Pháp Học Và Pháp Hành Trì Danh Niệm Phật (lời dạy của Hòa Thượng Thích Trí Quang, do Tỳ Kheo Thái Hòa ghi lại)

05/05/202008:47(Xem: 9048)
Pháp Học Và Pháp Hành Trì Danh Niệm Phật (lời dạy của Hòa Thượng Thích Trí Quang, do Tỳ Kheo Thái Hòa ghi lại)



Phat Di Da

ht tri quang 1923-2019
Pháp Học Và Pháp Hành
Trì Danh Niệm Phật

Trí Quang Thượng Nhân dạy.

Hậu học: Tỷ khưu Thích Thái Hòa cung kính ghi.



Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm:

1-     Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.

2-     Pháp hành: Niệm Phật đưa đến nhất tâm gồm có hai loại: Niệm lớn tiếng và niệm không có tiếng. Niệm lớn tiếng là niệm rõ ràng từng chữ: Nam Mô A Di Đà Phật. Miệng niệm chậm rãi và to, tai lắng nghe rõ ràng từng tiếng không lầm lẫn, nhờ vậy mà đưa tới nhât tâm. Niệm thầm hay niệm không ra tiếng, nghĩa là niệm: Nam Mô A Di Đà Phật, niệm thầm ở trong miệng, nhưng ý thức rất rõ ràng từng chữ Nam Mô A Di Đà Phật, nhờ vậy mà đưa đến nhất tâm. Niệm Phật như vậy, thì Phật A-di-đà luôn luôn ở trên đỉnh đầu. Niệm Phật như vậy, có thể vãng sanh về thế giới Tịnh độ của Ngài hay có thể nhập vào pháp giới tạng thân của Ngài tùy sức hạnh nguyện.


3-     Quan trọng của sáu chữ Nam Mô A-di-đà Phật: Thượng Nhân dạy: Sáu chữ Nam Mô A-di-đà Phật rất quan trọng. Con số sáu một trong những pháp số rất quan trọng trong Phật pháp. Sáu chữ Nam mô A-di-đà Phật liên hệ đến Lục diệu pháp môn. Nghĩa là liên hệ đến sáu pháp quán chiếu hơi thở rất mầu nhiệm.


4-     Bản thân hành trì: mỗi đêm Thượng Nhân niệm danh hiệu Nam mô A-di-đà Phật đến 1800 biến, nghĩa là ba lần sáu. Mỗi lần là sáu trăm. Ba lần sáu = một ngàn tám trăm biến miệng niệm Nam mô A-di-đà Phật và tai lắng nghe một cách rõ ràng không có niệm gì khác khởi lên xen tạp.


5-     Tư thế hành trì: Ngồi kiết già, bán già, hay ngồi trên ghế thõng chân xuống mà niệm, tùy theo điều kiện của thân thể. Tuyệt đối không được nằm ngữa mà niệm Phật. Nếu bệnh có thể nằm ngữa, nhưng không duỗi chân mà co dựng hai chân lên. Khi đi vào Toilet, thì nhớ Phật để trên đầu.


6-     Truyền thống gia đình: Thượng Nhân dạy gia đình tôi đã bảy đời tu tập trì danh Niệm Phật với danh hiệu Nam mô A-di-đà Phật, nay Thượng nhân cũng vậy, làm gì cũng nhớ Phật. Niệm Phật chính là nhớ Phật.


7-     Thượng Nhân dạy: Người tu tập cố gắng sống tinh tấn, tránh bệnh hoạn được bao nhiêu là tốt bấy nhiêu và phải thường quán chiếu cái khổ của bị sanh để tu tập đạt đến cái tâm phiền não vô sanh; phải quán chiếu cái khổ của lão để đạt đến cái tâm bất lão; phải quán chiếu cái khổ của bệnh, để đạt tới cái tâm sáng suốt vô bệnh; phải quán chiếu cái chết để đạt tới cái tâm bất tử. Người tu không có việc gì quan trọng ngoài “Sống và Chết”. Sống chết là việc lớn.


Tam Anh Luc_HT Thich Tri QuangKính mời vào xem trang tác phẩm của Ôn Trí Quang

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/08/2025(Xem: 850)
1/Nếu muốn tự tại thì bạn phải quét sạch ba tâm và bốn tướng. Ba tâm là tâm suy nghĩ về hiện tại, quá khứ và vị lai. Ba tâm thái này đều không có thực tại, nên gọi là bất khả đắc, không thể nắm giữ. 2/Vì sao ở địa vị thánh nhân thì mới có tự tại? Vì thánh nhân không có bốn tướng: không có quan niệm về cái tôi, quan niệm về người, quan niệm về chúng sinh, quan niệm về thọ mạng. Do đó họ đạt tới sự tự tại. 3/Vì sao mình mê muội, chẳng giác ngộ? Vì bị trúng độc tham sân si quá sức sâu đậm. Do vậy chẳng thể giác ngộ. 4/Thời đại chánh pháp: Ai cũng tu. Thời đại mạt Pháp: Không ai tu. Nếu bây giờ ai cũng tu thì thời mạt Pháp sẽ biến thành thời chánh pháp. 5/Định luật nhân quả là: khởi hoặc (tâm khởi vọng tưởng, si mê), đưa đến tạo nghiệp (thân ngữ ý phát ra hành động, lời nói, suy tư), kết cuộc là thọ báo (thân ngữ ý nhận chịu hậu quả của việc đã làm).
11/08/2025(Xem: 1297)
Ít nói một câu chuyện Nhiều niệm một câu Phật Đánh chết được vọng niệm Pháp thân người hiển lộ.
15/07/2025(Xem: 870)
Kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Di Lặc đã từng dạy Thiện Tài rằng: “Bồ Đề tâm là hạt giống của hết thảy các Phật pháp. Bồ đề tâm là ruộng phước vì nuôi lớn cõi bạch tịnh. Bồ đề tâm là cõi đất lớn, vì nâng đỡ hết thảy thế gian. Bồ Đề tâm là tịnh thủy, vì rữa sạch tất cả cáu bợn phiền não”. Trong kinh Phật thường nhắc đến Bồ Đề tâm rất nhiều. Vậy chúng ta tìm hiểu đề tài phát Bồ Đề tâm là gì? Nguyên nhân phát khởi Bồ Đề tâm và lợi ích thực hành Bồ Đề tâm trong việc tu hành như thế nào?
23/06/2025(Xem: 2246)
Phật Bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong Trên trán phóng hào quang rực rỡ Chiếu soi sáu nẻo hôn mông Long Hoa hội lớn nguyện tương phùng Tiếp nối Pháp chánh tông Xin quy y thường trú Phật-đà-gia!
26/01/2025(Xem: 5503)
Nếu thế gian an lành hạnh phúc, lòng người không uẩn khúc đa đoan, đường đời luôn bằng phẳng trong ánh sáng bình minh đầy hoa và bướm, thì không có cảnh tượng thăng trầm, khổ tâm, đau đớn, xót xa. Thế gian này với hoa lá cỏ cây núi rừng sông biển, vạn vật thiên nhiên tự nó nào có phân biệt lớn nhỏ, thánh phàm, khổ vui, thăng trầm, vinh nhục? Đặc tánh thiên nhiên vĩnh viễn muôn đời thanh thản tuyệt nhiên không có lời than thở, hoa nở theo thời, lá rơi theo tiết, chim hót theo mùa, núi vẫn là núi, sông vẫn là sông, núi sông ghềnh thác linh hoạt tự tại với không gian vô cùng và thời gian vô tận. Nhưng thấy núi sông hùng vĩ, sông uốn khúc lượn quanh, thác đổ oai hùng, bình minh hy vọng, hoàng hôn u buồn, tất cả những hiện tượng đó đều phát xuất từ tâm thức phân biệt của con người.
20/09/2024(Xem: 4394)
Đại sư Thiếu Khang họ Chu quê ở huyện Tấn Vân tỉnh Chiết Giang. Một hôm, mẹ ngài mơ thấy mình đi trên đỉnh Định Hồ, có Ngọc nữ trao cho bà một cành hoa sen xanh và nói: “Hoa sen xanh này biểu tượng cho Đại cát tường xin tặng cho bà. Bà sẽ sanh được quý tử, mong bà yêu thương giữ gìn nó”. Nghĩa là cành hoa sen này biểu tượng cho điều tốt lành lớn, nay trao tặng cho bà. Bà sẽ sanh được con trai tôn quý. Hy vọng bà chăm sóc con trai thật tốt.
30/08/2024(Xem: 2636)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83). Các trứ tác sau này của Ngài chỉ là bổ sung và phát triển quan điểm này từ các phương diện khác. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân tông và các đặc điểm của nó.
30/08/2024(Xem: 3469)
Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).
28/08/2024(Xem: 10333)
Đạo Phật giáo là nơi cứu khổ Độ chúng-sanh không bỏ một ai Lòng thương yêu khắp nhân-loài Không hề muốn thấy một ai khổ trần Đường chơn-chánh trên hơn tất cả Nẻo nhiệm-mầu chẳng có chi bì Muốn người rõ tánh từ-bi Cho nên Phật bảo con đi khuyên đời
06/05/2024(Xem: 3712)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ. So với hai kinh kia thì kinh A Di Đà ngắn, ngôn ngữ dễ hiểu, nội dung không quá thâm sâu hay mật nghĩa như những kinh Đại Thừa khác. Phật tử bắc tông phần nhiều ai cũng đọc tụng và khá nhiều người thuộc nằm lòng.