Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thông Điệp Khánh Chúc Lễ Tiết Đức Thích Tôn Thành Đạo

04/01/202306:04(Xem: 1920)
Thông Điệp Khánh Chúc Lễ Tiết Đức Thích Tôn Thành Đạo
phat thanh dao 2

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

VIỆN TĂNG THỐNG
HỘI ĐỒNG GIÁO PHẨM TRUNG ƯƠNG



THÔNG ĐIỆP
KHÁNH CHÚC LỄ TIẾT
ĐỨC THÍCH TÔN THÀNH ĐẠO



Nhất Tâm Kính Lễ
Bồ đề thọ hạ, hàng phục ma quân, nhất đổ minh tinh thành đạo
BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT

Trên hai mươi lăm thế kỷ đã trôi qua, kể từ đêm khuya ấy, một ánh Sao Mai âm thầm tỏa sáng trên bầu trời phương Đông, báo hiệu một bình minh hy vọng trước một kỷ nguyên mới của văn minh nhân loại, thời trục văn minh được khởi phát từ những nguồn minh triết Đông-Tây. Hai mươi lăm thế kỷ tiếp theo, dòng lịch sử nhân loại trôi đi trong máu lửa với những cuộc chiến khốc liệt tranh quyền thống trị thống nhất đất nước, tranh quyền bá chủ thế giới, cùng với những cuộc chiến tranh tôn giáo kéo dài hằng trăm năm, tranh quyền thống trị Thiên quốc trần gian.

Trong dòng lịch sử bi thương ấy, và cũng không kém hào hùng, hai nguồn mạch minh triết Đông-Tây vẫn âm thầm tuôn chảy, nuôi dưỡng nguồn hy vọng, khát vọng sinh tồn của con người; bằng trí tuệ, bằng tình yêu, đã âm thầm khám phá những quy luật tồn tại và vận hành của thiên nhiên, mang lại cho con người những phương tiện cần thiết để xoa dịu bớt những thống khổ của thân tâm. Những khám phá ấy, một mặt khác không khỏi bị lợi dụng bởi những tham vọng điên cuồng, gieo rắc những thảm họa khốc liệt cho loài người không ít. Hai cuộc chiến tranh thế giới đi qua, cho đến lúc các nhà khoa học vĩ đại của thế kỷ chợt thấy những khám phá của mình đang đe dọa những sụp đổ kinh hoàng của thế giới, và đã cùng nhau đồng loạt lên tiếng cảnh tỉnh: “Các nhà khoa học chúng ta đã phạm tội ác với nhân loại”.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, những lời cảnh tỉnh ấy chưa báo hiệu một cuộc hồi sinh của tình yêu và trí tuệ. Nhân loại đang khắc khoải giữa thảm họa tiểu tam tai, ôn dịch, chiến tranh, và đói kém, đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Một cuộc chiến tàn khốc đang đe dọa hủy diệt 25 thế kỷ văn minh nhân bản của nhân loại.

Trong những nỗi hy vọng và tuyệt vọng ấy, tại một diễn đàn, nơi quy tụ các cơ cấu quyền lực thế giới đang đấu tranh quyết liệt để giành quyền thống trị và cũng tại nơi ấy, giữa những mâu thuẫn ý thức tôn giáo, xung đột quyền lợi kinh tế, xung đột chủng tộc; giữa những xung đột rối ren ấy, trong thâm tâm của mỗi con người tham vọng quyền lực ấy, vẫn âm thầm tìm dấu của một ánh Sao Mai le lói, soi đường định hướng cho bản thân và thế giới; tất cả đồng tâm nhất trí, đồng thanh quyết nghị, nêu cao một Con Người lịch sử, đã xuất hiện trong thế giới loài người, cũng hiện thân giữa những con người cùng khổ, bị áp bức. Những điều mà Con Người ấy đã nghĩ, đã nói và đã làm, suốt trên 25 thế kỷ trôi qua, vẫn âm thầm như ánh Sao Mai soi tỏ đường hướng hòa bình, nhân ái, bao dung, trong đêm tối mịt mù của lịch sử.

Trong trận ôn dịch vừa qua, trong trận chiến tàn khốc đang diễn ra, tấm lòng nhân ái như ánh Sao Mai chợt bừng sáng giữa những bạo hành hung ác, soi sáng nguồn hy vọng trước một bình minh hòa bình, nhân ái, bao dung trong thế giới loài người.

Cũng từ trong thảm họa tiểu tam tai ấy, khi mà những quyền lực đen tối cấu kết thành một hệ thống bạo hành khép kín, hút cạn dòng máu và hơi thở những con người khốn khổ, cô đơn hấp hối trên giường bệnh; giữa canh giới cùng hung cực ác ấy, tấm lòng nhân ái bao dung, đã từng là tố chất dệt thành truyền thống của một dân tộc, dẫn lịch sử dân tộc vượt qua những đọa đày khổ lụy, vượt qua những sóng gió thăng trầm vinh nhục; tấm lòng bao dung, nhân ái lại được khơi sáng như ánh Sao Mai soi sáng nguồn mạch tâm linh, để san sẻ cho nhau những bát gạo, những bó rau, để dìu nhau cùng vượt qua những cơn thống khổ nhân sinh, như Cha Ông đã từng vượt qua trong lịch sử. Những đóa hoa nhân ái bé nhỏ ấy đã hé nụ, nhưng làm sao để được thắm đượm nguồn nước từ bi, để nở hoa trí tuệ, làm sao để được kết dệt thành những tràng hoa tươi thắm trang nghiêm thiện tính của con người.


Trên 25 thế kỷ trôi qua, tùy quốc độ, phương vực, địa phương, tùy theo thời gian nhân duyên, chúng đệ tử Đức Thích Tôn đã từ những điểm chuẩn khác nhau trên quả đất mà chiêm ngưỡng ánh Sao Mai, để bằng ánh sáng ấy mà soi tỏ tự tâm, để thấy biết từ những cảm nghiệm khổ lạc của thân tâm, để hiểu rõ đâu là căn nguyên vô minh và hữu ái mà từ vô thủy đã hiện thực thành khát vọng sinh tồn được thúc đẩy bởi động lực mù quáng của mọi loài chúng sinh, nhận chìm tất cả trong dòng sống chết khổ đau bất tận.

Bị thúc đẩy bởi khát vọng sinh tồn mù quáng, mọi loài chúng sinh đều cần hướng ra ngoại giới để tìm nguồn dưỡng chất để tồn tại. Từ đó, Đức Phật đã chỉ ra nguồn gốc của những bước tiến cạnh tranh sinh tồn khốc liệt, để thu hoạch những gì ta cần và nhiều hơn, những gì ta cần; phát minh những công cụ sát hại lẫn nhau càng lúc càng tinh vi và tàn bạo trong lịch sử tiến hóa của mọi loài, từ những sinh vật hạ đẳng cho đến đẳng cấp trí tuệ siêu việt, để bảo vệ những gì ta đang có, và chiếm đoạt những gì ta không có. Đức Phật đã chỉ rõ căn nguyên sâu xa bản chất và hiện tượng của những tranh chấp để chiếm hữu, cạnh tranh tích lũy để sinh tồn, tạo thành một thế giới bất bình đẳng giữa kẻ yếu và kẻ mạnh, cấu thành những thế lực tham tàn: “Nhất thiết chúng sinh giai y thực trụ”, mọi loài chúng sinh đều nương thức ăn mà tồn tại. Nguyên lý đó đã hiện thực thành động lực cạnh tranh chiếm hữu, chiếm đoạt sinh tồn, Do đó, bước đầu học Phật và tu Phật, chúng đệ tử cần phải tích lũy công đức bằng bố thí.

Bằng bố thí để nuôi dưỡng tâm từ. Bằng tâm từ, bằng cảm nghiệm sâu xa những thống khổ thân tâm của người cùng khổ mà tự thân không đủ năng lực để tồn tại trong một thế giới đầy áp bức, bóc lột do bởi cạnh tranh sinh tồn, để từ đó hiểu rõ, thấu suốt bản chất của tồn tại, cứu cánh của sinh tồn của mọi loài.

Bằng bố thí để phân phối thu nhập, quân phân bình đẳng thu nhập giữa kẻ mà và người yếu, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, để mỗi cá nhân trong mọi cộng đồng xã hội nhận ra phẩm giá con người của mình, để nhận biết Phật tính bình đẳng trong ta và trong tất cả mọi loài, để biết thương yêu và kính trọng, để biết tự nâng cao phẩm giá của chính mình và tôn trọng phẩm giá của người khác.

Thế nhưng, làm thế nào để hành nguyện bố thí được thể hiện bằng cơ chế vĩ mô, để mang lại đời sống sung mãn, tăng ích và an lạc cho toàn xã hội. Từ trên đó, tạo dựng một trật tự an ninh toàn xã hội, bồi dưỡng đạo đức cá nhân, bao dung, hóa giải hài hòa mọi mâu thuẫn dị đồng giữa các xu hướng tư duy, tín ngưỡng tôn giáo dị biệt. Đạo đức và bao dung, giới và nhẫn, là hai đức lý cơ bản để giáo dục các thế hệ đương đại và kế thừa phấn đấu sinh tồn bằng ý chí và nghị lực kiên cường, để có đủ khả năng trấn áp tâm tư bất thiện, phát triển đức tính từ ái, bao dung. Bằng thiện tâm, từ ái và bao dung, mà quan sát, chiêm nghiệm những mối quan hệ sinh tồn giữa ta và thế giới quanh ta, phát triển trí tuệ để thấy biết rõ căn nguyên và quy luật tồn tại, sinh thành và hủy diệt trong chuỗi dài vô tận của những chu kỳ thành-trụ-hoại-không. Chư Phật Thế Tôn đã thọ ký cho mọi loài chúng sinh: Phật tử đời nay hành đạo, đời sau sẽ thành Phật.

Ngày hôm nay, chúng đệ tử Phật nhìn ánh Sao Mai mà định hướng đi cứu cánh cho đời mình, tâm tự tịch tĩnh trong ánh Sao Mai, trấn áp và dập tắt những ngọn lửa phiền não đang đốt cháy tâm tư bằng những hận thù, nghi kỵ, tị hiềm, hãy cùng hòa hiệp đồng tu, để xoa dịu những thống khổ của chính mình và của những người thân yêu, cho đến cùng mọi loài chúng sinh.

Tổ đình Phật Ân, ngày 7 tháng Chạp, năm Nhâm dần, Phật lịch 2566
Thừa ủy nhiệm Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương,
Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống
Tì-kheo Thích Tuệ Sỹ



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/06/2024(Xem: 1413)
Bộ hành là bước đi của chân. Nơi đây, trong bài này, chỉ có ý nói rằng xin mời gọi bước đi của tâm: khuyến tấn cả nước cùng nhau bộ hành theo dòng Kinh Phật, cùng tập thói quen đọc kinh, suy nghĩ về kinh, để tâm hướng theo lời kinh dạy, và hàng ngày hãy làm như thế trong những điều kiện có thể của từng Phật tử, từng ngôi chùa. Nói theo chữ cổ, hàng ngày hãy tự xem hành động đọc, nghĩ, và làm theo lời Phật dạy cũng là một hạnh đầu đà. Nếu chúng ta đi bộ bằng chân, độ dài chỉ có thể đo bằng kilômét trong lãnh thổ Việt Nam. Trong khi, nếu chúng ta bước đi bằng tâm, hàng ngày mở trang kinh ra, để đọc, để nghĩ và để làm – thì độ dài của kinh và luận sẽ là nhiều ngàn năm, trải rộng cả Ấn Độ, Tích Lan, Trung Hoa, Việt Nam, Hoa Kỳ, Úc châu… Và sẽ không làm cản trở giao thông của bất cứ ai, bất cứ nơi nào.
19/06/2024(Xem: 1955)
Khi nói tới chuyện trao truyền y bát, chỉ là sử dụng một kiểu ngôn ngữ ước lệ. Nơi đây, chúng ta muốn nói tới một thẩm quyền sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Nghĩa là, một thẩm quyền tối hậu để nương tựa. Khi dò lại kinh, chúng ta sẽ thấy câu chuyện phức tạp hơn. Vì có nơi Đức Phật nói rằng sau khi ngài nhập Niết Bàn, tứ chúng hãy chỉ dựa vào Chánh pháp. Kinh lại nói rằng tứ chúng chỉ nên dựa vào Kinh và Luật. Mặt khác, Đức Phật nói rằng có những kinh cần giải nghĩa (tức là, hãy nhìn mặt trăng, chứ đừng chấp vào ngón tay, và từ đây mở đường cho các bộ Luận và Kinh Đại Thừa). Có lúc Đức Phật chia đôi chỗ ngồi và trao y cho ngài Ca Diếp. Có kinh ghi lời Đức Phật trao pháp kế thừa cho ngài A Nan. Và có kinh ghi lời Đức Phật ủy thác quyền lãnh đạo cho Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Thế rồi, một hình ảnh thơ mộng từng được kể qua truyện tích Niêm Hoa Vi Tiếu, rằng Đức Phật lặng lẽ, cầm hoa lên, và ngài Ca Diếp mỉm cười. Tích này kể lời Đức Phật nói rằng ngài có một pháp môn vi diệu, không dự
06/06/2024(Xem: 1169)
Trong nhà Phật, lời nguyện là một phần có thể gặp ở bất kỳ kinh sách nào. Hầu hết các lời nguyện đều lớn vô cùng, và trải dài vô cùng tận. Trong các chùa Thiền Tông, chúng ta thường nghe tới Tứ hoằng thệ nguyện, nơi câu đầu "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" (Nguyện giải thoát vô số chúng sinh) đã mang tâm lượng vô biên, vô cùng tận. Trong các chùa Tịnh Độ, các bộ Kinh A Di Đà, Kinh Dược Sư đều ghi những lời nguyện lớn của các vị Phật tương ưng. Tới đây, chúng ta có thể gặp một câu hỏi, rằng có lời nguyện nào sẽ thích hợp cho kiếp này thôi. Bởi vì, có những vị tuổi thọ chỉ còn chừng vài năm nữa là sẽ qua kiếp khác. Và Đức Phật đã dạy những gì cho lời nguyện trong một kiếp ngắn hạn này?
04/06/2024(Xem: 2762)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
23/05/2024(Xem: 501)
Một người con khi xa gia đình, xa quê hương, đã thổn thức mong chờ một chuyến về thăm nhà như thế nào thì người con phật cũng khát khao được về thăm xứ Phật một cách thiết tha như thế ấy!
04/05/2024(Xem: 883)
Sen vàng tháp cổ quyện trầm hương Thị hiện Như Lai giữa nẻo thường Cõi mộng nhân gian Thầy xua lối (*) Cơ duyên chánh đạo pháp soi đường Triêm ân chỉ hướng nguyền xin tỏ Rõ lý qui nguồn xả hết vương Bát Nhã đèn thiền luôn sáng rạng Mê lầm hóa giải thoát tai ương.
16/04/2024(Xem: 531)
Thông thường chúng ta tổ chức kỷ niệm ngày đản sanh hay những ngày lễ khác trong Phật giáo rất long trọng tưng bừng, riêng ngày Phật thành đạo thì có vẻ im lìm và số Phật tử biết hay nhớ ngày này cũng rất ít. Thật sự thì ngày đức Phật thành đạo rất quan trọng, thậm chí có thể quan trọng hơn cả ngày nhập niết bàn. Vì ngày Phật thành đạo là một sự kiện có một không hai trong lịch sử loài người, đây là cái dấu mốc quan trọng mở ra con đường giải thoát cho loài người và cho cả chư thiên, phi nhân…
14/04/2024(Xem: 420)
Có một bạn trẻ, trí thức, mặt mũi sáng sủa mộ đạo tới hỏi một thiền sư như thế này: -Thưa thầy, con đọc kinh điển thấy Đức Phật nói, “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành” như vậy chúng sinh có thể tu thành Phật. Con rất muốn tu thành Phật. Xin thầy chỉ cho làm thế nào để thành Phật? Sư đáp: -Nếu tu để ngộ được tâm Phật, an nhiên tự tại như chư Tổ và các thánh tăng thì khác. Còn muốn trở thành một vị Phật lại khác. Về hình dáng: Phải cao. dung mạo phải đẹp đẽ, oai nghi, không khiếm khuyết bất cứ một bộ phận nào trên cơ thể. Về thân thế: Phải là vua, hoặc thái tử, hoàng tử của một vương quốc. Nếu là các nước cộng hòa thì phải là tổng thống, thủ tướng. Phải có chức vụ cao tột đỉnh như vậy để sau này không còn ham mê danh vọng nữa. Phải là con của một tỷ phú thừa kế một tài sản khổng lồ để sau này không còn ham mê tiền bạc. Một vị Phật không thể xuất thân từ một gia đình thấp kém, bần hàn, là con mồ côi hay con của một gia đ
24/03/2024(Xem: 2376)
Thành Kính Tưởng Niệm…. “Ngày Đức Phật nhập Đại Niết Bàn lúc 80 tuổi” Toàn bộ lời thuyết pháp lần cuối được ghi lại trong kinh Vừa căn dặn đệ tử tự là hòn đảo và tự thắp sáng chính mình, Vừa cô đọng, những điểm căn bản chính yếu trong giáo lý ! Phải luôn đi theo Chánh Đạo với BI, DŨNG, TRÍ !
23/03/2024(Xem: 1737)
Đêm mùng tám tháng hai, thái tử nhìn vợ con lần cuối rồi cùng Sa Nặc và ngựa Kiền Trắc vượt thành ra đi, sau đó vượt sông Anoma để hướng về phương trời cao rộng. Đây là một cuộc vượt thoát vĩ đại vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người. Ngài từ địa vị một ông hoàng với đầy đủ ngũ dục lục trần, có tất cả những gì mà con người mong cầu nhưng ngài buông bỏ tất cả. Ngài vượt thành và trở thành bậc xuất trần vĩ đại. Vượt thành, vượt sông đã khó nhưng thiên hạ cũng làm được, duy vượt qua ngũ dục lục trần, vượt thoát luân hồi sanh tử thì cho đến lúc này cũng chỉ có ngài mà thôi. Cuộc vượt thành của ngài đã mở ra một chương mới trong lịch sử loài người. Ngài đã khai phá con đường sáng, con đường giải thoát, giác ngộ đi đến niết bàn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com