Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

phan 63

01/02/201513:35(Xem: 907)
phan 63

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 64)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Kinh văn: “Ư bỉ nhị thập nhất câu đê Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát”.

Khoa đề nhỏ là “viên mãn”. Viên mãn là thành tựu, thành tích, hiệu quả. Phía trước “quán sát”, “chọn lựa”, “cần tu” đều là nhân duyên. Chỗ này giảng là quả đức.

“Nhị thập nhất câu đê”. “Câu đê” là danh từ số lượng của Ấn Độ, chính là ngàn vạn của Trung Quốc. Một cái câu đê chính là một ngàn vạn, 21 câu đê chính là phía trước nói 210 ức. Tại vì sao phía trước nói 210 ức, chỗ này thì nói 21 câu đê? Đây là lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập kinh văn nguyên bản dịch không phải là một bản. Hội tập phải trung thành với nguyên bản dịch, không được tùy tiện cải sửa những chữ này. Cải sửa chữ thì bạn không trung thực, bạn tùy tiện sửa kinh. Nhất định phải giữ nguyên văn tự của nguyên bản dịch. Khi giảng giải, chúng ta có thể đem nó nói ra.

“Nhị thập nhất câu đê”, phía trước có nói qua nó không phải là số tự, nó là biểu pháp, đại biểu đại viên mãn, cũng chính là nói hư không pháp giới tất cả cõi nước chư Phật không sót lọt một nơi nào. Trong các cõi nước chư Phật này, “công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt”. Tỳ kheo Pháp Tạng đã làm ra được thành tích, mọi thứ rõ ràng, mọi thứ tường tận, cũng chính là trong mười phương cõi nước chư Phật, đạo lý của y báo chánh báo, nghiệp nhân quả báo, sự tướng chuyển biến tiếp nối đều rõ ràng, đều tường tận. Kết quả đó là hiện tượng gì vậy? Hư không pháp giới đồng một duyên khởi, hòa dung không ngại. Phật ở trên kinh Hoa Nghiêm đem hiện tượng này vì chúng ta nói rõ ràng, nói tường tận.

Thế gian ngày nay có rất nhiều người có trí tuệ, thông minh, ở nơi đó tuyên dương đa nguyên văn hoá, cùng tồn tại cùng phát triển. Chính phủ Úc Châu đang chủ động thúc đẩy, họ có Cục Văn hóa Đa nguyên. Chính phủ chánh thức thiết lập cơ cấu, ủy thác quan viên tiến hành làm việc quan trọng này. Cái gì gọi là đa nguyên văn hóa? Chủng tộc khác nhau, tín ngưỡng khác nhau, tôn giáo khác nhau, văn hóa khác nhau có thể ở trong một quốc gia, một khu vực cùng tồn tại, đôi bên tôn trọng lẫn nhau, kính yêu lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau, cùng tồn tại phát triển, đây chính là đa nguyên văn hóa. Cách nhìn cách nghĩ không sai, rất chính xác, thế nhưng làm thế nào để thực tiễn thì đây là vấn đề. Hôm qua tôi ở Úc Châu, sáng sớm Cục trưởng Đa nguyên Văn hóa Queensland đến thăm tôi cũng thảo luận đến vấn đề này, làm thế nào thực tiễn có hiệu quả? Tôi nói với ông ấy, đó là giáo dục. Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc nói rất hay: “Xây dựng quốc gia, giáo học là trước tiên”.Thực tiễn đa nguyên văn hoá vẫn là giáo học là trước tiên. Lần này tôi sẽ đi mấy ngày, thời gian không dài, mỗi ngày thăm viếng một trường đại học, thăm qua Đại học Griffith, Đại học New England, ngày sau cùng là thăm viếng Đại học Queensland. Tôi rất hy vọng trong đại học phải thành lập một học phái đa nguyên văn hoá, trong đại học phải nên thành lập sở nghiên cứu đa nguyên văn hóa, chuyên môn bồi dưỡng nhân tài thúc đẩy sự nghiệp này. Việc này rất quan trọng. Hiện tại mọi người đã ý thức đến vấn đề này.

Việc thứ nhất, chúng ta phải xây dựng quan niệm chính xác. Đây là vấn đề tư tưởng, thế nhưng cũng là sự thật, nhà Phật nói hư không pháp giới đồng một duyên khởi. Quan niệm lý luận này tốt. Hay nói cách khác, hư không pháp giới chính là chính mình. Chúng ta nói lời dễ hiểu hơn một chút, mọi người càng dễ dàng thấu suốt, hư không pháp giới tất cả chúng sanh cùng đồng một thể sinh mạng. Tôi nêu ra một vấn đề với Cục trưởng Văn hóa, thí dụ như thân thể này của chúng ta, thân thể này là một sinh mạng. Tổ thành thân thể chúng ta, chúng ta biết là tế bào. Trên thực tế, tế bào là một chủng tộc, vì sao vậy? Bạn phân tích thêm, tế bào này là do rất nhiều nguyên tử tập hợp lại mà thành, lại phân tích tiếp trong nguyên tử có điện tử, hạt nhân, lại phân tích tiếp thì có hạt tử, cho nên một tế bào là một chủng tộc, chúng ta gọi là một chủng tộc nhỏ, khí quan của chúng ta là chủng tộc lớn. Thí dụ này thì họ dễ hiểu. Chúng ta cùng đồng một thể sinh mạng, chúng ta đem tế bào phân tích ra là nguyên tử, điện tử, hạt tử.

Thí dụ thân thể một người chúng ta là hư không pháp giới tất cả chúng sanh, mắt là một chủng tộc lớn, đây là do rất nhiều tế bào tạo thành, lỗ tai lại là một chủng tộc lớn, cho nên thân thể mỗi một cơ quan chính là mỗi một chủng tộc lớn. Chủng tộc này không như nhau, thế nhưng bạn phải nên biết, những chủng tộc này mỗi mỗi đều là đệ nhất, không có đệ nhị, mắt thấy đệ nhất, tai nghe đệ nhất, mũi ngửi đệ nhất, lưỡi nếm đệ nhất, mỗi mỗi đều là đệ nhất, trên kinh Hoa Nghiêm nói không có thứ nào là đệ nhị, cho nên có thể hòa bình cùng ở chung với nhau. Có đệ nhất có đệ nhị, có lớn có nhỏ thì không đánh nhau sao được? Cặp mắt, lỗ tai, lỗ mũi của chúng ta thảy đều kình chống nhau, con người này chẳng phải xong rồi sao? Người này liền bị bệnh, nghiêm trọng hơn là chết. Phải nên xem thảy đều là cùng một thể sinh mạng, hư không pháp giới tất cả chúng sanh là cùng đồng một thể sinh mạng, cùng đồng duyên khởi.

Nếu bạn chân thật hiểu rõ rồi, triệt để thấu hiểu tường tận thì gọi là chứng được pháp thân thanh tịnh. Chúng ta biết được chư Phật Như Lai có pháp thân, chúng ta cũng có pháp thân. Cái gì là pháp thân? Hư không pháp giới tất cả chúng sanh là pháp thân của chính chúng ta, cho nên chúng ta giúp đỡ người khác, thương yêu người khác là việc nên làm. Mắt phải giúp đỡ lỗ tai, phải giúp đỡ toàn thân, tay chân đều phải giúp đỡ đến, không thể nói nó không liên quan gì với ta, ta không thèm để ý nó, làm gì có đạo lý này? Phải nên biết đây là cùng đồng một thể sinh mạng. Ngày nay chúng ta mê rồi. Mê rồi chính là không biết hư không pháp giới tất cả chúng sanh cùng chính mình là cùng đồng một thể sinh mạng, một pháp thân. Trên kinh Đại thừa thường nói: “Mười phương ba đời chư Phật cùng đồng một pháp thân”. Mười phương ba đời chư Phật chính là các chủng tộc khác nhau, tư tưởng khác nhau, tôn giáo khác nhau, nhưng cùng đồng một pháp thân, cùng đồng một thể sinh mạng. Phải chân thật đem những đạo lý chân tướng sự thật này làm cho rõ ràng, làm cho thấu đáo, nhận biết triệt để.

Thúc đẩy đa nguyên văn hóa, thực tiễn đa nguyên văn hóa không khó. Làm cho tất cả chúng sanh tôn kính lẫn nhau, kính yêu lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau, vậy làm sao mà không làm được? Ngày nay không làm được là do không người dạy. Hôm qua Cục trưởng Youli đến thăm tôi, tôi mời ông ấy xem giá sách của tôi. Trên giá sách của tôi có kinh điển của Thiên Chúa giáo, có Ki-Tô giáo, có Hồi giáo, có Đạo giáo, những kinh điển này đều ở trên đó. Tôi nói: “Ông xem thấy đó, tôi đều đọc”. Ông là người Do Thái giáo. Tôi nói: “Kinh điển của Do Thái giáo ở đây tôi không có, ông nghĩ cách tìm giúp cho tôi”. Ông ấy nói: “Tốt! Không vấn đề gì, tôi nhất định sẽ đưa đến”. Chúng ta mỗi một tôn giáo, mỗi một loại văn hóa khác nhau, chúng ta đều phải đọc, đều phải hiểu rõ. Họ không đọc kinh điển của chúng ta, họ không hiểu rõ chúng ta. Chúng ta đọc kinh điển của họ, chúng ta hiểu rõ họ. Chúng ta hiểu rõ họ, trước tiên chúng ta phải giúp đỡ họ, trước tiên chúng ta phải thương yêu họ, phải tôn kính họ trước. Chúng ta hiểu rõ họ. Hiểu rõ chính là giác ngộ, không hiểu rõ thì vẫn chưa giác ngộ. Hy vọng đồng tu chúng ta không nên đọc suông kinh này, mà sau khi đọc rồi nhất định phải thực tiễn, cũng giống y như Bồ Tát Pháp Tạng vậy.

Những việc “công đức trang nghiêm” này, câu nói này chính là toàn bộ đều bao gồm trong đó tánh tướng, lý sự, nhân quả.

“Thông đạt tường tận, như nhất Phật sát”, hiểu rõ trình độ này, trình độ nhận biết cũng giống như một cõi nước Phật vậy. Chúng ta lại làm một thí dụ, cũng giống như thân thể của một con người vậy, nhận biết đối với hư không khắp pháp giới tất cả chúng sanh cũng giống như nhận biết đối với thân thể này của chúng ta vậy. Sau đó thời gian dài tư duy, chọn lựa, học tập, nhiếp thủ, như vậy mới kết được đại nguyện. Hay nói cách khác, học tập, đời sống và công việc của chúng ta mới có một phương hướng, mới có một mục tiêu, phương hướng mục tiêu mới là chính xác, biết được chúng ta phải nên làm người như thế nào, làm thế nào để giúp người, làm thế nào giúp đỡ tất cả chúng sanh. Cũng giống như giáo huấn của cổ thánh tiên hiền chúng ta, cổ thánh tiên hiền chúng ta dạy người cũng chỉ ba sự việc này.

Việc thứ nhất dạy chúng ta thông đạt tường tận quan hệ người với người, người Trung Quốc chúng ta gọi là giáo dục luân lý. Việc thứ hai dạy chúng ta thông đạt tường tận quan hệ con người với đại tự nhiên, làm đến được “nhân dân ái vật”, phải thương yêu đối với hoàn cảnh tự nhiên. Hiện tại địa cầu của chúng ta bị bệnh rồi, hoàn cảnh sinh thái tự nhiên bị phá hoại, đó là gì vậy? Không hiểu được quan hệ của con người với hoàn cảnh tự nhiên, không biết được ái vật, cho nên phá hoại hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta. Đó là không hề nhận qua giáo dục, không có người dạy họ. Việc thứ ba là dạy chúng ta thông đạt tường tận quan hệ của con người với thiên địa quỷ thần. Đây là giáo dục.

Giáo dục của nhà Phật càng triệt để hơn so với đây, càng thấu triệt, càng rộng lớn, càng viên mãn là để chúng ta hiểu rõ hư không pháp giới tất cả chúng sanh. Đều phải thông đạt tường tận thì đời sống chúng ta, phương hướng mục tiêu mà chúng ta nỗ lực, chúng ta mới chân thật có thể làm đến được, có thể nắm lấy được, đời sống của chúng ta mới có thể đạt được tự tại, đại tự tại, đại viên mãn, vừa rồi chúng ta đã nói pháp hỉ tràn đầy, vô lượng trí tuệ, vô lượng từ bi tự nhiên liền sẽ lưu lộ ra. Nếu bạn đối với những chân tướng sự thật này không thông đạt, không tường tận, bảo bạn phát ra tâm từ bi, phát ra tâm yêu thương thì sẽ rất miễn cưỡng mà phát ra, không phải là thật, không cam tâm không tình nguyện, rất là miễn cưỡng. Vậy thì không được việc gì, không thể giải quyết vấn đề. Thương yêu chân thật, từ bi chân thật mới có thể độ chính mình, mới có thể giúp chúng sanh.

Kinh văn: “Sở nhiếp Phật độ, siêu quá ư bỉ”

Kết luận sau cùng: “Sở nhiếp Phật độ, siêu quá ư bỉ”. Đây là A Di Đà Phật tạo thành thế giới Cực Lạc. Chỗ này nói Phật quốc chính là thế giới Cực Lạc.

“Siêu quá ư bỉ”, “bỉ” là chỉ 21 Câu Đê cõi Phật phía trước, cũng chính là nói hư không pháp giới tất cả cõi nước chư Phật. Thế giới Cực Lạc siêu vượt, làm thế nào siêu vượt? Chúng ta thấy từ phía trước, phương pháp thái độ tu học của Pháp Tạng theo cách nói của người hiện đại là rất phù hợp với tinh thần khoa học. Không phải Ngài chính mình dựa vào không tưởng mà kiến tạo, Ngài là học tập tham quan, lấy cái hay của người, bỏ đi cái dở của người, như vậy mà kiến tạo thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc là tập đại thành trang nghiêm của mười phương cõi nước chư Phật, bao gồm tất cả ưu điểm trong mười phương cõi nước chư Phật thảy đều có đủ, bao gồm tất cả những khuyết điểm nó thảy đều không có, như thế mà tạo thành. Bạn nói xem, chúng ta có nên học tập hay không? Quyết định không phải làm một sự việc chỉ dựa vào ở trong nhà mà tưởng tượng, tìm vài người mà thương lượng thì không thành công. Nhất định phải xem nhiều, học tập nhiều, khảo sát nhiều, quán sát cặn kẽ, xem thấy những lỗi lầm đó của người nếu chúng ta có thì chúng ta phải cải đổi, sở trường ưu điểm thì chúng ta phải học tập, như vậy thì bạn mới có thể thành công, mới có thể “siêu quá ư bỉ”.

Ngày nay đạo tràng Cư Sĩ Lâm có được chút thành tựu nhỏ này, chúng ta cũng là học tập thái độ học tập của Bồ Tát Pháp Tạng. Chúng ta hư tâm, cư sĩ Lý Mộc Nguyên rất hư tâm, rất là khiêm tốn, tiếp nhận phê bình, nỗ lực cải tiến, hơn nữa thường hay đi tham phỏng. Gần đây lại đến Trung Quốc đại lục tham học, tối ngày hôm nay quay về. Tham quan học tập, xem thấy người ta có chỗ tốt mà chúng ta không có thì trở về phải mau làm, xem thấy người khác có khuyết điểm thì tỉ mỉ phản tỉnh, chúng ta chính mình có hay không? Ngày ngày đang cải sửa, ngày ngày phản tỉnh thì ngày ngày mới có tiến bộ. Cái tiến bộ này không có chỗ cùng tận. Đến hôm nào chúng ta mới không cần cải tiến nữa? Đến được Như Lai quả địa vẫn còn phải cầu tiến bộ, A Di Đà Phật ở Như Lai quả địa cũng vậy. Cho nên, cải tiến là vĩnh viễn không hề ngừng nghỉ. Chúng ta mỗi người phải hiểu được tâm trạng học tập này thì mới có thể thành tựu đức hạnh của chính mình. Mỗi một ngày chúng ta tiếp xúc rất nhiều người, bạn có xem thấy ra không, con người này họ có sở trường gì? Họ có khuyết điểm gì? Chúng ta thấy người khác thì dễ thấy, thấy chính mình thì quá khó. Xem thấy khuyết điểm của người khác lập tức quay đầu nghĩ lại xem ta có hay không? Nếu như có thì phải mau sửa đổi. Xem thấy người khác có sở trường, xem lại chính mình có hay không? Không có phải mau học tập, như vậy thì đức hạnh của chính chúng ta mới có thể ngày ngày có tiến bộ. Đạo tràng này của chúng ta là hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta, xem thấy hoàn cảnh sinh hoạt của người khác, nơi nào là có chỗ tốt chúng ta có hay không? Không có thì phải học tập. Một số khuyết điểm trong hoàn cảnh sinh hoạt của người khác, chúng ta có hay không? Chúng ta có thì phải mau sửa đổi lại, hoàn cảnh sinh hoạt trong đạo tràng của bạn liền sẽ siêu vượt người khác. Lại mở rộng thêm, xã hội này, khu vực này cũng là như vậy. Thế giới Cực Lạc là do như vậy mà tạo thành, cho nên hợp tình hợp lý hợp pháp. Việc này chúng ta phải nên học tập.

Giáo huấn của Phật, Phật dạy chúng ta học tập đích thực là có đạo lý, ngày nay chúng ta gọi là hợp tình hợp lý hợp pháp, quyết định không phải là không tưởng, không phải muốn bạn làm như thế nào đó, mà là rất hoạt bát. Ngày nay nói là rất phù hợp tinh thần và quan niệm lý luận của khoa học. Từ ngay những chỗ này chúng ta cũng có thể thể hội được, trong Phật pháp có khoa học kỹ thuật cao độ, có thể giúp đỡ tất cả chúng sanh, cải thiện đời sống của tất cả chúng sanh, nâng cao phẩm chất của tất cả chúng sanh.

Chúng ta đọc đoạn kinh văn này, ở ngay chỗ này làm một kết luận nhỏ. Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai nói pháp ngàn ức năm, chúng ta có chú ý đến vấn đề này hay không? Một đạo tràng giáo hóa một số chúng sanh, nếu không có thời gian nói pháp dài lâu, không có thời gian dài giáo hóa thì không nhận được hiệu quả. Cái điểm này chúng ta phải lưu ý đến.

Ngày nay rất nhiều người đều biết, bao gồm các quốc gia khu vực khác, hiện tại từ các quốc gia khu vực khác đến nơi đây cùng tu học với chúng ta, cùng nhau đến niệm Phật, mỗi một tháng đã vượt qua hơn ba trăm người, tính một cách bảo thủ chí ít cũng phải vượt qua 300 người. Hiện tại số người đang không ngừng thêm lớn, tôi nghĩ năm tới nhất định sẽ vượt qua 500 người. Mọi người đều tán thán đạo tràng này thù thắng. Thù thắng, nguyên nhân này do đâu? Ngày ngày giảng kinh. Chính là Thế Gian Tự Tại Vương ở ngay chỗ này nói là đã nói pháp ngàn ức năm, đạo tràng này không nói pháp thì làm sao được? Các vị phải nên biết, không nói pháp thì con người liền nghĩ tưởng xằng bậy, niệm Phật cũng không được, niệm Phật đường vẫn cứ là cãi nhau, cách nghĩ của mỗi người không như nhau. Cho nên, niệm Phật đường chúng ta ngày nay vẫn có được chút thành tựu này là dựa vào cái gì? Dựa vào 12 năm qua giảng kinh nói pháp, mọi người dần dần hiểu rõ, giác ngộ, cho nên niệm Phật đường niệm Phật bình an vô sự. Thế nhưng mỗi ngày vẫn phải giảng hai giờ đồng hồ. Không giảng hai giờ đồng hồ vẫn sẽ xảy ra vấn đề, tại vì sao vậy? Phàm phu tất nhiên là phàm phu, họ không phải là thánh nhân, phiền não tập khí đều rất sâu nặng. Nhất là ở vào thời đại hiện tại này, chúng ta gọi là phong khí xã hội không tốt, người nước ngoài gọi là từ trường không tốt, chúng ta bị ảnh hưởng phong khí từ trường này, thân tâm đều không ổn định, tánh tình bất định, tâm tình dao động, dễ dàng xảy ra việc. Mỗi ngày nghe giảng kinh hai giờ làm cho tâm tình ổn định lại, đạo lý chính ngay chỗ này. Thời gian càng dài, hiệu quả sẽ càng thù thắng.

Thế Tôn năm xưa ở đời, mỗi ngày giảng kinh nói pháp tám giờ, không phải là hai giờ. Chúng ta xem thấy ở trên kinh, Phật Bồ Tát ở đời ngày giảng kinh hai thời. Hai thời vào lúc đó chính là tám giờ đồng hồ hiện tại. Thế Tôn năm xưa ở đời, đơn vị thời gian của người Ấn Độ dùng, một ngày một đêm phân làm sáu thời, ngày ba thời, đêm ba thời. Vào lúc đó, cách nói này, ban ngày gọi là sơ nhật phân, trung nhật phân, hậu nhật phân, ban ngày phân ba thời; buổi tối là sơ dạ phân, trung dạ phân, hậu dạ phân, cho nên phân ra sáu thời. Hiện tại đơn vị thời gian của chúng ta tương đối chuẩn xác, chúng ta gọi là giờ. Trung Quốc thời xưa phân ngày đêm thành 12 giờ, các vị đều quen thuộc là tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, dùng 12 chữ này làm đại biểu, ban ngày là 6 giờ, buổi tối là 6 giờ. Hiện tại chúng ta dùng đơn vị tính giờ của người phương Tây, nên gọi là giờ. Hiện tại bốn giờ mới là một thời của Thích Ca Mâu Ni Phật thời đại đó. Chúng ta xem thấy trên kinh nói hai thời giảng kinh liền biết được Thích Ca Mâu Ni Phật mỗi ngày giảng kinh 8 giờ đồng hồ. Huân tu thời gian dài như vậy thì người mới giác ngộ ra được, mới hiểu rõ ra. Hơn nữa, vào lúc đó, nhân tâm thuần hậu, phong khí xã hội lương thiện, sức cám dỗ bên ngoài rất mỏng, còn phải mỗi ngày nghe kinh đến 8 giờ mới có thể chuyển đổi được. Hiện tại, vào năm này, tôi nghĩ mỗi ngày giảng kinh chí ít phải 16 giờ thì e rằng ý niệm mới có thể chuyển đổi lại được. Thế nhưng 16 giờ đồng hồ, tìm người nào để giảng vậy? Không tìm được người, không dễ dàng.

Các vị nhất định phải ghi nhớ, hưng suy của đạo tràng quyết định ở thời gian giảng kinh nhiều ít, đây là nhân tố quyết định. Người đều tường tận rồi, thấu hiểu rồi mới chịu phát tâm tu hành, thật làm. Đạo lý không làm cho rõ ràng, phương pháp chưa tường tận, không biết được chỗ tốt, bạn bảo họ ngày ngày niệm Phật không làm việc gì, buông bỏ xuống, người ta nói đầu óc của bạn có vấn đề, nói các người tiêu cực. Bạn nói xem, còn cách nào chăng? Ngàn ức năm giảng kinh chính là nhắc nhở chúng ta kinh giáo phải huân tu thời gian dài, đây là công việc giáo dục.

Thứ hai, chúng ta xem thấy Bồ Tát Pháp Tạng khổ hạnh năm kiếp: “Tinh cần cầu sở, cung thận bảo trì, tu tập công đức, mãn túc ngũ kiếp”. Đoạn nhỏ này, nếu dùng lời hiện đại mà nói chính là đem những phương pháp lý luận mà chính mình đã tu học được thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày, bao gồm chúng ta làm việc, bình thường đối nhân xử thế tiếp vật, tiếp xúc với tất cả mọi người, tất cả mọi việc, tất cả mọi vật thảy đều thực tiễn. Đời sống ở ngay trong Phật pháp, cũng chính là nói đời sống ở ngay trong trí tuệ. Chỗ này chúng ta cần phải học tập, không thể không chú ý. Họ trải qua là đời sống gì? Trải qua là đời sống trí tuệ cứu cánh viên mãn cao độ, cho nên họ tự tại, hạnh phúc, an vui, cho nên gọi là thế giới Cực Lạc. Ngày nay chúng ta trải qua là đời sống gì? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, phiền não, âu lo, đời sống khổ không nói ra lời. Tại vì sao có thể trở thành như vậy? Đối với những chân tướng sự thật này không làm cho rõ ràng, không làm cho tường tận. Những sự việc này nếu muốn làm cho rõ ràng, làm cho tường tận, không phải ở nhà chính mình có thể nghĩ ra được, mà phải có thiện tri thức dạy. Thiện tri thức chính là Phật Bồ Tát, chúng ta nhất định phải khiêm hạ tiếp nhận dạy bảo. Then chốt chính ngay chỗ này.

Sau cùng, tôi muốn nhắc nhở mọi người, Tỳ kheo Pháp Tạng vì sao phải làm như vậy? Ngài làm là dụng ý ở đâu? Mục đích của Ngài làm là gì? Chúng ta phải rõ ràng, phải thấu hiểu, mục đích của Ngài, dụng ý của Ngài chính là ngày nay nói thực tiễn đa nguyên văn hóa. Hư không pháp giới tất cả chúng sanh hòa thuận cùng sống, kính yêu lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau, cùng tồn tại phát triển, biết được đây là cùng đồng một thể sinh mạng, tất cả chúng sanh chính là chính mình, không phải người khác, chúng ta thương yêu tôn kính, giúp đỡ vô điều kiện là việc nên làm, là bổn phận chính mình phải làm. Đây chính là dụng ý của chư Phật Bồ Tát giáo hóa. A Di Đà Phật kiến lập thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng là ý này.

Kinh văn: “Ký nhiếp thọ dĩ, phục nghệ Thế Tự Tại Vương Như Lai sở, khể thủ lễ túc, nhiễu Phật tam tráp, hiệp chưởng nhi trụ”.

Đoạn này là nói lễ tiết. Thế xuất thế gian pháp đều rất chú trọng lễ tiết. Người xưa nói rất hay, người không có lễ thì không thể đứng được ở xã hội, lời nói này rất có đạo lý. Chúng ta ở ngay trong kinh luận của Phật, nơi nơi đều có thể xem thấy Thế Tôn cùng với các học trò của Ngài, thậm chí đến xã hội đại chúng thông thường, bạn xem lễ tiết của họ chu đáo đến thế nào, thành kính đến thế nào! Đây là chỗ mà chúng ta phải nên học tập.

Hôm nay là lễ Phật đản sanh. Có một số các lãnh đạo tôn giáo khác chúc mừng đối với Phật đản của chúng ta, cũng có gởi thiệp đến, có tặng hoa, đưa lễ vật đến, chúng ta đều phải nên ghi nhớ. Ở người xưa, không chỉ là một xã đoàn, ngay đến gia đình cũng không ngoại lệ, gia đình tiếp nhận bạn bè thân thích tặng quà đều phải ghi trên một tấm lễ bạc. Tại vì sao phải ghi chứ? Đến khi họ có ngày kiết khánh, bạn liền biết được tặng lễ như thế nào. Cho nên khi tặng quà qua lại, luôn là phải tặng nhiều hơn so với họ một chút, đó là hậu đạo. Quyết định không thể tặng ít hơn so với họ, vì như vậy thì thật là khó coi, chí ít phải tặng bằng nhau, tốt nhất là nhiều hơn một chút. Cổ thánh tiên hiền đều là dạy bảo chúng ta làm như vậy. Cho nên ở xã hội cũ Trung Quốc, mỗi nhà đều có tấm lễ bạc. Tấm lễ bạc này rất quan trọng. Đoàn thể này của chúng ta càng quan trọng hơn, cho nên bình thường hy vọng các đồng tu cần phải chú ý đến những việc này, vạn nhất không nên xem thường. Sau khi xem thường thì biến thành vô lễ, vậy thì chúng ta ở trong xã hội làm người làm việc sẽ rất khó, không có người giúp đỡ, không có người ủng hộ chúng ta.

Đoạn này chúng ta có thể thể hội được, Bồ Tát Pháp Tạng là đệ tử Phật chân thật, Ngài có thể y giáo phụng hành, có thể dùng thời gian ngắn nhất, nhanh chóng viên mãn thành tựu tu học của Ngài, đạt đến nguyện vọng của Ngài. Đây là người chân thật báo ân.

“Ký nhiếp thọ dĩ”, thế giới Tây Phương Cực Lạc, nguyện vọng lý tưởng của Ngài tiếp cận hoàn thành, có thể nói là đã hoàn thành. Phía trước, trong kết luận đã nói “sở nhiếp Phật độ, siêu quá ư bỉ”, thế giới Tây Phương Cực Lạc kiến thành. Sau khi kiến thành, một việc lớn nhất là đến chỗ lão sư để báo cáo, cho nên lại đến “Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai sở”. Không chỉ là lễ tạ lão sư, mà vẫn là cầu lão sư chỉ đạo.

“Nghệ thủ lễ túc, nhiễu Phật tam tráp”, dùng đỉnh đầu của chúng ta lễ dưới chân Phật, đây gọi là tiếp túc lễ. Trong kinh luận giải thích với chúng ta, tại vì sao phải hành tiếp túc lễ? Triết phục tâm ngạo mạn của chính mình. Các vị phải nên biết, ngạo mạn có thể nói là phiền não từ nhiều đời đến nay, phiền não này không chỉ chướng ngại bạn chứng quả, mà ngay đến khai ngộ cũng bị nó chướng ngại. Ngày nay chúng ta học Phật, ngày ngày nghe kinh, tại vì sao không khai ngộ? Chúng ta xem thấy ở trên kinh luận, xem trong truyện ký của đại đức xưa, có một số người đọc tụng nghe kinh thời gian rất ngắn liền khai ngộ, có một số người mười năm, tám năm khai ngộ, số người năm năm đến mười năm khai ngộ rất nhiều, không đến năm năm khai ngộ thì có nhưng tương đối ít; hai mươi năm, ba mươi năm khai ngộ cũng có nhưng cũng tương đối ít.

Tại vì sao họ có thể khai ngộ còn chúng ta không thể khai ngộ? Thành thật mà nói, hoàn cảnh tu học của họ cùng hoàn cảnh tu học của chúng ta hiện tại mà so sánh, có thể nói mỗi nơi có sự đặc sắc của nó. Ở phương diện vật chất thì thuận tiện, người xưa không bằng như người nay. Các vị phải nên biết, người xưa vào buổi tối làm gì có ánh đèn sáng được như thế này? Đốt đèn sáp, đốt đèn dầu. Kinh bổn không thể in ấn được tốt đẹp như hiện tại, số lượng cũng ít, cho nên thông thường kinh bổn của chính mình dùng đều là chính mình chép ra. Vào lúc đó không có kỹ thuật in ấn, không tìm mua được kinh bổn, chỉ có dựa vào chép tay. Tôi nghĩ các vị chưa đọc qua quyển sách mà chính mình chép ra. Hiện nay đến nghe kinh một lần, ngồi xe thì đến, rất thuận tiện. Người xưa nghe kinh, phải đi bộ bao xa vậy? Trên kinh Bồ Tát Giới nói, người thọ qua Bồ Tát giới nếu trong vòng 40 dặm có pháp sư giảng kinh mà không đến nghe kinh thì phạm giới Bồ Tát rồi. Một giờ đồng hồ đi mười dặm, bốn mươi dặm thì phải đi bốn giờ đồng hồ để nghe một lần giảng kinh. Cho nên về phương diện vật chất thì người xưa không bằng chúng ta, hiện tại chúng ta thuận tiện hơn nhiều so với họ, nhưng về mặt khác thì chúng ta không thể so được với người xưa. Người xưa tâm địa thanh tịnh, chân thành, cho nên họ có được thọ dụng. Hiện tại tâm của chúng ta bao chao, chân thật là tâm khí bao chao, cho nên tu hành nếu muốn thành tựu thì rất là khó khăn.

Xã hội hiện tại, sức cám dỗ của danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần nhiều hơn người xưa không biết là tăng thêm mấy trăm lần, mấy ngàn lần, người thời trước không cách gì tưởng tượng. Đời sống của chúng ta ngày nay, hoàn cảnh này, nếu muốn có thành tựu thì chính là trên kinh Di Đà nói “không phải là người thiện căn phước đức nhân duyên ít mà có thể sanh được nước kia”. Thiện căn phước đức nhân duyên của chúng ta đều siêu vượt người xưa, bởi vì nếu kéo người xưa đến thời hiện tại này, họ giống y như mình vậy, thì không thể thành tựu. Họ ở trong hoàn cảnh đó có thể thành tựu, chúng ta ở trong hoàn cảnh này có thể thành tựu thì siêu vượt hơn họ quá nhiều. Đạo lý này nhất định phải nên hiểu.

Tinh thần, nghị lực cầu học của A Di Đà Phật đáng được chúng ta kính phục, đáng được chúng ta học tập. Ngài chăm chỉ nỗ lực, không một chút buông lung. Người hiện tại đã nói “phân miễu tất tranh”, Ngài muốn thỏa mãn nguyện vọng của Ngài. Nguyện vọng gì vậy? Giúp đỡ pháp giới chúng sanh bình đẳng thành Phật. Nguyện vọng này quá to quá lớn, người thông thường đích thực không dám tưởng tượng. Ngài phát ra nguyện này quả nhiên thành tựu. Chân thật là có nguyện ắt thành. Cho nên hôm nay đến chỗ của lão sư, hành lễ chí kính đối với lão sư, “nhiễu Phật tam tráp, hiệp chưởng nhi trụ”. “Trụ” là đứng ở nơi đó.

Kinh văn: “Bạch ngôn Thế Tôn: “Ngã dĩ thành tựu, trang nghiêm Phật độ, thanh tịnh chi hạnh””.

Đây là đưa ra báo cáo thành tựu tu học với lão sư. Hai câu này là tổng thuyết. “Thành tựu trang nghiêm Phật độ” là y báo, thế giới Cực Lạc “thanh tịnh chi hạnh” là chánh báo. Bạn xem, hai câu tám chữ này, thế giới Tây Phương Cực Lạc y chánh trang nghiêm đều nổi bật lên hết. Pháp Tạng vừa nêu ra như vậy, Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai làm gì mà không rõ ràng đạo lý này? Lập tức liền tường tận. Phía sau đoạn này, Phật liền bảo Ngài nói ra tường tận hơn. Cách nói này của Ngài Phật biết được, nhưng đại chúng không biết.

Kinh văn: “Phật ngôn: Thiện tai!”.

Hai chữ “Thiện tai” này là tán thán Ngài, ý nghĩa rất sâu, vì sao vậy? Thành tựu của thế giới Cực Lạc đúng là tâm nguyện của Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, là nguyện vọng của Ngài và cũng là nguyện vọng của mười phương tất cả chư Phật Như Lai. Vậy thì tại vì sao chư Phật Như Lai không làm? Không nghĩ đến, thực tế mà nói không phải không có trí tuệ làm, không phải không có năng lực làm, mà là không nghĩ đến. Cái duyên này không như nhau. Sự việc này được Tỳ kheo Pháp Tạng nghĩ đến, Ngài làm thành công rồi. Chư Phật Như Lai không hề đố kỵ, bạn thấy ở chỗ này không có đố kỵ, không có chướng ngại, không như xã hội hiện tại của chúng ta, việc tốt nhiều dày vò. Bạn muốn làm một việc tốt, người ta biết được, nghĩ ra hết cách để chướng ngại bạn, nghĩ ra hết cách cản trở bạn, không để bạn thành tựu. Đây là cái tâm thế nào vậy? Đây là bên trong có ta và người, thành tựu của bạn không phải là thành tựu của ta, cho nên sanh ra đố kỵ chướng ngại. Chư Phật Như Lai không có ta và người, thành tựu của bạn chính là thành tựu của ta, mỹ mãn của bạn chính là mỹ mãn của ta, vậy làm sao mà không hoan hỉ?

Chư Phật Như Lai có một đại nguyện như nhau là phổ độ chúng sanh, dùng đủ loại phương tiện khéo léo tiếp dẫn độ hóa chúng sanh. Thế nhưng chúng sanh cang cường khó độ, bạn xem thấy trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện kinh nói được rất rõ ràng, chân thật là cang cường khó độ, cho nên chư Phật Như Lai liền khai mở vô lượng vô biên pháp môn, giúp đỡ tất cả chúng sanh dần dần nâng lên cao. Chúng sanh đang trong quá trình học tập không ngừng tiến thoái, tiến thì ít mà thoái thì nhiều, cho nên chư Phật Bồ Tát chân thật là các Ngài cũng không sợ khó khăn, các Ngài có lòng nhẫn nại, đời đời kiếp kiếp vô lượng kiếp đến nay không bỏ một ai, chư Phật Bồ Tát từ bi thương yêu. Loại ân đức này phàm phu chúng ta không hề biết, không cách gì thể hội. Các Ngài mong muốn chúng ta sớm một ngày thành Phật, sớm một ngày thoát khỏi sáu cõi luân hồi, thoát khỏi mười pháp giới, mà hành vi tạo tác, khởi tâm động niệm của chúng ta thì hoàn toàn tương phản với nguyện vọng của chư Phật Bồ Tát. Chúng ta phải biết ân đức của chư Phật Bồ Tát.

Ngày nay cách làm này của Bồ Tát Pháp Tạng chân thật là làm rõ bổn hoài của chư Phật. Chư Phật ở đây là mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai, vì sao vậy? Trong tất cả phương tiện khéo léo thì thế giới Tây Phương Cực Lạc là đệ nhất, có thể khiến cho năm thừa đồng vào báo độ, không cần phải tu hành thời gian dài. Như trong 48 nguyện phía sau, mười niệm, một niệm quyết định được sanh. Loại phương pháp này đích thực là chư Phật Như Lai không hề nghĩ đến, hơn nữa phương pháp chỉ dùng một câu danh hiệu, chân thật không thể nghĩ bàn, đơn giản đến như vậy! Chỉ cần như lý như pháp mà tu học thì không có một người nào mà không thành tựu. Cho nên Phật gọi “Thiện tai”, bạn làm được quá tốt, bạn làm việc này chính là việc tôi muốn làm, bạn làm được rồi, cho nên tất cả chư Phật Như Lai đều tán trợ Ngài, đều tán trợ A Di Đà Phật, vô điều kiện giúp đỡ A Di Đà Phật. Chư Phật tán trợ không phải nói “thiện tai, thiện tai” thì xong, mà các Ngài có hành động biểu hiện. Hành động gì vậy? Tất cả chư Phật giảng kinh nói pháp, vì đại chúng rộng lớn giới thiệu thế giới Tây Phương Cực Lạc, khuyên bảo mọi người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đây là thực tiễn. Hay nói cách khác, chúng sanh niệm A Di Đà Phật vãng sanh thế giới Cực Lạc chính là chư Phật Như Lai chính mình thành tựu. Con người này là ai độ vậy? Ngày nay chúng ta biết được niệm Phật, niệm A Di Đà Phật, biết được cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, nghĩ xem ai độ vậy? Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật độ. Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật không giới thiệu thế giới Tây Phương Cực Lạc cho chúng ta, mà muốn độ chúng ta thoát luôn hồi, ra khỏi mười pháp giới thì thật khó, không biết là phải tốn bao nhiêu sức lực, không biết là phải phí bao nhiêu thời gian. Cho nên thành tựu của A Di Đà Phật chính là thành tựu của Thích Ca Mâu Ni Phật, sự nghiệp của A Di Đà Phật chính là sự nghiệp của Thích Ca Mâu Ni Phật, là thành tựu của Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng chính là thành tựu của mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai, sự nghiệp của tất cả chư Phật Như Lai. Các vị phải tỉ mỉ mà nghĩ tưởng đạo lý này, sau đó bạn phải thể hội được, thế gian này bất cứ một người nào làm được một việc tốt nào cũng đều giống như chính mình làm, chúng ta xem thấy cũng xưng là “thiện tai”, hoan hỉ tán thán, hiệp trợ họ vô điều kiện.

Hiện tại chúng ta đã có một số thăm viếng các tôn giáo khác, cũng có một số cúng dường giúp đỡ. Trong nhà Phật có một số đồng tu, số ít người cảm thấy rất kỳ lạ là tại vì sao chúng ta phải giúp đỡ những tôn giáo đó? Không biết được những sự việc mà họ làm chính là việc mà chúng ta muốn làm, chúng ta phải làm. Ta và người không hai. Chúng ta xem thấy người ta làm những việc từ thiện phước lợi xã hội, giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn thật giống y như chúng ta chính mình làm vậy. Chúng ta chân thành tán thán, giúp đỡ họ vô điều kiện. Đây là chúng ta học được từ trong kinh Phật, học được từ nơi Thích Ca Mâu Ni Phật, học được từ chỗ A Di Đà Phật. Phải học được giống, đây mới là học trò của Phật.

Kinh văn: “Kim chánh thị thời, nhữ ứng cụ thuyết”.

Hai câu phía trước nói được quá đơn giản, chính là lúc này phải nên cụ thể trần thuật, tường tận làm một cuộc báo cáo với đại chúng. Câu nói này hàm nghĩa cũng rất sâu rất rộng, làm sao biết được? Nếu như đại chúng cơ duyên chưa chín muồi thì nói cũng như không nói, nhất định là cơ duyên đại chúng chín muồi. Những đại chúng này là bốn chúng đệ tử mà Thế Gian Tự Tại Vương Phật giáo huấn thời gian dài. Thành tựu của Bồ Tát Pháp Tạng thù thắng không gì bằng. Cái thù thắng này siêu vượt chính Thế Gian Tự Tại Vương Phật, siêu vượt chính mình. Giáo học của Thế Gian Tự Tại Vương cùng với giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật rất gần giống nhau, cũng là dùng vô số pháp môn khác nhau dạy bảo vô số chúng sanh khác nhau. Pháp môn của A Di Đà Phật đơn giản, một câu Phật hiệu, một pháp môn, một phương hướng, một lối đi, chân thật gọi là “hội đa quy nhất”. Vô lượng vô biên pháp môn đến lúc này sẽ quay về một môn. Chân tướng sự thật này trong Hoa Nghiêm hiển thị được rất rõ ràng, rất tường tận. Kinh Hoa Nghiêm nói rất nhiều pháp môn, trong Ly Thế Gian Phẩm đã nói hai ngàn pháp môn, đến sau cùng Bồ Tát Phổ Hiền mười đại nguyên vương hồi quy Cực Lạc, chẳng phải là “hội đa quy nhất” hay sao? Không luận là căn tánh gì, không luận bạn tu học pháp môn nào, không luận bạn có thành tựu hoặc không có thành tựu, đều có thể bảo bạn bình đẳng vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, nên gọi là “năm thừa đều vào báo độ”. Đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn.

Bạn xem trên hội Hoa Tạng, thế giới Hoa Tạng là thế giới của Tỳ Lô Giá Na Phật, Văn Thù và Phổ Hiền là hai trợ thủ của Tỳ Lô Giá Na Phật, hai Bồ Tát này đem đại chúng thảy đều hướng dẫn đến thế giới Cực Lạc để gặp A Di Đà Phật, trong tưởng tượng của ta, việc làm này có kỳ khôi không? Hai vị này đơn giản là phản bội lão sư, làm sao có thể dẫn tín đồ đi hết chứ? Tâm của chúng ta nhất định là có cách nhìn như vậy. Thế nhưng Tỳ Lô Giá Na Phật không giống như chúng ta, Tỳ Lô Giá Na Phật xem thấy rất là hoan hỉ, tại vì sao có thể hoan hỉ? Ở thế giới Hoa Tạng thành Phật chậm, trên kinh thường nói là ở thế giới Hoa Tạng thành Phật phải trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp. Ba đại A Tăng Kỳ kiếp là tính từ Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát, các vị phải làm cho rõ ràng, trước khi sanh đến thế giới Hoa Tạng thì không tính, mà bắt đầu tính từ ngày sanh đến thế giới Hoa Tạng. A Tăng Kỳ kiếp thứ nhất tu tam hiền vị là thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng; A Tăng Kỳ kiếp thứ hai tu bảy vị thứ, từ sơ địa đến thất địa; A Tăng Kỳ kiếp thứ ba tu ba vị thứ là bát địa, cửu địa, thập địa. Ba đại A Tăng Kỳ kiếp là nói Pháp Thân Đại Sĩ của thế giới Hoa Tạng, chúng ta không có phần. Chúng ta tu hành, thành thật mà nói, vô lượng kiếp lại vô lượng kiếp, làm gì chỉ có ba A Tăng Kỳ kiếp? Cho nên Tỳ Lô Giá Na Phật xem thấy vui mừng. Đến thế giới Cực Lạc thành Phật nhanh, làm gì cần phải ba đại A Tăng Kỳ kiếp? Những Pháp Thân Đại Sĩ này đến thế giới Tây Phương Cực Lạc ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Bạn xem, ba đại A Tăng Kỳ kiếp họ mới có thể thành tựu, hiện tại cần bao nhiêu thời gian? Một kiếp cũng không cần. Các vị xem thấy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ đã nói thì bạn liền tường tận. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc mấy ngày thì thành Phật, thì thành tựu rồi. Tỳ Lô Giá Na Phật xem thấy cảnh tượng này làm sao mà không vui mừng chứ? Những học trò này ở đây học với ta phải cần bao nhiêu năm mới có thể tốt nghiệp, đến bên đó đi học ba bốn ngày thì tốt nghiệp, cho nên Tỳ Lô Giá Na Phật vui mừng còn không kịp, làm gì có việc đố kỵ chứ? Đây chính là chỗ không giống của Phật cùng phàm phu chúng ta. Đạo tràng phàm phu chúng ta, nếu khi tín đồ của họ bị mang đi hết thì họ sẽ tức giận đến chết.

Tôi ở nơi đây giảng kinh với các vị đồng tu, giảng đến nổi khổ cả lưỡi mà các vị cũng không có khai ngộ. Nếu như một đạo tràng khác có một pháp sư ở nơi đó giảng kinh, vừa nghe liền khai ngộ, có một người thảy đều dẫn các vị đi quá đó, tôi hoan hỉ vỗ tay, tôi sẽ không đố kỵ. Tâm của Phật Bồ Tát không giống như tâm của phàm phu chúng ta, tâm của phàm phu luôn là muốn khống chế người khác, khống chế tín đồ, cho nên chính mình không thể khai ngộ. Phải quấy nhân ngã, danh vọng lợi dưỡng không chịu buông bỏ thì làm sao có thể khai ngộ được? Đây là đại chướng ngại của cửa ngộ.

Bởi vì những nhân tố này, cho nên Phật mới nói “kim chánh thị thời” (ông phải nên mau nói ra), “nhữ ưng cụ thuyết” (ông phải nên cụ thể báo cáo với mọi người).

Kinh văn: “Linh chúng hoan hỉ, diệc linh đại chúng, văn thị pháp dĩ, đắc đại thiện lợi”.

Trong bài kệ này có hai chữ “chúng” là “linh chúng hoan hỉ”, phía sau lại có “diệc linh đại chúng”, kinh văn này dường như là lặp lại lộn xộn. Tuy là nói hai chữ chúng nhưng quyết định là hai ý nghĩa, hai chữ chúng này muốn nói thế nào cũng đều nói được thông.

“Linh chúng hoan hỉ”, chữ chúng này là tất cả chúng sanh tận hư không, khắp pháp giới. A Di Đà Phật chỉ cần tuyên bố thế giới Tây Phương Cực Lạc y chánh trang nghiêm, mười pháp giới, hư không pháp giới tất cả chư Phật Bồ Tát, thậm chí đến chúng sanh ác đạo, sau khi nghe rồi đều hoan hỉ, không có ai mà không hoan hỉ. Vì sao vậy? Có thể bình đẳng được độ, mau chóng thành tựu, ai mà không hoan hỉ.

“Diệc linh đại chúng”, đại chúng này chính là đại chúng ngay trong pháp hội, cho nên nó không có xung đột. Đây cũng chính là những đại chúng nghe Phật giảng kinh tại giảng đường của Thế Gian Tự Tại Vương Phật, cho nên ý nghĩa của hai chữ “chúng” này, “văn thị pháp dĩ, đắc đại thiện lợi”. Cái thiện này, loại lợi ích này không cách gì hình dung. Lời nói này là thật, quyết định không phải là giả. Cho dù không có thiện căn, không có phước đức, trong kinh Phật gọi là Nhất Xiển Đề, nghe được tin tức này cũng là đại thiện lợi. Đại thiện lợi này là “vừa nghe qua tai mãi đã trồng căn lành”. Nghiệp lực của họ sau khi tiêu trừ, thiện lợi sẽ hiện tiền.

Ngày nay chúng ta ở trong giảng đường có được tin tức này không phải là ngẫu nhiên, rất có thể chúng ta ở trong vô lượng kiếp đã từng nghe được tin tức này, nhưng tập khí phiền não nghiệp chướng của chúng ta rất nặng, không thể nào có thể nỗ lực tu học. Ngay đời này được thân người lại gặp được pháp môn này, sau khi gặp được chân thật sanh tâm hoan hỉ, việc này không dễ dàng. Thế Tôn hy vọng chúng ta làm đệ tử chân chánh của Thế Tôn, chân thật y theo lời khuyến cáo của Thế Tôn Ngài, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.

Trên kinh Pháp Hoa đã nói: “Lục Tức Phật”, đây là một loại Phật học thường thức, chúng ta phải biết.

Thiên Thai có thể nói là Phật giáo Trung Quốc, Ấn Độ không có tông Thiên Thai. Thiên Thai là người Trung Quốc chúng ta xây dựng, cũng có thể nói là đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc. Đại sư Trí Giả của Thiên Thai căn cứ kinh luận Ngài được khai ngộ, Ngài thể hội được, nói ra một số phương pháp giáo học, đem Phật phân làm sáu loại gọi là “Lục tức”. Tức ý nghĩa “chính là”.

Loại thứ nhất là “Lý Tức Phật”. Từ trên lý mà nói, từ trên tâm tánh mà nói thì mọi người đều là Phật. Các vị có người hỏi tôi, tín tâm vì sao không sanh ra, tín tâm từ do đâu mà sanh? Chính từ ba chữ này. Đại sư Thiên Thai giảng câu này khải phát tín tâm của chúng ta. Lý Tức Phật, cái lý này trên kinh Hoa Nghiêm đã nói là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Đây chính là lý mười phương thế giới y chánh trang nghiêm do một niệm tự tánh biến hiện. Một niệm tự tánh chính là Phật, Phật thật. Tự tánh biến hiện ra tất cả hiện tượng cũng là Phật, cho nên trên kinh Hoa Nghiêm mới nói “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí”, đều là từ trên “Lý Tức Phật” mà nói. Phật ở trên kinh Đại thừa còn có một câu nói được rất hay: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Đã có Phật tánh tức phải làm Phật, bạn phải nên làm Phật. Những lời nói này đều là từ trên lý mà nói. Chúng ta tu hành có thể thành Phật, có thể chứng quả, tín tâm từ chỗ này mà xây dựng. Đây là pháp bình đẳng, chân thật gọi là “sanh Phật bình đẳng”, chúng sanh cùng Phật là bình đẳng, trên tâm tánh là bình đẳng. Chư Phật Như Lai một niệm tự tánh hiển hiện, hôm nay thân này của chúng ta cũng là một tự tánh hiển hiện, thậm chí đến súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục vẫn là một niệm tâm tánh hiển hiện. Tâm có thể hiện trí tuệ, hiện ra cái tướng không như nhau. Thức có thể chuyển biến, cho nên “duy thức sở biến”, tướng không như nhau, do thức biến. Đạo lý nói được rõ ràng, tường tận, thế nhưng phàm phu sáu cõi đã mê mất đi tự tánh. Tự tánh không thể làm chủ thì ai làm chủ vậy? Tám thức, 51 tâm sở làm chủ. Duy thức sở biến, sự việc này thì phiền phức, càng biến càng đáng lo, nó không thể biến được tốt, nó hướng về phía xấu mà thay đổi, chân thật là mỗi lúc tệ hơn, đời sau không bằng đời trước. Chư Phật Như Lai xem thấy tình hình của chúng sanh, các Ngài liền đến. Tại vì sao các Ngài phải đến? Tất cả chúng sanh chính là chính mình, hư không pháp giới tất cả chúng sanh là chính mình, không phải là người khác, cho nên các Ngài liền đến. Các Ngài đến độ chúng sanh không hề có lý do đáng nói. Chính mình giúp chính mình, chính mình độ chính mình, còn có lý do gì đáng nói? Các Ngài đến giúp chúng ta - những chúng sanh mê hoặc điên đảo này, giúp chúng ta giác ngộ. Chư Phật Bồ Tát đang giác, chúng ta đang mê, ngoài mê ngộ ra, không có thứ nào là không giống. Chúng sanh cùng Phật khác nhau chính là chỗ mê ngộ. Một niệm giác thì chúng sanh thành Phật, một niệm mê thì Phật liền biến thành chúng sanh, việc này chính là như vậy.

Phật đến dạy bảo chúng ta, vì chúng ta giảng kinh nói pháp vẫn là thị hiện như nhau để cho chúng ta thấy. Từ bi đến tột đỉnh. Cái tướng này, chúng ta ở trong tình huống này gọi là “Danh Tự Tức Phật”. Hiện tại địa vị của chúng ta, hiện tại chúng ta học Phật, Phật gì vậy? Phật danh tự, tâm của chúng ta không giống như Phật, ngôn ngữ hành vi của chúng ta không giống như Phật, thế nhưng chúng ta ngày ngày đang niệm Phật, ngày ngày đang lạy Phật, ngày ngày đang tụng kinh, cảnh giới của chúng ta hoàn toàn không có chuyển đổi, hay nói cách khác là hữu danh vô thực, ở trên danh tự mà thôi, vẫn cứ phải luân hồi sáu cõi. Các vị phải nên biết, chúng ta ở trên danh tự thời gian thật dài, vô lượng kiếp đến ngày nay đều ở ngay trên danh tự. Làm sao biết được? Nếu như không phải ở ngay trong danh tự thì bạn đã vãng sanh rồi. Ngày trước lão cư sĩ Lý Bĩnh Nam thường nói, người niệm Phật thì nhiều, người vãng sanh thì ít, một vạn người niệm Phật chân thật vãng sanh cũng chỉ có ba đến năm người. Do nguyên nhân gì? Trong một vạn người niệm Phật này chỉ có ba người đến năm người địa vị được nâng cao, Quán Hành Vị, họ vãng sanh rồi, những người khác không thể vãng sanh là Danh Tự Vị. Cho nên chúng ta phải nghĩ lại xem, làm thế nào làm cho chính mình từ Danh Tự Vị nâng lên Quán Hành Vị thì vấn đề này liền được giải quyết.

Đại sư Trí Giả thị hiện cho chúng ta chính là Quán Hành Vị, cho nên khi Ngài vãng sanh, các học trò hỏi Ngài: “Thưa lão sư! Ngài vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là phẩm vị gì?”. Ngài nói: “Phẩm vị thứ năm”. Phẩm thứ năm là ngũ phẩm Quán Hành Vị mà trên kinh Hoa Nghiêm đã nói. Hay nói cách khác, Ngài từ Danh Tự Tức Phật nâng lên đến Quán Hạnh Tức Phật. Các vị phải nên biết, Quán Hạnh Tức Phật chúng ta có thể làm đến được, mỗi một người đều có thể làm đến được, cho nên pháp môn này có thể phổ độ chúng sanh. Lại hướng lên vị thứ bên trên thì chúng ta không làm được. Quán Hành Vị ở trong Tịnh Độ gọi là công phu thành khối, lại hướng lên trên đó là nhất tâm bất loạn, vậy thì khó rồi, không dễ dàng. Cho nên chúng ta phải nên biết, vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, thấp nhất phải chuẩn bị những điều kiện này. Đại sư Thiên Thai là từ trên cương lĩnh mà nói, trước tiên nắm lấy được cương lĩnh.

Trong năm phẩm, năm cương lĩnh, cương lĩnh thứ nhất là “tùy hỉ”.Chúng ta có rồi, chúng ta nghe được kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, chân thật sanh tâm hoan hỉ. Đây chính là nói rõ, trong đời quá khứ bạn đã từng nghe Phật nói qua bộ kinh này. Nếu như bạn không có túc căn này, ngày nay gặp được pháp môn này, tâm hoan hỉ không thể sanh khởi. Bạn không nên cho rằng việc này quá dễ dàng, ta vừa xem vừa thấy thì liền hoan hỉ, làm gì mà khó đến như vậy? Nếu bạn cho rằng dễ dàng như vậy, bạn thử đi hỏi những người học Phật khác xem, họ có chịu tu hay không? Bạn thử hỏi người tham Thiền, người học Mật, học các tông phái khác, bạn nói với họ, họ lắc đầu, họ không tin tưởng. Thậm chí họ còn nói, bổn hội tập này là của cư sĩ biên không đáng tin, phải nên đọc nguyên bản dịch. Bạn nói xem, có phiền phức hay không? Cho nên “tùy hỉ” không phải là việc dễ làm, chứng minh bạn có nền tảng của thiện căn phước đức sâu dày.

Cương lĩnh thứ hai là “đọc tụng”. Việc này chúng ta chân thật phải dụng công, ngày ngày phải đọc. Đối với nghĩa lý trong kinh điển, mỗi ngày phải giảng giải, mỗi ngày phải nghiên cứu thảo luận. Nghĩa lý trong kinh điển sâu rộng vô tận, đích thực từ sơ phát tâm đến Như Lai quả địa, ý nghĩa của bộ kinh này mãi mãi thể hội không cùng tận. Đọc một lần thì có được một lần ngộ, đọc mười lần thì có được mười lần ngộ, cho nên đọc mới sanh tâm hoan hỉ. Càng thảo luận càng tường tận, hôm nay thấu hiểu hơn một chút, ngày mai thảo luận lại hiểu thêm chút nữa. Đạo lý trong đó là không có cùng tận, không nên cho rằng ta hiểu được nhiều như vậy, đại khái thì được rồi, thật ra thì kém rất xa. Cho nên đọc tụng, nghe giảng, nghiên cứu, thảo luận, đó chính là bài khóa rất quan trọng của mỗi ngày. Những việc này hiện tại chúng ta đều làm được, nhất là khó được nhân duyên thù thắng như chúng ta. Giảng đường này mỗi ngày giảng kinh Vô Lượng Thọ, một năm 360 ngày không có ngày nào gián đoạn. Các vị thử nghĩ xem, duyên này đi đến đâu để tìm?

Thế nhưng các đồng tu phải nên ghi nhớ, vạn nhất không nên nghĩ rằng, thứ bảy hôm nay đến nghe, ngày mai vẫn là giảng cái này, có thể không cần đi nghe, vậy thì bạn sai rồi. Ngài mai đến nghe thì lại có chỗ ngộ mới, không như nhau. Không nên cho rằng ngày mai pháp sư trẻ đang học giảng kinh, đại khái không có giảng được thứ gì, vậy thì bạn hoàn toàn sai rồi. Pháp sư sơ học có lúc trí tuệ của chúng ta không thể nào nghĩ đến, họ có một hai câu phát minh chúng ta không hề nghĩ đến. Nếu bạn không đến thì bạn đã bỏ sót rồi, chẳng phải bỏ sót đáng tiếc hay sao? Cho nên không luận người nào giảng kinh, cho dù đồng tu đạo hữu cư sĩ tại gia giảng kinh, bạn đến nghe đều có chỗ ngộ, đều có chỗ tốt. Cho nên phải tạo thành thói quen hiếu học, hoan hỉ đọc tụng, ưa thích nghe giảng. Cho đến những đồng tu phát tâm muốn học giảng kinh, không luận xuất gia hay tại gia, việc nghe giảng đó càng quan trọng. Bạn học giảng kinh mà bạn không nghe kinh thì làm sao có thể giảng kinh? Kinh này nếu muốn giảng được tốt thì trước tiên phải biết nghe. Biết nghe mới biết giảng, bạn không biết nghe thì làm sao bạn biết giảng? Người biết nghe kinh thì nghe đạo lý, người không biết nghe kinh thì nghe náo nhiệt, vậy thì không ý nghĩa gì. Cho nên người biết nghe kinh, đơn giản mà nói, họ có lĩnh ngộ, họ có thể ngộ nhập. Người không biết nghe kinh, như thông thường nói là ủng hộ đạo tràng, không có chỗ ngộ, gọi là “tâm bất tại yên”, vậy thì không có được lợi ích. Cho nên điều kiện thứ hai là hoan hỉ đọc tụng, ưa thích nghe giảng, phẩm thứ này là nguyên tắc thứ hai.

Cương lĩnh thứ ba là “nói pháp”.Bạn đem cái ngộ của bạn, bạn đem cái tâm đắc của bạn, bạn đem cái ưa thích Phật pháp của bạn, ưa thích kinh Vô Lượng Thọ, ưa thích thế giới Tây Phương Cực Lạc, những chỗ tốt mà bạn có được này hoan hỉ nói với người khác, cùng chia xẻ với tất cả đại chúng, đây gọi là nói pháp. Nói pháp không nhất định là ngồi ở trên bụt giảng nói pháp, nếu bạn biết học thì từ sáng đến chiều đều là nói pháp. Gặp người nào liền đem cái hiểu này nói với họ. Người ta nói bạn là mê tín. Mê được tốt, càng mê càng tốt, không sợ người ta nói chúng ta mê tín, nơi nơi làm tấm gương tốt cho mọi người. Bạn thấy trong tôn giáo nói “truyền phước âm”, chúng ta đang chân thật truyền phước âm. Một câu danh hiệu “A Di Đà Phật” này chính là phước âm vô thượng. Không luận ở bất cứ chỗ nào, không luận ở bất cứ trường hợp nào, khi chào hỏi với người, chắp tay niệm “A Di Đà Phật”. Bạn phải nên biết, cử động nhỏ này của chúng ta đã độ được rất nhiều chúng sanh. Những người chung quanh xem thấy, rất nhiều người không học Phật vừa xem thấy kiểu dáng như vậy, hình tượng này rơi vào trong A Lại Da Thức của họ. Hình tượng của Bồ Tát, câu danh hiệu A Di Đà Phật này cũng rơi vào trong A Lại Da Thức là đã gieo vào hạt giống Kim Cang, đây chính là được đại lợi ích. Bạn xem, chúng ta gọi là bao nhiêu người được đại thiện lợi.

Nhà ăn Cư Sĩ Lâm đang không ngừng cải tiến, mọi người đều hoan hỉ. Hiện tại lầu hai và lầu một đều bình đẳng. Vốn dĩ chúng ta ăn thức ăn là bình đẳng nhưng dụng cụ ăn thì không bình đẳng, trên lầu thì dường như cao cấp hơn một chút. Hiện tại mọi người xem thấy, dường như trên lầu dưới lầu không như nhau, kỳ thật nội dung hoàn toàn như nhau. Hiện tại dụng cụ ăn bên ngoài xem cũng bình đẳng, trong ngoài đều bình đẳng. Tôi thường hay khuyên bảo các đồng tu, muốn mời khách tốt nhất là đem tiền mời khách tặng cho Thôn Di Đà, chúng ta đến nơi đây để mời khách. Bạn muốn mời những thân thích bạn bè, mời đến đây thì quá tốt. Mời những ai vậy? Người chưa tin Phật, mời họ đi đến đây.

Thế nhưng chúng ta phải nghĩ đến “nói pháp” trong phẩm vị thứ năm, nhà ăn bên ngoài vẫn cần phải quan tâm chăm sóc. Đến làm cái gì? Đến để độ chúng sanh, không phải thật đến để ăn cơm. Bạn đến nhà ăn bên ngoài, những người cùng ăn cơm với bạn, bạn đều phải độ họ. Hình tượng của chúng ta phải làm ra hình tượng của Phật Bồ Tát. Đồng tu tại gia chúng ta ăn cơm ở nhà ăn bên ngoài, trên tay đeo vòng chuỗi hạt để người ta xem thấy, có những lúc vòng chuỗi cũng nên đeo vào cổ. Người ta nói, người tại gia không nên đeo vòng chuỗi cổ. Tôi liền hỏi họ, người tại gia không thể đeo vòng chuỗi cổ là nói ở trong bộ kinh nào vậy, tìm ra cho tôi xem? Trên kinh không có mà. Trên kinh không có vậy thì người tại gia vì sao không thể đeo vòng chuỗi? Đeo chuỗi hạt không biết độ bao nhiêu người, người ta vừa nhìn thấy bạn đeo chuỗi hạt liền biết được đó là A Di Đà Phật, bạn có biết không? Trong A Lại Da Thức của họ ấn tượng A Di Đà Phật ghi lại được sâu hơn. Đây là độ chúng sanh. Chúng ta nói chuyện là nói Phật pháp, cho nên mấy người đến nhà ăn để ăn cơm là để làm gì? Là để diễn kịch, tìm một hai người cố ý muốn hỏi, một hai người này chuyên môn để giải đáp, là để cho những người ăn cơm đó nghe, chẳng phải bạn đã đến nhà ăn để nói pháp rồi sao. Thực tế nếu không đáp ra được vấn đề cũng không hề gì, nói với họ buổi tối mỗi ngày Cư Sĩ Lâm có giảng kinh, đến nơi đó nghe chẳng phải đã giải quyết rồi hay sao? Bạn thấy, như vậy liền đem những người này đến nơi đây để nghe giảng kinh. Cho dù quen biết hay không quen biết thảy đều phổ độ. Chúng ta phải hiểu được đạo lý này. Nếu biết cách làm như vậy, đây chính là nói pháp.

Phương thức nói pháp rất nhiều, đặc biệt là phải biết tùy cơ nói pháp, hiện tại chúng ta gọi là cơ hội giáo dục, mỗi một giờ khắc, mỗi một nơi chốn, mỗi một người đều không bỏ qua. Chúng ta đi du lịch bằng máy bay, đồng hành trên một chiếc máy bay đều là đối tượng chúng ta hóa độ. Mang theo một ít phẩm vật nhỏ kết duyên, chuỗi hạt, sách Phật, sách thiện nhỏ, có rất nhiều người đều hoan nghênh. Khi tặng, không nên tặng ở phía dưới, cầm đưa lên để mọi người đều xem thấy và nói: “Này, tặng cho bạn”. Người không ưa thích, thiện căn chủng tử đó đều đã trồng vào A Lại Da Thức của họ. Phương thức thì rất nhiều, để mọi người đều xem thấy. Có người ưa thích thì họ sẽ hỏi xin bạn, người không ưa thích cũng đã nhìn thấy vào mắt, cũng đã lưu vào trong A Lại Da Thức của họ rồi. Cho nên bạn nhất định phải hiểu phương pháp, phương tiện khéo léo. Bồ Tát có trí tuệ, có vô lượng phương tiện khéo léo, có thể khiến cho tất cả chúng sanh được đại thiện lợi. Bạn không có phương tiện khéo léo thì họ làm sao có được đại thiện lợi? Cho nên trong cương lĩnh “nói pháp”, nội dung rất là phong phú, chính mình phải biết thể hội. Nếu có thể thể hội, phải chân thật làm được.

Cương lĩnh thứ tư gọi là “khiêm tu lục hòa”. Chúng ta học Phật, chúng ta niệm Phật, một lòng một dạ cầu sanh Tịnh Độ, ngay trong cuộc sống thường ngày làm thế nào để trải qua ngày tháng? Học tập cương lĩnh Bồ Tát hạnh.

Việc thứ nhất, phải học bố thí.

Trong bố thí quan trọng nhất là bố thí Phật pháp, nhất là ở trong khu vực không có Phật pháp, khu vực không có niệm Phật, chúng ta càng phải nỗ lực bố thí.

Bắt đầu từ năm nay, tôi tiếp nhận lời mời của đồng tu Hong Kong, tuần lễ thứ nhất của mỗi tháng đi giảng ba ngày. Tôi vốn dĩ rất lãnh đạm đối với lời mời này, nhưng Cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói với tôi là việc giảng kinh tại Hong Kong rất quan trọng nhưng không có người giảng, phải nên đi giảng, nên tôi mới nhận lời. Nơi chốn giảng kinh ở Hong Kong là thuê của Trung tâm Phúc lợi đường Kim Sa Chủy. Nơi này có thể dung chứa được sáu – bảy trăm người, cũng lớn gần bằng như giảng đường này của chúng ta. Đồng tu bên đó rất phát tâm, có người phát tâm bỏ tiền ra thuê một ngày, công đức này thì thật không thể nghĩ bàn, đây chính là học bố thí cúng dường. Vào hai tháng trước tôi mới biết, thuê mướn là phải thuê cả ngày. Ngày trước chúng ta ở Hoa Kỳ, thuê chỗ của người ta là tính giờ, tôi tưởng rằng Hong Kong cũng là tính giờ, nhưng Hong Kong không phải vậy, phải thuê cả ngày. Thuê cả ngày nhưng chúng ta mỗi ngày chỉ giảng có hai giờ đồng hồ, còn nhiều thời gian như vậy chẳng phải là đáng tiếc hay sao? Cho nên tôi liền đề xướng niệm Phật, lợi dụng trường hợp này để niệm Phật. Tôi nói, mọi người ở nơi đây niệm Phật cũng giống như đả Phật thất vậy. Ngày đầu tiên tôi cúng trai, tôi đến phát khởi, chúng ta đặt cơm hộp ở trong nhà hàng chay Hong Kong, chúng ta chiêu đãi những người ở nơi đây niệm Phật ăn cơm, cung cấp trà nước điểm tâm. Khi vừa đề xướng thì người hưởng ứng rất nhiều. Hiện tại mọi người đều cảm thấy tai nạn rất nhiều. Đồng tu bên đó báo cáo với tôi là chúng ta tìm biện pháp thuê chỗ thêm vài ngày, chúng ta tổ chức pháp hội Phật thất. Tôi nói, rất tốt! Tôi đến giảng kinh ba ngày, các vị cố gắng chân thành ở nơi đó niệm Phật bảy ngày. Cho nên, cũng có rất nhiều đồng tu ra tiền, ra sức để thành tựu sự việc này. Đây là chúng ta kiêm tu bố thí, công đức chân thật. Tôi vốn dĩ cho rằng người niệm Phật, dự tính ban đầu đại khái chỉ có năm - sáu mươi người, không hề nghĩ đến ngày đầu tiên thì liền có hơn 200 người. Quá tốt. Tôi xem thấy tình hình này, biết được Hong Kong vẫn còn cứu được, không đến nỗi tai nạn quá lớn. Vì sao vậy? Có nhiều người như vậy đang chân thành niệm Phật, rất là hiếm có. Đây là chúng ta kiêm tu bố thí trong Lục độ.

Việc thứ hai, phải học trì giới.

Trì giới Ba La Mật chính là thủ pháp, giữ qui củ, quyết định không làm những việc trái pháp. Chúng ta ở ngay trong đạo tràng này, bạn có thể yêu thương đạo tràng, có thể tuân thủ qui củ, công đức của bạn liền rất lớn. Bạn không giữ qui củ, nhiễu loạn đạo tràng, phá hoại đạo tràng, tội nghiệp đều ở địa ngục. Các vị đọc qua Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo kinh thì các vị liền tường tận, đọc qua Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện kinh thì các vị liền thấu hiểu. Con người ở thế gian này rất ngắn, tại vì sao không làm việc tốt? Tại vì sao phải tạo ác? Tạo ác thì trước mắt chiếm được một chút tiện nghi, tiện nghi trước mắt bạn có thể hưởng thụ được bao nhiêu? Khổ báo về sau thì không thể tưởng tượng. Sự thật này không thể không tường tận. Sau khi hiểu rõ rồi, tuyệt đối sẽ không làm việc ác, liền sẽ nỗ lực thành thật thủ pháp, giữ qui củ. Đây là trì giới Ba La Mật.

Việc thứ ba, phải học nhẫn nhục.

Nhẫn nhục là chịu đựng, không luận thế pháp hay Phật pháp, phải có tâm dài lâu, phải có nghị lực thì bạn mới có thể có thành tựu. Trên kinh Kim Cang Phật đã nói: “Tất cả pháp đắc thành ở nhẫn”. Bạn không có tâm nhẫn nại thì bạn không thể thành tựu, câu Phật hiệu này không niệm được tốt. Nhẫn nại mà niệm, tiếp tục mà niệm thì sẽ niệm tốt.

Việc thứ tư, phải học tinh tấn.

Tinh là tinh thuần, chuyên tu một môn, một môn thâm nhập, miên mật không thôi, huân tu thời gian dài thì liền có tiến bộ, chứ không phải là tạp tu, không phải là tạp tiến. Đây là tinh tấn.

Việc thứ năm, phải học thiền định.

Thiền định là chính mình có chủ trương, không bị cảnh giới bên ngoài làm dao động, đây là thiền định. Phải nên biết được, người xưa sớm đã nói qua “pháp nhược, ma cường”, chúng ta rất khó gặp được chánh pháp, thế nhưng người không tin chánh pháp thì nhiều, người phê bình nhiều, người gây rối sanh sự nhiều, chúng ta nghe rồi tín tâm dao động thì rất là đáng tiếc. Chân thật là “trăm ngàn muôn kiếp khó gặp được”, gặp được nghe người ta nói vài câu chúng ta liền thoái tâm, liền dao động là chúng ta không có thiền định, không có sức định, cũng chính là chúng ta không có trí tuệ, không có chủ tể.

Trí tuệ chính là tất cả tường tận, thông đạt, thấu suốt.

Cái gì gọi là kiêm tu? Kiêm tu hoàn toàn là tự lợi. Tu Ba La Mật mà vì tự lợi gọi là kiêm tu, nếu như là lợi tha thì gọi là chánh tu, cho nên điều sau cùng gọi là “chánh tu lục độ”. “Chánh tu lục độ” là chính mình công phu đã thành tựu, đã nắm chắc được phần rồi, lúc này hoàn toàn là lợi tha, không phải vì tự lợi mà tu. Vì lợi tha mà tu là chánh tu, đó là Bồ Tát hạnh chân thật. Các vị nghĩ xem, năm điều này chúng ta làm được. Đại sư Trí Giả cả đời chính là làm năm việc này. Năm việc này là Thế Tôn đã nói ở trong kinh Pháp Hoa, đây là đệ tử chân thật của Như Lai, đây là đệ tử vừa đủ tiêu chuẩn trong hàng ngũ đệ tử Như Lai, không phải là rất cao, vừa đủ tiêu chuẩn. Thế nhưng có được loại công đức này, niệm Phật liền quyết định có thể được vãng sanh. Đại sư Trí Giả vì chúng ta thị hiện, chúng ta phải lưu ý, phải nỗ lực học tập.

Có một số đồng tu nói là họ rất muốn học nhưng phiền não của họ không đoạn được, tham-sân-si-mạn, phải quấy nhân ngã không thể hàng phục, rất muốn hàng phục nhưng không phục được. Thực tế mà nói, câu Phật hiệu này chân thật thì được rồi, nếu Phật hiệu không thể hàng phục thì phiền não tập khí rất nặng, do đó phải dùng phương pháp khác để giúp đỡ. Niệm Phật là chính. Nếu Phật hiệu có thể hàng phục được phiền não, ý niệm của phiền não vừa khởi, lập tức liền dùng một câu A Di Đà Phật thay thế ý niệm này đi thì công phu niệm Phật này liền có lực. Hay nói cách khác, phiền não tập khí khởi hiện hành là công phu niệm Phật của bạn không có lực, là do ý niệm của bạn tùy thuận phiền não, không hề tùy thuận Phật hiệu, bạn không biết dụng công, bạn không biết niệm Phật. Người biết niệm Phật, làm gì có chuyện không thể phục được phiền não? Người xưa nói “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Cái gì gọi là giác? Phật hiệu chính là giác. Ý niệm vừa khởi, lập tức đem Phật hiệu đề khởi lên. Pháp môn Tịnh Độ thù thắng chính ngay chỗ này.

Thiên Thai tông cũng có phương pháp, phương pháp này gọi là “Ngũ Đình Tâm Quán”, là giúp chúng ta tu tâm thanh tịnh, giúp chúng ta phục phiền não, nó có năm biện pháp.

Thứ nhất là “quán bất tịnh”. Đoạn tâm tham, phương pháp này tốt. Không chỉ là quán thân bất tịnh, bạn xem thấy cái thân này, ở tại Singapore một ngày mà không tắm thì trên người có mùi thật là khó ngửi, có gì mà đáng yêu đâu? Lại nhìn vào hoàn cảnh đời sống của chúng ta, có thứ nào mà không ô nhiễm? Nước ô nhiễm, không khí ô nhiễm, thế giới Ta Bà này có cái gì đáng yêu đâu? Cho nên bạn đối với thân này, đối với hoàn cảnh bên ngoài, loại ý niệm tham ái đó bạn phải mau đoạn dứt. Hiện tại nói quán bất tịnh thì nói được thù thắng hơn nhiều so với thời xưa, bởi vì hoàn cảnh đời sống của chúng ta thảy đều bất tịnh, bất tịnh rất là rõ ràng, ô nhiễm nghiêm trọng, trược ác đến cùng tột. Không chỉ chúng ta không có tham ái đối với thân này, mà đối với hoàn cảnh đời sống của chúng ta cũng không khởi lên tâm tham ái. Xã hội này vì sao mà loạn? Chúng ta ăn đồ ăn chay đều có nông dược. Nghe nói gạo đều có chứa phân hóa học trong đó (loại gạo xem thấy đẹp). Lão sư Lý lúc trước nói, ngày nay chúng ta trải qua ngày tháng như thế nào vậy? Ba bữa ăn độc, ăn cơm là ăn độc, cho nên sanh khởi nhiều bệnh kỳ kỳ quái quái, bệnh từ miệng mà vào. Không dừng lại tâm tham.

Thứ hai là “từ bi”.Từ bi dừng tâm sân hận. Cũng chính là nói, phải thường bồi dưỡng tâm yêu thương của chính mình, thương yêu tất cả chúng sanh, không chỉ là yêu người, mà thương yêu tất cả chúng sanh, đem tâm sân hận đổi lại.

Thứ ba là “quán nhân duyên”.Quán nhân duyên có thể phá đi tâm ngu si, có thể phá si. Phật dạy chúng ta quán 12 nhân duyên. Quán 12 nhân duyên đích thực có thể phá đi quan niệm ngu si của chúng ta. Đây là nói đoạn tham-sân-si-mạn.

Thứ tư là dạy chúng ta quán 18 giới, quán 5 ấm, quán 12 xứ.Những pháp quán này có thể phá ngã chấp, có thể phá ngã kiến, thế nhưng pháp quán này cùng với pháp quán nhân duyên cũng rất gần giống nhau, cho nên những đại đức sau này của tông Thiên Thai đem pháp quán này đổi thành niệm Phật, chính là “Quán Phật Quán”, bởi vì niệm Phật đích thực có thể phục tất cả phiền não. Đây là phương pháp tốt, cải biến rất hay, cải biến rất tuyệt. Thế nhưng Phật hiệu phải biết niệm, tốt nhất là ý nghĩa của niệm Phật phải hiểu, phương pháp phải rõ ràng, lý luận phải tường tận, cảnh giới tốt nhất cũng phải biết, thì bạn sẽ hoan hỉ niệm Phật. Bạn biết niệm Phật như thế nào, đích thực có thể nói lợi ích công đức thù thắng không thể nghĩ bàn. Bạn niệm Phật không có được lợi ích là bạn không tường tận đối với phương pháp, lý luận, cảnh giới. Cái không tường tận này chính là có miệng mà không có tâm, vậy thì không có được lợi ích gì.Người xưa nói rất hay: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, đau mồm rát họng cũng chỉ uổng công”. Người nói những lời nói này đều là người tái sanh, cho nên chúng ta phải hiểu rõ phương pháp, lý luận, cảnh giới. Hơn nữa, những phương pháp, lý luận, cảnh giới này trên kinh này đều có nói. Bộ kinh này bạn đọc thấu suốt rồi, bạn đều hiểu rõ thì bạn sẽ rất hoan hỉ mà niệm Phật. Không chỉ ngay đời này bạn hoan hỉ, mà đời đời kiếp kiếp đều hoan hỉ, bạn sẽ cảm thấy niệm Phật mới là đại thọ dụng, niệm Phật là đại lợi ích chân thật. Có người nào mà không cầu lợi ích chứ? Ai mà không muốn học tốt, học hay? “Thiện trung chi thiện, lợi trung chi lợi”, không gì hơn niệm Phật. Ngày nay chúng ta niệm Phật không có được lợi ích gì chính là bởi vì phương pháp, lý luận, cảnh giới không hề biết tí gì, cho nên câu Phật hiệu này niệm không được đúng pháp, không như lý, không như pháp. Nếu bạn muốn niệm Phật như lý như pháp mà không nghe kinh thì không được, không học kinh Vô Lượng Thọ thì không được. Học kinh Vô Lượng Thọ, nghe kinh Vô Lượng Thọ chính là tinh tấn một môn thâm nhập.

Ngày nay Cư Sĩ Lâm có được duyên thù thắng này, tôi thường hay nói với mọi người, giảng đường này có Phật Bồ Tát gia hộ, niệm Phật đường có Phật Bồ Tát, có long thiên thiện thần cùng niệm Phật với chúng ta, cho nên không khí của nó không như nhau, người hiện tại gọi là từ trường, từ trường không như nhau. Có phải là Phật Bồ Tát, long thiên thiện thần đặc biệt ưa thích Singapore này không? Không phải vậy, nếu như đặc biệt ưa thích Singapore thì các Ngài có tư tâm. Tâm riêng tư thì làm gì là Phật Bồ Tát chứ? Tất cả chư Phật Bồ Tát, thiên long quỷ thần cùng với chúng ta là cảm ứng tương thông. Chúng ta có cảm họ liền có ứng, chúng ta chân thật muốn học thì các Ngài hoan hỉ, các Ngài liền thường đến chăm sóc chúng ta, thường hay đến xem chúng ta. Nếu như chúng ta không muốn học thì các Ngài không đến. Mọi người nhất định phải tường tận đạo lý này. Chư Phật Bồ Tát không có lòng tư riêng. Chúng ta có tâm thành, tâm thành kính thì cảm. Một phần thành kính thì liền có được một phần cảm ứng, mười phần thành kính thì liền có mười phần cảm ứng. Cho nên, có một số đồng tu biết được, rất rõ ràng, niệm Phật đường có lúc có rất nhiều Phật Bồ Tát, có lúc chỉ có một hai vị Phật Bồ Tát. Tại vì sao có lúc Phật Bồ Tát nhiều, có lúc thì ít? Sức mạnh cảm ứng của các vị. Tâm của các vị càng chân thành, càng thanh tịnh thì Phật Bồ Tát nhiều. Khi các vị niệm Phật, một mặt niệm Phật một mặt khởi vọng tưởng, thì Phật Bồ Tát liền đi hết, ít đi. Chính là đạo lý này. Có lúc đích thực không có Phật Bồ Tát, thế nhưng thần hộ pháp vẫn có, quyết định có thần hộ pháp đang quan tâm. Phật Bồ Tát cũng thường hay đến để quán sát, thường hay đến để an ủi chúng ta, đến để xem chúng ta. Chúng ta thể hội những việc này là khích lệ rất lớn đối với chúng ta. Chúng ta phải nên nỗ lực, phải nên tinh tấn, không cô phụ chư Phật Bồ Tát.

Cuối cùng của Ngũ Đình Tâm Quán là “quán sổ tức”. Sổ tức là đoạn tâm tán loạn, giúp chúng ta được định. Quán sổ tức, thực tế mà nói, khi niệm Phật đếm số dùng tràng hạt để niệm, đếm số niệm Phật chính là quán sổ tức hợp cùng với niệm Phật. Có người không dùng tràng hạt, dùng tâm để đếm số cũng là biện pháp tốt, đây đều là xem thuận tiện của mỗi người. Dùng tràng hạt thì có lợi ích rất lớn. Không phải chúng ta niệm một câu Phật hiệu là lần một hạt, như vậy nhiếp tâm tương đối khó. Niệm bằng cách nào? Niệm ba danh hiệu lần một hạt thì dễ dàng nhiếp tâm, không phải niệm một câu Phật hiệu thì lần một hạt, mà niệm ba danh hiệu thì lần một hạt. Niệm được rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo. Không phải niệm A Di Đà Phật một, A Di Đà Phật hai, A Di Đà Phật ba, vậy thì sai rồi, trong đó liền có xen tạp. Số tự rất rõ ràng, nhưng đếm số niệm thì không. A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, rất rõ ràng, ba danh hiệu lần một hạt, dễ dàng nhiếp tâm. Hiện tại rất nhiều đồng tu niệm Phật tâm này vẫn không thể nhiếp, tâm vẫn là tán loạn thì nên dùng phương pháp này. Phương pháp này chính là quán sổ tức trong ngũ đình tâm quán hợp cùng với niệm Phật. Bạn không ngại thì thử xem, sẽ có hiệu quả. Luôn phải nghĩ phương pháp đối trị phiền não tập khí của chính mình, sau đó chân thật là dùng tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng niệm Phật, quả báo liền thù thắng, chúng ta vãng sanh Tịnh Độ, không chỉ ở phẩm vị thứ năm mà sẽ hướng lên trên cao. Đây là nhân tố yếu tố quyết định được sanh Tịnh Độ.

“Văn thị pháp dĩ, đắc đại thiện lợi”, trong cái đại thiện lợi này nói không cùng tận, thế nhưng chúng ta không có cách gì nói cho rõ ràng, chư Phật Như Lai đều nói không cùng tận.

Kinh văn: “Năng ư Phật sát, tu tập nhiếp thọ, mãn túc vô lượng đại nguyện”.

“Năng ư Phật sát” là nói thế giới Cực Lạc. “Tu tập” là nói những người vãng sanh đó. “Nhiếp thọ” đây là nói A Di Đà Phật. A Di Đà Phật nhiếp thọ chúng ta, không chỉ hiện tại nhiếp thọ, mà tương lai đến thế giới Tây Phương Cực Lạc vẫn là được A Di Đà Phật nhiếp thọ. Nhiếp thọ là cái gì? Dùng lời hiện tại mà nói thì mọi người dễ hiểu, đó chính là quan tâm bạn, chăm sóc bạn gọi là nhiếp thọ. Đến được thế giới Tây Phương Cực Lạc rồi, A Di Đà Phật chăm sóc bạn, A Di Đà Phật giúp đỡ bạn, A Di Đà Phật quan tâm bạn, vĩnh viễn không còn thoái chuyển. Người thế gian chúng ta quan tâm một người không đáng tin, thời gian lâu rồi thì họ liền chán ghét, thì họ không còn chăm sóc, cho nên người thế gian qua lại, mọi người nhất định phải nên biết, đó là hư tình giả ý, tuyệt đối đều không phải chân thật, không đáng tin. Qua lại với người thế gian một ngày thì tính một ngày, đừng nghĩ đến ngày mai, vậy thì ngày tháng sẽ trải qua được tốt. Nếu như bạn muốn nghĩ đến dài lâu thì ngày tháng khó qua. Đây là lời chân thật. Thế nhưng đến thế giới Cực Lạc, nhờ vào A Di Đà Phật, chư đại Bồ Tát, sự quan tâm chăm sóc của các bậc thượng thiện nhân, thì đó là thật, mãi mãi không hề thay đổi. Bạn nói xem, hoàn cảnh tốt đến dường nào! Đi tìm ở đâu cũng không thể tìm được. Chúng ta gặp được nếu không đi thì thật là đáng tiếc.

Mãn túc vô lượng đại nguyện”, câu nói này là Thế Gian Tự Tại Vương Phật khích lệ Bồ Tát Pháp Tạng, nguyện vọng của Ngài là viên mãn, nguyện vọng của A Di Đà Phật là muốn rộng độ tất cả chúng sanh hư không pháp giới, nguyện vọng này chân thật là quá to quá lớn. Chư Phật Bồ Tát cũng có nguyện vọng này. Thế nhưng thực tế mà nói, nguyện phổ độ pháp giới chúng sanh là có nhưng rất khó làm được, làm không được. Người thế gian chúng ta gọi là “tâm có thừa mà sức không đủ”, chư Phật Bồ Tát cũng có cảm xúc này. Thực tế mà nói, không phải chư Phật Như Lai không có năng lực này, mà là do chúng sanh không bằng lòng tiếp nhận, chúng sanh không chịu tin tưởng, không chịu học tập, việc này khó. Như Lai đích thực là có phương pháp, có lý luận, thế nhưng tất cả chư Phật Như Lai cùng với lý luận phương pháp mà chúng ta nói đều không thể sánh được với Bồ Tát Pháp Tạng. Cũng giống như vừa rồi chúng ta nói, Đại sư Thiên Thai dạy chúng ta phương pháp tu tâm thanh tịnh, dùng Ngũ Đình Tâm Quán đối trị tâm bệnh. Phương pháp của Pháp Tạng tuyệt diệu, một câu A Di Đà Phật thảy đều đối trị hết, làm gì mà phiền phức thế? Thực tế là cao minh.

Năm xưa, tôi ở đây giảng kinh Kim Cang. Bộ kinh Kim Cang này đã giảng hết bốn tháng. Trong lúc giảng có không ít các đồng tu nghe qua, trong kinh Kim Cang giảng cái gì? Giảng nói hai sự việc, Tôn Giả Tu Bồ Đề nêu ra hai vấn đề là “vân hà hàng phục kỳ tâm” và “ưng vân hà trụ”. Tâm là cái gì? Vọng niệm. Làm thế nào có thể phủ phục được vọng niệm của chúng ta? Đây là một vấn đề lớn. Vấn đề thứ hai, tâm của chúng ta phải nên an trụ ở nơi nào? Thích Ca Mâu Ni Phật nói nhiều đến như vậy, chúng tôi tốn thời gian hơn bốn tháng giải thích tường tận với các vị. Bạn nói xem, thật là phiền phức. Hiện tại có một số đồng tu đem những đĩa VCD chỉnh lý lại thành sách, có đến tám quyển lớn, so với kinh Vô Lượng Thọ giảng ký của chúng ta hiện nay là bốn quyển lớn thì nhiều hơn gấp đôi. Có một số đồng tu đến tìm tôi, hy vọng in sách này, tôi nói tôi vẫn chưa thấy, đợi tôi xem xong rồi hãy in. Tôi phải tìm thời gian để xem quyển này.

Nếu như bạn gặp được A Di Đà Phật thì quá đơn giản. “Vân hà hàng phục kỳ tâm?” Nam mô A Di Đà Phật thì được rồi. “Ưng vân hà trụ?” Nam Mô A Di Đà Phật, tâm trụ A Di Đà Phật thì không có việc gì. Bạn thử nghĩ xem, thật là đơn giản. Thiên kinh vạn luận, cho dù bất cứ nghi nan tạp chứng nào, một câu A Di Đà Phật bình đẳng đều giải quyết. Phương pháp này, chư Phật Như Lai lướt qua không nghĩ đến, A Di Đà Phật Ngài đã nghĩ đến, cho nên chư Phật tán thán A Di Đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”, mỗi mỗi đều bội phục đến năm vóc sát đất. Ngày nay chúng ta gặp được rồi vẫn do dự không quyết, vẫn hoài nghi, vẫn không muốn học, bạn liền biết được phước đức thiện căn thật là mỏng. Ở trong kinh điển Phật thường hay nói “thật là kẻ đáng thương”, những người nào đáng thương? Những người này là chân thật đáng thương. Kẻ đáng thương tuyệt đối không phải là chỉ người thế gian này chúng ta bần cùng, không có ăn, không có mặc, trải qua đời sống rất khổ, những người đó không phải là những kẻ đáng thương? Kẻ đáng thương là trăm ngàn muôn kiếp khó gặp được pháp môn này nhưng gặp rồi thì bỏ lỡ qua ngay trước mặt, hoặc giả là gặp được, cũng đến học được mấy ngày nhưng bị những người pháp môn khác khuyến cáo thì liền đi theo người khác, đây mới là kẻ chân thật đáng thương. Cho nên, kẻ đáng thương có hai loại. Một loại là ngay trong đời quá khứ có tu tích phước báo, họ có trí tuệ, có phước báo, trí tuệ này gọi là Thế Trí Biện Thông, không tin tưởng Phật pháp, không chịu tu học, sau khi chết rồi vẫn là phải luân hồi sáu cõi, loại người này chân thật là kẻ đáng thương. Có rất nhiều đại đức trong giới học thuật đem kinh Phật làm thành học thuật thế gian để xem, để nghiên cứu, không thể sanh tín tâm, không có nguyện lực, đương nhiên càng không thể nói y giáo phụng hành, đây cũng là thuộc về một loại người đáng thương.

Những năm đầu, tôi gặp được tiên sinh Phương Đông Mỹ. Phương tiên sinh đem Phật pháp giới thiệu cho tôi là từ quan điểm triết học, không phải Phật pháp, làm thành triết học để nghiên cứu. Vào lúc đó, Phương tiên sinh mới hơn 40 tuổi, tuổi trẻ, tôi 26 tuổi. Thầy nói với tôi, trong kinh điển của Phật giáo, triết học Phật kinh là đỉnh cao nhất của triết học trên thế giới, là hưởng thụ cao nhất của nhân sanh. Thầy còn nói, trong kinh Phật 80% là mê tín, 20% là triết học tối cao. Vào lúc đó, thầy có quan điểm này. Tôi tiếp nhận quan điểm này của thầy. Vì 80% chính là mê tín, Phật có mười tông phái, thầy chỉ học Tướng tông và Tánh tông, hai tông này là triết học, ngoài ra đều là mê tín. May mà sau khi thầy dẫn tôi vào cửa, duyên của tôi không tệ, thân cận Đại sư Chương Gia. Tôi theo Đại sư Chương Gia ba năm, mới biết được Phương tiên sinh nhìn thấy được chỉ là cái cửa lớn của nhà Phật, bên trong thì chưa có bước vào, chưa khế nhập được cảnh giới. Thế nhưng Phương tiên sinh không tệ, học rất chăm chỉ, rất nỗ lực, không ngừng đang đọc, cho nên đến cuối đời thái độ của thầy không như nhau. Nhất là sau khi tôi xuất gia, thường hay cùng ở chung với thầy, thầy xem thấy tôi thật làm, thầy cũng rất hoan hỉ, rất là tán thành. Vào lúc đó tôi xuất gia, thành thật mà nói, những thầy giáo, bạn học, bạn bè không một ai tán thành, đều nói tôi mê tín, chỉ riêng Phương tiên sinh tán thành. Phương tiên sinh nói, anh chọn đi con đường này là chính xác. Thầy đến cuối đời mới quy y, khi sắp gần đến 80 tuổi mới quy y. Cho nên, Sở tri chướng của các học giả, thành kiến rất sâu, luôn luôn cũng là bỏ lỡ qua ngay trước mắt, thật đáng thương. Nhất là đồng tu học Phật, học các pháp môn khác mà không tin tưởng niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ, đó là kẻ thật đáng thương trong những kẻ đáng thương nhất. Chúng ta thật cũng là người tái sanh, cũng là từ các pháp môn khác, đến sau cùng mới biết chính mình là kẻ đáng thương, phải mau quay đầu.

(Hết quyển 5)(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com