới. Ngài cũng phân chia riêng Tăng, Ni hai bộ, Tăng độ cho Tăng, Ni độ cho Ni.

Năm 1951, với chức vụ Hội Trưởng Hội Việt Nam Phật Học Trung Phần, nằm trong hệ thống Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam có sáu tập đoàn Phật Giáo Bắc, Trung, Nam, đứng đầu là Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội Chủ, ngài đặt viên đá đầu tiên xây dựng Trường Tiểu Học Tư Thục Bồ Đề tại thành nội Huế. Đây là điểm mở đầu mạng lưới giáo dục Phật Giáo, đóng góp vào sự nghiệp hoạt động xã hội nhân sinh, xây dựng đất nước theo tinh thần nhập thế vốn có ở đạo Phật tự ngàn xưa. Mạng lưới giáo dục này từ đó liên tục phát triển với nhiều tỉnh thành khắp nước, ở cả ba cấp học. Đến năm 1975, đất nước hòa bình, mạng lưới lại hoàn toàn bị giải thể.

Năm 1952, ngài tạm nghỉ việc Hội, chuyên tâm giáo dục Học Tăng tại Phật Học Đường Báo Quốc. Cuối năm 1956, Phật Học Viện Trung Phần thành lập tại Nha Trang, ngài thân làm Giám Viện. Năm 1957, thấy đa số Tăng Ni của Phật Học Viện đã đến tuổi thọ giới, ngài cho mở giới đàn và thân làm đàn chủ.

Để ổn định kinh tế tự túc ở Phật Học Viện, ngài cho một số Tăng theo học cách thức chế biến và mở hãng sản xuất xì dầu (nước tương), hương đèn, dấm ăn, xà phòng, sử dụng sức lao động của nội chúng và Phật Tử chưa có việc làm gần chùa. Hầu hết Học Tăng của Phật Học Viện đều được ngài cho học cả hai chương trình nội điển và thế tục. Nhờ hướng đào tạo đó mà nơi đây đã là nguồn cung cấp liên tiếp những Chánh Đại Diện Giáo Hội các tỉnh, quận, hoặc giảng sư, trụ trì, hiệu trưởng, giám học các trường Bồ Đề, quản lý nhà in, nhà phát hành kinh sách… khắp miền Trung. Về sau, một số đã trở thành giảng sư, giáo sư đại học trong ngành văn hóa giáo dục phục vụ đạo và đời.

Năm 1960, ngài tạo mãi miếng vườn ở quận Gò Vấp, Sài Gòn, khai kiến tu viện Quảng Hương Già Lam. Năm 1962, ngài dẫn đầu phái đoàn Phật Giáo Việt Nam tại miền Nam tham dự đại lễ thế giới kỷ niệm năm 2500 đức Phật nhập Niết Bàn, tại vương quốc Lào.

Phật Đản năm 1963 khởi đầu thời pháp nạn, ngài về Huế cùng các vị lãnh đạo Phật Giáo hướng dẫn phong trào tranh đấu bảo vệ đạo pháp và dân tộc cho đến khi bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam giữ. Ngày 1.11.1963, chế độ bạo quyền sụp đổ. Qua cơn pháp nạn, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, được thành lập với 11 tập đoàn các hệ phái Phật Giáo toàn miền Nam và miền Bắc Việt Nam di cư, ngài được bổ nhiệm vào Ban Dự Thảo Hiến Chương Giáo Hội. Trong nhiệm kỳ đầu, ngài đảm nhiệm Tổng Vụ Hoằng Pháp. Công việc hoằng pháp và giáo dục Tăng Ni là mối quan tâm hàng đầu của ngài. Ở nhiệm vụ và vai trò này, ngài đã mở ba Đại Hội Hoằng Pháp: một tại Phật Học Viện Nha Trang, một tại chùa Xá Lợi, Sài gòn và một tại chùa Ấn Quang, (Chợ Lớn). Hoạt động và thành tích hoằng pháp đều tổng kết ghi lại trong ba tập kỷ yếu Đại Hội. Ngài còn thành lập Giảng Sư Đoàn và cắt cử mỗi vị phụ trách một tỉnh để diễn giảng Phật pháp cho tín đồ. Về sau, ngài còn thành lập Phật Học Viện Phổ Đà ở Đà Nẵng.

Năm 1964, ngài thân làm Viện Trưởng Viện Cao Đẳng Phật Giáo thành lập tại chùa Pháp Hội, Sài Gòn. Đây là tiền thân của Viện Đại Học Vạn Hạnh. Ngài còn chủ trương các tập san Tin Phật, Bát Nhã để gióng tiếng pháp cho đời. Năm 1965, sau khi ổn định mọi Phật sự, ngài hành hương chiêm bái các danh lam Phật tích ở Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Hồng Kông, Đài Loan, giao thiệp với nhiều danh tăng các nước.

Sau thời làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp, ngài lại được Giáo Hội trao giữ nhiệm vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tài chánh. Năm 1968, ngài được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chính thức cử hành lễ tấn phong Hòa Thượng. Cùng năm này, Hòa Thượng khai giới đàn tại Phật Học Viện Nha Trang. Năm 1969, ngài đại trùng tu Tổ đình Báo Quốc.

Từ Đại Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ 5 và 6, Hòa Thượng giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, đến năm 1975 kiêm Phụ Tá Đức Tăng Thống cho đến khi đất nước và đạo pháp chuyển qua giai đoạn lịch sử mới.

Năm 1976, Hòa Thượng lại tổ chức đại giới đàn Quảng Đức tại Tổ đình Ấn Quang, Chợ Lớn.

Trước chiều hướng mới và cũng thể theo ý hướng thống nhất mà xưa nay Phật Giáo Việt Nam vẫn thường ấp ủ. Sau hòa bình, trong cương vị Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng đã liên lạc chư tôn túc lãnh đạo các hệ phái và các tổ chức Phật Giáo khác trong cả nước, bàn bạc việc thống nhất Phật Giáo Việt Nam. Chính đây là nguyện vọng chung của toàn thể Tăng Ni và Phật Tử. Nguyện vọng này đã thể hiện cụ thể tại Đại Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ 7 họp tại chùa Ấn Quang, Chợ Lớn, ngày 23.1.1977 gồm 160 đại biểu của 54 đơn vị trong Giáo Hội mà Hòa Thượng nhân danh Viện Trưởng tân nhiệm đã ký thông bạch 7 điểm trong đó có điểm thứ sáu nguyên văn như sau: “Đại Hội cẩn ủy Giáo Hội Trung Ương tiếp tục vận động thống nhất Phật Giáo cả nước trong tinh thần đạo pháp và truyền thống dân tộc”.

Sau khi Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo thành hình, Hòa Thượng được bầu làm Trưởng Ban Vận Động và khi Hội Nghị Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 7.11.1981, Hòa Thượng đắc cử Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nhiệm kỳ đầu tiên.

Những năm cuối của báo thân, tuy tuổi già sức yếu, Hòa Thượng vẫn không xao lãng việc đạo, việc đời. Năm 1979 và 1982, dẫn đầu đoàn đại biểu Phật Giáo Việt Nam dự Đại Hội thứ 5 và thứ 6 của tổ chức Phật Giáo Châu Á Vì Hòa Bình tại Mông Cổ. Năm 1980 làm trưởng đoàn đại biểu tôn giáo Việt Nam dự hội nghị các nhà hoạt động tôn giáo thế giới vì hòa bình và giải trừ quân bị, chống chiến tranh hạt nhân tổ chức tại Nhật Bản. Năm 1981 làm trưởng đoàn đại biểu Phật Giáo Việt Nam dự hội nghị các nhà hoạt động tôn giáo thế giới vì hòa bình và sự sống, chống chiến tranh hạt nhân, tổ chức tại Liên Xô, cũng năm này kiến tạo thêm chánh điện tu viện Quảng Hương Già Lam. Năm 1983 dự hội nghị các vị đứng đầu Phật Giáo năm nước Châu Á, tổ chức tại Lào.

Dù bận rộn Phật sự suốt con đường hành đạo, Hòa Thượng vẫn dành thì giờ phiên dịch kinh, biên soạn sách để hoằng dương giáo hóa. Các tác phẩm chính gồm:

-Kinh Phổ Môn;
-Kinh Phổ Hiền;
-Mẹ Hiền Quán Âm;
-Kinh Vô Thường;
-Kinh A Di Đà;
-Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo;
-Kinh Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng;
-Kinh Bất Tăng Bất Giảm,
-Pháp Môn Tịnh Độ;
-Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa;
-Luật Tỳ kheo;
-Luật Bồ Tát;
-Luật Tứ Phần;
-Luận Khuyến Phát Bồ Đề Tâm;
-Nghi Thức Truyền Giới Bồ Tát Tại Gia và Thập Thiện;
-Nghi Thức Phật Đản;
-Nghi Thức Lễ Sám Buổi Khuya và các tác phẩm khác đã in hoặc chưa in.
 

Thâm hiểu và cảm thông nghiệp lực nhân sinh, lân mẫn chúng Tăng Ni không giữ trọn nguyện ước thanh quy giới luật phải hoàn tục sống đời thế gia, Hòa Thượng lập Chúng Dược Vương để quy tụ và sinh hoạt với số đông Phật Tử vốn đã có thời gian ươm mầm hộ trì chánh pháp này.

Mãn báo thân 76 tuổi đời, 56 hạ lạp. Vào lúc 21 giờ 30 ngày 2 tháng 4 năm 1984 (nhằm ngày 2 tháng 3 năm Giáp Tý) Hòa Thượng thị tịch tại Quảng Hương Già Lam, quàn tháp tại đây chờ di quan phụng Tổ tại tổ đình Báo Quốc theo nguyện ước lúc sinh tiền.


Trình bày và nhuận sắc từ TÂM NHƯ TRÍ THỦ






HT_Tri_Thu_6
KHƠI MỞ LỐI VỀ TÂM SỰ
VƠI ĐẦY NHỚ KẺ TRỒNG CÂY


Thời gian trôi nhanh, thật như bóng câu qua cửa sổ! Mới hôm nào Hòa thượng Thích Trí Thủ tiễn chân tôi ra sân bay đi Hà Nội để lo việc giảng dạy tại Trường Cao Cấp Phật học Cơ sở I tại chùa Quán Sứ, mà bây giờ đã gần đến ngay giỗ đầu của Hòa thượng.

Những ba năm, mỗi trang lịch dần dần đi vào dĩ vãng, nhưng lại vương đọng trong lòng nỗi ngậm ngùi, tiếc thương về một bóng hình, một bóng hình in đậm vào tâm hồn tôi và chắc chắn cũng khắc sâu vào tâm hồn của Tăng Ni Phật tử, cho dù trước giờ phút giã biệt thân tứ đại, trở về cõi an nhiên tự tại, Hòa thượng đã không để lại một lời.

Tôi nhớ rõ và thực sự xúc động cái sáng sớm mồng 3 tháng 3 năm Giáp Tý ấy lúc tôi đang ở tại chùa Quán Sứ, bỗng nhận được tin Hòa thượng đã vĩnh viễn ra đi xa, và xa tất cả chúng ta.

Từ đó đến giờ vẫn trong hình ảnh “nhạn quá trường giang, ảnh trầm hàn thủy, nhạn vô lưu tích chi ý, thủy vô lưu ảnh chi tâm. Nhưng thực ra, bóng nhạn vẫn chập chờn với dòng sông và dòng sông đang gợn sóng theo bóng nhạn. Cảnh sắc sắc không không, tháng ngày vẫn vơi đầy nhớ kẻ trồng cây.

Tuần qua, tôi lại nhận được thư của anh em ở các Phật học viện và pháp tử của Hòa thượng, ngỏ ý cùng nhau ghi lại một số tâm tình về Hòa thượng và đề nghị tôi cho lời mở đầu để gọi là chút truy niệm ngày giỗ đầu của Người đã khuất.

Thấy tinh thần của anh em tôi hết sức mừng, đây là điều đáng duy trì và phát huy. Tục ngữ ta có câu “ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Nhớ ơn và đền đáp công ơn đó cũng là quy luật đạo đức và đó cũng là hạnh nguyện lớn của hành giả, trên bước đường tu học.

Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là một trong muôn ngàn cách biểu lộ lòng biết ơn đối với những vị dày công đóng góp cho Đạo pháp, cho Dân tộc và ngay cả cho mỗi người chúng ta. Ta thường nghe: “ngôn ngữ đạo đoạn.” Lời sẽ hạn chế đạo, hình thức lắm khi cũng làm giảm thiểu ý nghĩa. Cảm quan ta, ngôn từ ta, sẽ lúng túng, vụng về trước tác phẩm của vạn vật, trước những công đức “hành vô hành hành”. Nhưng có điều tôi cũng đồng ý với anh em “bất ngôn , thùy tri kỷ chi”. Vì thế càng viết càng thấm, càng thấm càng cảm, càng cảm càng thương, mối giao cảm sẽ tỏa ngời ánh sáng, tương quan liên hệ mật thiết nước với nguồn, nguồn với nước, kẻ ăn trái, người trồng cây có thể tiệm cận nhau, gặp gỡ nhau trong không gian đích thực của dòng sinh diệt, diệt sinh vẫn chung về một nẻo.

Có điều đang làm tôi lo lắng, lễ giỗ đầu của Hòa thượng cũng đã gần kề, liệu chúng ta có thực hiện đuọc như ý nguyện? Dù sao những cánh chim nơi mọi phương trời vẫn nhớ về tổ ấm, ta đã, đang và sẽ mãi không quên một bóng hình đáng kính, đáng yêu.

Nhớ và tưởng niệm Hòa thượng trong niệm chân thành, với nén hương, với bình hoa đơn giản của nhà thiền dâng cúng Hòa thượng, ta mong ước như Hòa thượng từng ước mong: “sanh sanh dự Phật vi quyến thuộc , xứ xứ bồ đề kết thiện duyên”.

Ngàn xưa và ngàn sau trăng vẫn sáng, có câu “trăng lặn về non không trở lại”. Đường về xứ Phật vẫn tỏa ngát mùi sen. Xuất phát từ ý thức này , nơi cõi Lạc bang , Hòa thượng cũng nở nụ cười hoan hỷ chứng cho lòng thành của tất cả chúng ta.

NAM MÔ LẠC BANG GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT.

Huế , ngày Rằm thàng giêng năm Đinh Mão

Cảm niệm ,

Pháp lữ : Hòa thượng THÍCH THIỆN SIÊU





HT. Thich Tri Thu
Nhớ Thầy
Kính viếng cố Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ


THANH TỊNH

Cho dù Thầy đã đi xa
Quê hương xin giữ bao la bóng Thầy,
Sông Hương thấm mát bờ cây
Ba-la [1](1) rực chiếu áng mây tỏa hồng
Thầy ơi , Thầy có biết không ?
Đài sen lớn mãi giữ lòng nhân dân
Nhớ Thầy đã mở mùa xuân
Ngay trong mưa gió mùa đông tơi bời ,
Nhớ Thầy xưa cảnh chơi vơi
Gắn lòng đất nước với đời Từ bi
Nhớ thương Thầy đã ra đi
Rất xa mà lại sử thi rất gần
Sớm chiều còn vọng chuông ngân
Còn nghe tiếng nói vì dân của Thầy
12.11.1984

[1] Chùa Ba-la ở Huế , nơi Hòa thượng Thích Trí Thủ bước vào cuộc đời tu hành .




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/11/2024(Xem: 489)
Vào lúc 08h30 sáng nay, ngày 05/11/2024 (nhằm mồng 5 tháng 10 Giáp Thìn), môn đồ pháp quyến đã trang nghiêm tổ chức đại lễ Tưởng niệm huý nhật lần thứ 3 (2019-2024) Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Như Ý, huý Trừng Huệ, hiệu Ấn Bảo, nguyên Ủy viên Thường trực Hội đồng Chứng minh, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, khai sơn các chùa Linh Sơn Pháp Bảo (X.Vĩnh Ngọc, TP. Nha Trang), Linh Sơn Pháp Ấn (X. Suối Cát, Cam Lâm) và chùa Linh Sơn Phước Điền (X. Phước Đồng, TP. Nha Trang).
30/10/2024(Xem: 350)
Hòa thượng họ Trần, húy Văn Vinh, pháp danh Chơn Phú, tự Chánh Hữu, hiệu Thích Bích Lâm. Ngài sinh ngày 24 tháng 11 năm Giáp Tý (1924) tại phường Đệ Nhị- Nha Trang- Khánh Hòa, thân phụ là cụ Trần Đức Tựu, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Đủ. Sớm có nhân duyên với Phật pháp, Ngài được Hòa thượng Thích Phước Huệ, chùa Sắc Tứ Hải Đức cho quy y ngày 19 tháng 2 năm Nhâm Thân (1932), pháp danh Chơn Phú. Đến ngày 15 tháng 10 năm Kỷ Mão (1939), Ngài được Hòa thượng cho thế độ, phú pháp tự là Chánh Hữu, hiệu Bích Lâm. Năm 1945, Ngài thọ Tam đàn Cụ Túc tại chùa Sắc Tứ Hải Đức do Hòa thượng Phước Huệ tái thí, truyền trao giới pháp. Năm 1946 Ngài được đề cử trụ trì Tổ đình Nghĩa Phương.
22/10/2024(Xem: 476)
Hòa Thượng thế danh Lê Đình Nam, sinh năm Mậu Thân (1908) trong một gia đình trung nông, có truyền thống Nho học. ở làng Đại An, xã Kỳ Long (nay là xã Tam Thái, huyện Phú Ninh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Lê Văn Thơ, Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mới. Những năm đầu của thập niên 40, Ngài mới có nhân duyên gặp Phật Pháp và cũng trong thời gian này Ngài cùng với người anh là Lê Trọng Hoàng, em là Lê Tấn Phước cùng với Phật tử Nguyễn Quế phát tâm sáng lập chùa Đại An tại quê nhà vào năm 1944.
21/10/2024(Xem: 412)
Trong đêm dài vô minh, với nổi khổ vô biên của chúng sanh, Chư Phật, Chư Tổ sư, liệt vị Tăng-già đã truyền thắp cho nhau ngọn đèn vô tận để soi sáng cung ma, biến uế độ thành tịnh độ. Trong sự tiếp nối chí nguyện thù thắng đó, Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Đệ lục Tăng thống GHPGVNTN đã đem bi tâm phổ hóa quần sanh, thắp đèn tuệ dẫn người ra khỏi rừng tà, vận đức dũng giữ nền đạo thống, dựng đứng dậy những gì đã sụp đổ, mang lý tưởng Bồ-tát đạo dưỡng nuôi chánh tín trong lòng tứ chúng.
20/10/2024(Xem: 643)
Để tưởng niệm, ngày giáp năm của một bậc Tôn Túc mà suốt đời đã phụng hiến cho Đạo Pháp, dân tộc và nhân loại; đã hiến dâng con đường giáo dục tri thức cho nhiều thế hệ hôm nay và mai sau; đã phát nguyện cho công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh được sớm thành tựu viên mãn: “Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng.” Dù Hòa Thượng đã chích lý Tây quy, nhưng hình hài và âm hưởng vẫn luôn tồn tại sâu xa trong tâm khảm của mỗi chúng ta, hàng tứ chúng đệ tử Phật. Do vậy, Ban Tổ Chức, nhất tâm đảnh lễ và kính thỉnh chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni từ bi hoan hỷ quang lâm chứng minh, tham dự buổi lễ được tổ chức tại: Địa Điểm: Chùa Kim Quang tại số: 3119 Alta Arden Expy, Sacramento, CA 95825 Thời Gian: 10:00 sáng – 1:00 giờ chiều Chủ Nhật, ngày 17/11/2024 (nhằm ngày 17 tháng 10 năm Giáp Thìn) Số điện thoại liên lạc: Phó Trưởng BTC HT. Thích Từ Lực số: (510) 331-6899 (tiếng Việt) và phụ tá Thư ký: HTr. Tâm Thường Định: (916) 607-4066 (tiếng Anh)
20/10/2024(Xem: 762)
Thầy đi rồi cơ nghiệp vẫn còn đây Đại tạng kinh in dấu ấn sâu dày Khúc dương cầm, những áng văn trác tuyệt Tấm lòng son đầy nhiệt huyết quan hoài
10/10/2024(Xem: 1531)
Đây là lần thứ hai tôi đến Tu Viện Gaden Shartse Thubten Dhargye Ling (còn được gọi là Chùa TDL) tại Thành Phố Long Beach, Miền Nam California, Hoa Kỳ. Lần đầu tôi đến đây cách nay vài năm để làm phóng sự cho pháp sự kiến tạo Mạn Đà La do chư Tăng từ Tu Viện Gaden Shartse Monastery tại Ấn Độ sang thực hiện.
28/09/2024(Xem: 1684)
Vào lúc 09h00 ngày 27/9/2024 (nhằm 25/8/Giáp Thìn), môn đồ pháp quyến Tổ đình chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa đã trang nghiêm thiết lễ Huý nhật thường niên Tưởng niệm Cố Hoà thượng Thích Trí Viên và Hiệp kỵ chư Tôn Sư khai sơn tạo tự. Quang lâm tham dự lễ có sự hiện diện của HT. Thích Quảng Thiện, Hoà thượng Thích Nguyên Quang đồng thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo Hội, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hoà; cùng chư tôn Hoà thượng chứng minh, chư tôn giáo phẩm Thường trực Ban Trị sự, chư Tôn đức Tăng, Ni và đông đảo quý Phật tử thành phố Nha Trang về tụng kinh, thắp hương tri ân tưởng niệm.
18/09/2024(Xem: 853)
Trong vũ trụ bao la vô bờ bến, từ vô thỉ đến vô chung; với những cơn sóng bạt ngàn giữa lòng đại dương, hay những khe suối ẩn mình chảy róc rách giữa chốn rừng sâu, hay những cơn đại phong thịnh nộ thổi đi những bảo vật ra tận chốn mù khơi! Một chúng sanh có nhiều yếu tố nhân duyên hội tụ để rồi tan hợp, hợp tan. Từ dòng nghiệp thức ấy, đã xuất hiện những bông hoa xinh đẹp, để tô điểm cho cuộc đời này thêm nhiều hương sắc! Kính bạch quý Ngài, thưa Quý vị: Hôm nay, giờ này tại Khánh Anh Tự, Chúng tôi có nhân duyên từ Nam bán cầu, một đất nước xa xôi, đến xứ trời Âu để tham dự ngày Giỗ tổ về nguồn, Đại giới đàn Minh Tâm và tán thán công hạnh của cố Trưởng lão Minh Châu, người đã cống hiến cuộc đời cho Đạo pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com