Mật Tạng Bộ 2_ No.950 (Tr.198 _ Tr.205)
BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT
NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH
_QUYỂN THỨ HAI_
NGHI QUỸ VẼ TƯỢNG
_PHẨM THỨ BA_
Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng con mắt Phật quán sát tất cả chúng sanh giới, rồi bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: “Này Bí Mật Chủ! Vì lợi ích hữu tình, cho nên nay Ta nói Đại Minh Vương Nghi Quỹ là điều mà tất cả Phật đã nói, là thượng thượng trong tất cả hình tượng Chân Ngôn Minh thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian. Hình dạng Bản Thân của Phật Đảnh Luân hay diệt tất cả tội, khiến cho tất cả hữu tình được Đại Niết Bàn (Mahā-nirvāṇa). Do Tam Ma Địa thù thắng nên sắc thân của Phật biến hóa mà hiện ra
_Nay Ta nói Pháp vẽ tượng Thế Tôn Phật Đảnh Luân Vương.
Trước tiên, người tu hành nên vào Mạn Trà La, theo Thầy nhận được Ấn Khế, Nghi Quỹ. Từng vào Phật Đảnh Luân Vương Đàn, hoặc Vô Năng Thắng Phẫn Nộ Đàn, hoặc Thắng Phật Đảnh Đàn, thấy Tam Muội Gia (Samaya) được thọ nhận Quán Đảnh (Abhiṣeka), được A Xà Lê (Ācārye) ấn khả Đạo Vô Thượng Niết Bàn…vào tu hành nên y theo Nghi Quỹ, nên làm Tiên Hành (Pháp thực hành trước tiên)
Pháp Tiên Hành làm xong, sau đó vẽ tượng. Khiến một đồng nữ Bà La Môn sinh trong Đại Tộc Tính, trao cho Trai Giới, khiến se dệt các sợi chỉ… y theo Giáo se dệt dây, hoặc y theo Giáo khác, hoặc y theo điều mà Như Lai Bộ đã nói, dệt thành tấm vải 6 khuỷu tay, ngang 4 khuỷu tay. Nếu không đủ thì 5 khuỷu tay cũng được. Hoặc viền tượng vẽ thì chủ yếu là mua vật dụng chẳng nên trả giá. Se dệt xong, dùng nước thơm tẩy rửa, loại bỏ lông tóc.
Vẽ tượng ấy nên dùng kỳ Bạch Nguyệt trong ba trường trai của Phật Thần Thông (tháng 1, tháng 5, tháng 9). Chọn người đầy đủ các Căn có niềm tin trong sạch nơi Tam Bảo để vẽ tượng. Trước tiên khiến tắm rửa sạch sẽ, mặc áo sạch mới, trao cho tám Giới, sau đó khiến vẽ.
Nên chọn ngày giờ đoan nghiêm thuận với Tú (Nakṣatra: sao Tú) Diệu (Grahā: sao Diệu) cát tường. Hoặc ở chuồng bò, hoặc ở Phật Đường tinh thất, hoặc nơi Thánh Hiền đắc Đạo. Lìa nơi chốn có đất dơ uế hôi thối, nước có loài trùng…. Đặt tấm vải rồi vẽ.
Trước tiên, ở chính giữa vẽ Đức Phật Thế Tôn ngồi tòa Sư Tử. Tòa ấy có mọi loại trang nghiêm, làm tướng Thuyết Pháp, ánh sáng lửa tràn khắp như bánh xe vâu quanh, từ đảnh đầu tuôn ra mọi loại ánh sáng, Đức Phật có đủ tướng Đại Trượng Phu, dựa cây Bồ Đề (Bodhi-vṛkṣa).
Cây Bồ Đề ấy có mọi loại lá như cây Chân Đa Ma Ni (Cintāmaṇi-vṛkṣa), hoặc ở cành cây treo lụa màu, hoặc báu Phệ Lưu Ly (Vaiḍurya), hoặc treo quả trái, hoặc treo chuông khánh, hoặc quả trái màu nhiệm của cõi Trời, hoặc kéo mưa, hoặc mọi loại hoa quả, hoặc các tướng nhỏ của cây Bồ Đề; hoặc trân châu, phệ lưu ly, xa cừ, san hô ngọc…đều vẽ ở phía trên. Hoặc ở trên cây có chúng chim Cát Tường đậu ở khoảng giữa. Hoặc làm mọi loại lá, mây sấm chớp tuôn mưa cùng giao nhau với lá. Làm Đại Bồ Đề Kiếp Thụ (Mahā-bodhi-kalpa-vṛkṣa). Đức Thế Tôn dựa lưng hai vai vào cái cây ấy
Bên phải Đức Phật vẽ Chuyển Luân Đại Vương như hình Luân Vương ngồi trên hoa sen trắng, làm thế quán nhìn Đức Phật, tân ấy màu vàng ròng có ánh sáng vòng khắp, thành tựu bảy báu, chỉ có Luân Bảo (Cakra-ratna: bánh xe báu) dùng ánh sáng vây quanh ngay trên hoa sen. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại quán nhìn Đảnh Luân Vương.
Ở bên trái Đức Phật, chẳng xa vẽ Bạch Tản Cái Đảnh Vương (Sitāta-patroṣṇīṣa-rāja) như hình Đại Vương. Thân ấy màu vàng ròng ngồi ngay trên hoa sen, tay cầm hoa sen, mắt quán nhìn Luân Vương.
Cách Bạch Tản Cái Phật Đảnh Vương chẳng xa, vẽ Cao Phật Đảnh (Abhyudgata-uṣṇīṣa) hình như Đại Vương, ngồi trên hoa sen trắng, tay cầm quả Câu Duyên chiêm ngưỡng Luân Vương.
Cách Đảnh Luân Vương chẳng xa, vẽ Quang Tụ Phật Đảnh (Tejorāśi-uṣṇīṣa) ngồi trên hoa sen trắng với mọi loại ánh sáng vây quanh, ngồi ở trong ánh sáng rực rỡ. Thân làm màu vàng ròng, tay cầm báu Chân Đa Ma Ni.
Ở bên dưới Quang Tụ Phật Đảnh Vương vẽ người Trì Tụng quỳ gối mà ngồi, chiêm ngưỡng Đảnh Luân Vương. Đức Luân Vương duỗi bàn tay tác Thí Nguyện Ấn ngó nhìn người Trì Tụng.
Gần Quang Tụ Đảnh Vương, hào quang tròn chẳng che chạm nhau, nên vẽ Thắng Phật Đảnh (Jaya-Uṣṇīṣa) thân hình màu vàng ròng, tay trái cầm vật báu, tay phải tác Thí Nguyện, mắt quán sát Luân Vương.
Nhóm như vậy đều là Phật Đảnh Vương, mỗi mỗi có hình như Đại Vương, đều có lửa sáng rực rỡ, thảy đều màu vàng ròng, ngồi trên hoa sen trắng.
Bên phải Đức Phật nên vẽ Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta-bhadra), tay cầm cây phất lông trắng. Bên trái Đức Phật vẽ Từ Thị Bồ Tát (Maitreya). Hai vị Bồ Tát này so sánh với thân của Đức Phật thì hơi nhỏ hơn.
Trước mặt Đức Phật, nên vẽ Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokiteśvara), Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ Bồ Tát (Vajra-pāṇi- guhyādhipati), mỗi vị đều ngồi trên hoa sen báu, thảy đều chắp tay làm thế lễ Phật.
Gần Phổ Hiền Bồ Tát nên vẽ Văn Thù Sư Lợi Đồng Chân Bồ Tát (Maṃjuśrī-kumāra-bhūta), Vô Cấu Tuệ Bồ Tát (Vimala-mati), Tịch Tĩnh Tuệ Bồ Tát (Śānti-mati), Vô Tận Tuệ Bồ Tát (Akṣaya-mati), Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśa-garbha), Hư Không Vô Cấu Bồ Tát (Gagana-vimala), Đại Tuệ Bồ Tát (Mahā-mati). Nhóm Đại Bồ Tát như vậy theo thứ tự mà vẽ, mỗi vị đều chắp tay, ngồi trên hoa sen làm thế lễ Phật, thân hình theo thứ tự nhỏ dần, tịch tĩnh đều làm màu vàng ròng với mọi loại trang nghiêm, dùng lụa mỏng nhẹ làm quần áo.
_Tiếp theo, chẳng gần chẳng xa Từ Thị Bồ Tát nên vẽ Phật Nhãn Minh Phi (Buddha-locana-vidya-rājñī), hình như Nữ Thiên, ngồi trên hoa sen báu với mọi loại trang nghiêm, thân như màu vàng ròng, mắt qán nhìn Chúng Hội, mặc áo lựa mỏng quấn quanh rồi tách ra, tay phải cầm báu Như Ý, tay trái tác Thí Nguyện, hào quang tròn trịa vòng khắp sáng rực rỡ, dáng của thân vắng lặng.
Cách Phật Nhãn Thánh Tôn chẳng xa, nên vẽ Phật Hào Tướng Tôn (Buddha-Ūrṇa-nātha) như hình nữ thiên, bên phải có sai biệt là tay phải cầm hoa sen, tay trái tác Thí Nguyện, mắt quán nhìn Luân Vương
Gần Phật Nhãn Tôn, ở bên dưới nên vẽ Tôn Na Lợi Đại Minh Phi (Śūndari-mahā-vidya-rājñī) có hình như Thiên Nữ với mọi loại Anh Lạc trang nghiêm, thân ấy màu xanh, tay cầm hoa sen, ngồi ở núi báu, quán nhìn Phật Thế Tôn
Gần đầu gối của Kim Cang Thủ nên vẽ Cam Lộ Quân Tra Lợi (Amṛta-kuṇḍali). Gần Tôn ấy vẽ Kim Cang Quân (Vajra-sena), Tô Ma Hô (Subāhu), Đảnh Hạnh () ba vị Thánh Giả này đều giự hình Đồng Tử với mọi loại Anh Lạch trang nghiêm thân ấy, đều đưa mắt chiêm ngưỡng Luân Vương, đều làm thế đáng sợ
Ở bên phải Quán Tự Tại Bồ Tát vẽ Hạ Da Ngật-Lý Phạ Đại Minh Vương (Hayagrīva-mahā-vidya-rāja) thân như màu lửa, làm hình phẫn nộ, mũi như khỉ vượn, dùng rắn trang nghiêm Anh Lạc, vòng đeo cánh tay, vòng đeo bắp tay, đầu cột buộc vòng hoa, làm thế ngắm nhìn Luân Vương
Gần vị ấy, nên vẽ Liên Hoa Tôn Na Lợi (Padma- Śūndari) có bốn cánh tay: Bên phải: tay thứ nhất cầm sợi dây, tay thứ hai tác Thí Nguyện. Bên trái: tay thứ nhất cầm cây búa, tay thứ hai cầm quả trái. Ngồi trên hoa sen.
Lại ở gần Luân Vương Phật Đảnh, vẽ Vô Năng Thắng Phẫn Nộ Vương (Aparājita-krodha-rāja), thân màu trắng có bốn mặt, chau mày giận dữ, mặc quần da cọp, dùng mãng xà làm vòng đeo tai, dùng Đắc Xoa Ca Long Vương (Takṣaka-nāga-rāja) làm dây lưng, dùng Bà Tô Chỉ Long Vương (Vāṣuki-nāga-rāja) làm Thần Tuyến, góc áo tách ra, bụng to thõng xuống, thân hình ngắn, dùng rắn độc trang nghiêm mão tóc, cắn môi bên dưới, thân tỏa ánh sáng rực rỡ lửa mạnh mẽ tròn trịa. Bên phải: tay thứ nhất cầm chày Kim Cang, tay thứ hai làm thế Kỳ Khắc. Bên trái: tay thứ nhất cầm Tam Kích Xoa (cái chỉa ba), tay thứ hai cầm cây búa. Mặt chính làm thế tách tiếng cười A Tra Tra Hạ Sa (Aṭṭa hāsa) từ miệng tuôn ra mọi loại sách tướng của lửa mãnh mẽ,Mặt bên phải chiêm ngưỡng Luân Vương, mặt bên trái quán sát người Trì Tụng, mặt trên đấu quán sát tất cả Chúng Hội, trụ trên hoa sen báu. Nên như vậy vẽ Vô Năng Thắng Phẫn Nộ Vương
Ở bên dưới Tôn ấy vẽ Địa Thiên (Pṛthivi-deva) thân màu trắng, dùng hai bàn tay nâng vật khí chứa đầy hoa báu, quỳ hai gối sát đất.
Gần Địa Thiên vẽ Ni Liên Hà Thần (Nairañjanā-devatā :thần sông Ni Liên Thiền) màu xanh đen như hình Long Nữ có bảy cái đầu, chắp tay làm thế lễ Phật.
Gần Ni Liên Thiền Hà Thần, vẽ Phạ Lý Ca Đại Long Vương (Valika-mahā-nāga-rāja), Mẫu Chỉ Lân Đà Long Vương (Mucilinda-mahā-nāga-rāja) sát gần nhau. Hai vị Đại Long Vương này từng thấy vô lượng chư Phật, đầu có bảy cái đầu, chắp tay quỳ sát đất
Gần Địa Thiên vẽ A Nan Đà Long Vương (Ananta-nāga-rāja), Vô Nhiệt Não Long Vương (Anavatapta-nāga-rāja), Sa Kiệt La Long Vương (Sāgara- nāga-rāja)
Bên phải Đại Tuệ Bồ Tát vẽ Bạch Y Quán Tự Tại (Pāṇḍara-vāsini–avalokiteśvara) dùng vòng hoa sen trang nghiêm thân ấy, khoác lụa báu với góc áo tách ra, tay phải cầm báu Chân Đa Ma Ni, tay thứ hai (tay trái) tác Thí Nguyện. Vị Bồ Tát này là mẹ (mẫu) của Liên Hoa Tộc (Padma-kulāya), nên ngồi ở trên hoa sen.
Gần Phật Hào Tướng, nên vẽ Ma Mạc Chỉ Bồ Tát (Māmakī) màu xanh tím nhạt với mọi loại Anh Lạc trang nghiêm, ngồi trên hoa sen, dáng thân vắng lặng, trụ Tự Tính của Bát Nhã Ba La Mật (Prajñā-pāramitā: Trí Tuệ Ba La Mật), tay phải cầm cái cặp đựng Kinh Phạn (Phạn giáp), tay trái cầm Chân Đà Ma Ni (Cintā-maṇi) làm thế Thí Nguyện, là mẹ (mẫu) của tất cả chư Phật. Đại Thánh Bát Nhã Ba La Mật Đa trụ hình Ma Mạc Chỉ, tức Tôn này là mẹ (mẫu) của Kim Cang Tộc (Vajra- kulāya) hơi giống hình Đồng Nữ chẳng cao quá, nhan sắc rất đẹp khiến cho ý ưa thích. Nên làm tướng như vậy. Vẽ Quyến Thuộc của Tôn này là Kim Cang Câu (Vajrāṃkuśī), Kim Cang Quyền (Vajra-saṃdhi), Kim Cang Bạc (Vajrāśanī)… nhóm này đều là Đại Minh Phi, dùng làm quyến thuộc đều trụ Bản Hình.
Gần Bạch Y Quán Tự Tại, ở bên dưới nên vẽ Đa La Tôn (Tārā-nātha) với mọi loại trang nghiêm, mặc áo lụa mỏng nhẹ. Hình ấy chẳng thô thiển chẳng tinh tế, hình dáng trung dung, tay phải cầm hoa sen xanh, tay trái tác Thí Nguyện, ngồi trên hoa sen, làm màu xanh lục nhạt.
Gần ở bên Tôn ấy, vẽ Tỳ Câu Chi (Bhṛkuṭī) thân màu trắng có ba mặt bốn cánh tay. Bên phải: tay thứ nhất cầm cây gậy, tay thứ hai cầm tràng hạt. Bên trái: tay thứ nhất cầm cái bình, tay thứ hai cầm hoa sen. Dánh thân vắng lặng. Ở hai góc của tượng, làm Cổ Âm Lạc Thiên Tử (Duṇḍubhi-svara-sukha-devaputra)
Ở bên trên Đức Phật, vẽ Tịnh Cư Thiên Tử (Śuddhāvāśa-devaputra) ở trong mây ló ra, rải hoa cúng dường
Đều y theo phương, vẽ bốn vị vua Hộ Thế. Phương Đông vẽ Trì Quốc Thiên Vương (Dhṛḍha-rāṣṭra-devarāja), phương Nam Dạ Ma Thiên (Yama-deva), phương Tây Thủy Thiên (Varuṇa-deva), phương Bắc Câu Vĩ La Thiên (Kubera-devav) đều tùy theo phương vẽ bốn bên
Như vậy, bốn góc: phương Đông Bắc Y Xá Na (Īśāna), phương Đông Nam Hỏa Thiên (Agni-deva), phương Tây Nam La Sát Chủ (Rākṣasādhipati), phương Tây Bắc Phong Thiên (Vayu-deva) đều y theo bản hình vẽ
Gần Phẫn Nộ Vô Năng Thắng Vương, ở bên dưới vẽ người Trì Tụng như bản hình, quỳ sát đất, tay bưng lò hương, chiêm ngưỡng Luân Vương.
Này Kim Cang Thủ! Nghi quỹ vẽ tượng Luân Vương Phật Đảnh này được vô lượng Phật tuyên nói, vừa nhìn thấy thì tất cả tội thảy đều tiêu diệt.
Này Kim Cang Thủ! Nếu được trọn đủ y theo Pháp vẽ thì chúng sanh vừa nhìn thấy sẽ diệt trừ được năm tội Vô Gián, xa lìa tất cả tội. Nếu thấy Tượng vi diệu này như tất cả Như đã nói: người ấy đời này có báo ứng, tất cả tội gây tạo trong đời này với đời khác do nhìn thấy Tượng thảy đều tiêu diệt. Do thấy Tượng tối thắng này thì tất cả Tất Địa đều được hiện tiền, tất cả Như Lai Đại Minh Chân Ngôn nhậm vận được thành tựu, tuỳ ý niệm tụng thành biện tất cả việc. Việc khó thành trong các Bộ khác, đối trước Tượng này quyết định được thành”.
_Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: “Bí mật Chủ! Nay ông lại nghe vẽ tượng Bạch Tản Cái Đảnh Vương, hay thành biện tất cả sự nghiệp. Vì lợi ích tất cả hữu tình sợ hãi đang lưu chuyển nơi sanh tử. cho nên hằng hà sa câu chi Phật cùng nhau tuyên nói.
Trước tiên, nên như nghi tắc của Luân Vương đã nói để se dệt vải, có thể vuông vức ba khuỷu tay, chẳng nên cắt cong, chẳng được dùng keo nấu bằng da thù hòa màu sắc. Trao tám Giới cho người vẽ. Ở chính giữa nên vẽ hình Phật màu trắng vàng, ngồi trên tòa Sư Tử, đủ các tướng tốt. Bên trái Đức Phật vẽ Kim Cang Thủ Bồ Tát với tay trái cầm cây phất trắng, tay phải cầm chày Kim Cang. Ở bên trái Kim Cang Thủ vẽ chúng Tịnh Cư Thiên mặc quần áo của cõi Trời. Ở trước mặt Đức Phật nên vẽ Phật Đảnh Vương với thân màu vàng ròng như đúc tượng vàng, đủ các tướng tốt, tay cầm hoa sen. Bên dưới Đức Phật vẽ người Trì Tụng bưng lò hương. Ở bốn bên của Tượng nên vẽ mọi loại hoa.
Này Kim Cang Thủ! Đây là Pháp vẽ tượng Bạch Tản Cái Phật Đảnh Vương mà Phật trước kia đã nói”
_Khi ấy, Đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ rằng: “Này Kim Cang Thủ! Hãy nghe cho kỹ! Hãy nghe cho kỹ! Hãy khéo lắng nghe mà tác ý! Ta sẽ vì ông nói Quỹ Tắc vẽ tượng Quang Tụ Phật Đảnh Vương, Giáo Pháp thượng thượng của tất cả Chân Ngôn Minh Thế Gian Xuất Thế Gian. Đảnh Vương Quang Tụ y theo Nghi Quỹ của Luân Vương, dùng nước thơm tẩy rửa tấm vải dài 3 khuỷu tay hoặc một khuỷu tay, trong màu sắc chẳng nên dùng keo nấu bằng da thú, khiến thợ vẽ thọ nhận tám Giới rồi vẽ.
Nên vẽ Đức Phật ngồi trên hoa sen trắng, tác tướng Thuyết Pháp, đầy đủ các tướng. Ở bên trên tượng nên vẹ nhọn núi, bê dưới tượng nên vẽ ao hoa sen, từ đảnh đầu của Phật phát ra mọi loại ánh sáng, phía bên phải ở dưới Đức Phật vẽ người Trì Tụng quỳ gối, bưng lò hương, vẽ bản hình của người ấy
Bí Mật Chủ! Nghi Quỹ của Quang Tụ Phật Đảnh Vương này là điều mà tất cả Như Lai đã nói, vì khiến điều phục các hữu tình cho nên Quang Tụ Phật Đảnh Vương này thành biện tất cả sự nghiệp, là Pháp vẽ tượng tối thắng.
_Lúc đó, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật Chủ! Nay Ta nói Pháp vẽ tượng Cao Phật Đảnh Vương. Y theo Nghi Quỹ của Luân Vương, ở trên tấm vải mới dài ba khuỷu tay hoặc một khuỷu tay, loại bỏ lông tóc, người thợ vẽ thọ nhận tám Giới rồi vẽ. Nên vẽ Đức Phật Thế Tôn ngồi Kiết Già trên hoa sen bảy báu, đầy đủ các tướng, tay phải tác Thí Nguyện, ngửa lòng bàn tay trái để ngay dưới rốn. Từ đảnh đầu của Phật phóng ra mọi loại ánh sáng, ở hai góc bên trên tượng đều vẽ Tịnh Cư Thiên Chủ, bên phải Đức Phật vẽ người Trì Tụng chiêm ngưỡng Đức Như Lai.
Này Bí Mật Chủ! Pháp vẽ tượng Cao Phật Đảnh Vương này là điều mà tất cả Phật đã nói, nơi mà tất cả Phật đã khen ngợi, vì thương xót tất cả hữu tình mà nói”
_Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni lại bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật Chủ! Nay Ta nói Nghi Quỹ vẽ tượng Thắng Phật Đảnh Vương là nơi mà Phật trước kia đã khen ngợi, Y theo Nghi Quỹ của Luân Vương Phật Đảnh, làm tấm vải dài ba khuỷu tay hoặc một khuỷu tay, loại bỏ lông tóc, người vẽ tượng thọ nhận Trai Giới rồi vẽ. Nên vẽ hình của Đức Phật, làm tướng màu vàng ròng, ngồi trên tòa Sư Tử, trì Thuyết Ấn, đủ tướng Đại Trượng Phu, từ đảnh đầu của Phật phát ra mọi loại ánh sáng, bên dưới tượng vẽ người Trì Tụng như bản hình, quỳ gối ngồi, tay bưng lò hương, chiêm ngưỡng Đức Như Lai
Này Kim Cang Thủ! Nghi Quỹ vẽ tượng Thắng Phật Đảnh Vương này là điều mà tất cả Như Lai tuyên nói.
_Kim Cang Thủ! Vô lượng loại Sắc Thân của Đức Như Lai Thế Tôn với Đại Oai Đức Bồ Tát… thì tùy theo ý mà vẽ, hoặc trên vải, hoặc trên lụa, hoặc trên tường gạch, hoặc trên vách đá… cũng không có lỗi lầm. Hoặc khiến người vẽ, hoặc tự mình vẽ, hoặc nhờ thợ vẽ giỏi… tùy theo ý của mình mà vẽ hình trạng. Hoặc vẽ hình Bồ Tát, hoặc vẽ Chân Ngôn Thánh Thiên, cho đến vẽ trên tráp đựng Kinh, hoặc vẽ trên vỏ cây hoa. Hoặc vẽ tượng tối thắng, hoặc khoảng một trách (1 gang tay), hoặc nhỏ hơn một trách, hoặc khoảng một ngón tay cái… hoặc tùy theo ý mình ưa thích mà vẽ, cũng không có lỗi lầm
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói Già Tha (Gāthā: Kệ Tụng) là:
“Tùy ý thích mà vẽ
Bậc Tuệ khởi Tâm Bi (Kāruṇa-citta)
Lợi ích các hữu tình
Ta thành tựu, suy nghĩ
Cũng chẳng vì lỗi lầm
Nên nhiếp thọ hữu tình
Vì thế, nên ân cần
Thường ôm Tâm thương xót
Luôn thực hành Xả Thí (Dāna)
Với hộ trì Tịnh Giới (Śīla)
Nhẫn Nhục (Kṣānti) với Tinh Tấn (Vīrya)
Thiền Định (Dhyāna) với Bát Nhã (Prajña)
Thường xuyên nên tu tập
Tất Địa ấy không khó
Nếu không có tượng vẽ
Nên trụ Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta)
Với trì nơi Đại Ấn
Được thành tựu tối thượng”
Bồ Đề Tràng Sở Thuyết Nhất Tự Đảnh Luân Vương Kinh
HÀNH
_PHẨM THỨ TƯ_
Bấy giờ, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nguyện xin Đức Thế Tôn vì người siêng tu cầu Thành Tựu (Siddhi), nói tóm lược tu tập: Chân Ngôn Hạnh, Oai Đức, công năng, phương tiện sí thịnh đối với chúng sanh của Phật Đảnh Luân Vương.
Thế Tôn! Người cầu Tất Địa, do trụ Như Lai Phật Đảnh Vương Chân Ngôn Minh này mà tất cả Chân Ngôn đều mau chóng khiến được thành tựu”.
Đức Phật nói: “ Lành thay! Lành thay Bí Mật Chủ! Ông hay hỏi nghĩa như vậy
Này Bí Mật Chủ! Nay ông hãy nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ông nói: hành Hạnh (Caryā), phương tiện (Upāya), Pháp Cú (Dharma-pāda), Già Tha (Gāthā) rất vi diệu mà tất cả Phật đã nói. Vô lượng Phật do tu tập Pháp Nhãn (Buddha-cakṣu) này để thành tựu lợi ích”.
Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni quán sát tất cả Đại Chúng rồi dùng tiếng Phạm Âm (Brahma-ghoṣa) nói Lý Thú Già Tha của Pháp này, là Già Tha tối thắng trong tất cả Pháp Nhãn là:
“Vô lượng Bồ Đề, hành tự tại
Nhiều loại, trăm khổ gây phiền não
Thấy các hữu tình nhiều phiền não
Nên Thích Sư Tử Tôn diễn nói
Người thích Pháp này siêng tu hành
Thành Phật, nhận Trời, Người cúng dường
Do tu một Pháp thành Đại Giác
Thành Chân Ngôn Vương, nơi Chúng khen
Người ấy chẳng lâu, chứng Bồ Đề
Rộng độ vô lượng các Quần Phẩm (tức chúng sanh)
Không Nhàn (Araṇya: nơi yên tĩnh thích hợp cho Tỳ Kheo tu hành), Chế Để (Caitye: tháp miếu) lớn
Bên sông, suối, sông lớn
Cây cao hoặc động đá
Sườn núi, nơi nhiều hoa
Một mình, Tâm bền chắc
Tương ứng Tâm Bồ Đề
Khéo hiểu nơi Đại Thừa
Thanh tịnh, siêng tu hành
Cùng với thân miệng ý
Ăn uống, trong bốn Nghi (4 oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm)
Hành Giả thường siêng Kết
Thắng Thú (hướng nẻo thù thắng) của Chân Ngôn
Hiểu Tam Ma Địa Minh
Sanh ra được Tất Địa
Thành Chân Ngôn, hoặc Minh
Tùy ý mà tu hành.
Thường mặc ba loại áo
Bạn tốt, điều kiên cấm
Tất Địa ấy chẳng khó
Người ấy quyết định được
_Trước, nên lễ chư Phật
Người Trí nên bền chắc
Tu Chân Nôn, không bạn (không có bạn trợ giúp)
Siêng cầu lợi hữu tình
Thành tựu ấy chẳng khó
Hiện Sắc chẳng nghĩ bàn
_Người siêng cầu Tất Địa
Thường nên làm Chế Để (Caitye)
Siệng Hộ Ma (Homa), niệm tụng
Tức ở ngay đời này
Mau chóng được thành tựu
Cẩn thận mà khéo léo
Cứng mạnh, siêng bền chắc
Tâm chân thật, lợi ích
Người này đáng khen ngợi
Các Căn đều tròn đủ
Trí Tuệ thường chính trực
Hay nhẫn được đói khát
Người này đáng khen ngợi
_Người siêng cầu thành tựu
Nếu được Pháp Yếu này
Người ấy chẳng bao lâu
Được Tất Địa tối thắng”
Này Kim Cang Thủ! Sau khi Ta diệt độ, ở thời Mạt Pháp (Saddharma-vipralopa): Ổ Ba Tắc Ca, Ổ Ba Tư Ca, kẻ khoác Cà Sa ngu si, Ngu Trượng Phu… tạo làm mọi loại ngôn thuyết không có ích, tham dính vị ngon, giải đãi lười biếng. Như Tiểu Nhân này, chẳng biết sâu xa về sức Tam Ma Địa (Tam Ma Địa Lực) không có chỗ sợ hãi (Vô Sở Úy) của Như Lai. Đối với Lý Thú của Đại Thừa rộng lớn, phá hoại gây rối loạn cho người dũng mãnh tinh tiến nơi Luật Nghi Hạnh khéo léo của Bồ Tát, chẳng được Quán Đảnh, chẳng có niềm tin trong sạch, chẳng được thành tựu Tam Ma Địa rộng lớn của chư Phật Bồ Tát… Tức sanh chê bai chế diễu Ta với Bồ Tát mà nói lời như vầy: “Đây là điều do Ma nói, chẳng phải là do Phật nói” nhằm hủy nhục Bồ Tát. Hoặc (đối với) Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân trụ Đại Thừa, Hành Giả siêng năng cầu thành tựu Chân Ngôn thì mở bày sự tổn hại, làm việc chẳng nhiêu ích. Do Nhân Duyên này gom chứa vô lượng tội chướng.
Thế nên Kim Cang Thủ! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân, người hành Bồ Tát Hạnh nên sanh niềm tin trong sạch bền chắc, quyết định nơi Tâm Bồ Đề, dùng Nguyện rộng lớn, thường viết chép Kinh Điển Đại Thừa, đọc tụng, thọ trì, vì người khác diễn bày”
Nói Già Tha (Kệ Tụng) là:
“Y Kinh Bảo Vân, Đại Nhật
Tu hành, Ta khen ngợi
Do Gia Hạnh này nên
Bản Tôn mau hiện tiền
Do đâu thành Chân Ngôn
Ân cần thành thân mình
Dùng Thí (Dāna: bố thí), Giới (Śīla: Trì Giới), Nhẫn Nhục (Kṣānti)
Cần (Vīrya: tinh tấn), Định (Dhyāna:Thiền Định), Trí Tuệ (Prajñā) được
Chuyên chú nhất tâm nên
Mau chóng thành Bản Tôn”
Bồ Đề Tràng Sở Thuyết Nhất Tự Đảnh Luân Vương Kinh
NGHI QUỸ
_PHẨM THỨ NĂM_
Bấy giờ, Kim Cang Thủ lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Hành Giả tu Phật Phật Đảng Chân Ngôn làm thế nào để trụ Quỹ Tắc thanh tịnh, tác Bản Tôn Quán Hạnh? Nguyện xin Đức Thế Tôn nói: dùng một chi mau chóng thành tựu nhóm Tất Địa của Phật Đảnh”
Đức Phật nói: “Thế nên Trì Kim Cang (Vajra-dhāra) hãy nghe cho kỹ để lợi ích cho chúng sanh. Vì có chúng sanh hẹp hòi (tiểu chúng sanh) lười biếng, người tinh tấn mà nói sai khác. Trong tất cả Chân Ngôn Giáo, tâm thời trụ Quỹ tắc thanh tịnh, chẳng phóng dật, thường trụ quán Phật Tam Ma Địa, chẳng nên dùng Tâm tán động mà quán sát, chẳng đem sự tham nhiễm gây nhiễu loạn Tâm ấy, nên nhất tâm quán Phật, thường dùng Từ Tam Ma Địa (Maitra-samādhi) duyên khắp tất cả hữu tình ở mười phương. Ba thời tắm gội, tẩy rửa tay chân, y theo Pháp tắm rưới. Người có Trí Tuệ cứng mạnh chẳng nên phóng dật, tổn hại sanh mãng, thay đổi áo bên trong (nội y), dùng Chân Ngôn này hộ thân.
Chân Ngôn là:
“Úm, ma ma, hồng nặc”
*)OṂ_ MAMA HŪṂ NĪ
_Nếu dùng đất thì chẳng nên dùng đất có loài trùng. Người Trí nên dùng đất sạch sẽ có mùi thơm, chẳng quá đen quá vàng, chẳng quá đỏ. Đất như vậy thông với tất cả Pháp thành tựu. Nếu Pháp Điều Phục (Abhicāruka) thì dùng đất đen, hoặc đất đỏ cũng được. Nếu làm Pháp Tăng Ích (Puṣṭika) nên dùng đất màu vàng. Tiêu diệt tai họa với các tội chướng nên dùng đất màu trắng. Nếu cầu La Nhạ (vua chúa) nên dùng đất chẳng trắng chẳng đen. Nếu cầu Pháp Kính Ái (Vaśikaraṇa) nên dùng đất vàng đỏ. Như vậy, người Trí y theo Giáo mà dùng đất. Dùng Chân Ngôn này trước tiên gia trì vào đất, sau đó nên dùng.
Thổ Chân Ngôn là:trước dùng, chơn ngôn gia trì nơi đất.
“Úm, na ra hồng”
*)OṂ_ DHARA HŪṂ
“Dùng Thổ Chân Ngôn này
Thông các dụng Thành Tựu”
_Dùng Hà Chân Ngôn này
Gia trì vào nước sông”
“Úm, nhập phạ la, hồng”
*)OṂ_ JVALA HŪṂ
“Minh này gia trì sông
Tất cả chỗ đều dùng”
_Chia đất thành ba đống
Để ở nơi thanh tịnh
Đất xa chỗ khạc khổ
Hôi hám và nhơ bẩn
Chỗ người nữ tụ tập
Chỗ con nít chơi giỡn
Sông có súc vật đến
Nơi chúng sanh tụ họp
Hành Giả ở nơi ấy
Chớ có nên tắm rửa
_Nơi trở ngại, hiểm yếu
Với nước dơ hôi hám
Người Trí nên lìa xa
Tìm kiếm sông thù thắng
Nước trong veo tuôn chảy
Xa lìa bùn căn dơ
Ở bên bờ sông ấy
Có mọi cây trang nghiêm
Ở đấy nên tắm rửa
Nơi nước sâu trong mát
Thường ở nơi như vậy
Chim đùa giỡn trong nước
Các hoa đều trang nghiêm
Hành Giả nên tắm gội
Lại dùng Chân Ngôn này
Gia trì vào đất sạch
Chân Ngôn là:
“Úm, bát ra nhập phạ-ra, hồng”
*)OṂ_ PRAJVALA HŪṂ
_Liền nên tự Hoàn Giáp (mặc áo giáp)
Ngón cái để ở tim
Tụng Chân Ngôn bảy biến
Giáp Trụ Chân Ngôn là:
“Úm, nhập phạ-ra đế nhạ, hồng”
*)OṂ_ JVALA-TEJA HŪṂ
_ Dùng Tâm Giáp Trụ Minh
Người tu hành nên dùng
Thảy đều ở khắp thân
Liền thành Đại Gia Hộ
Hoàn Thân Giáp Chân Ngôn là:
“Úm, nhập phạ-ra, bả ra yết-ra ma hồng”
*)OṂ_ JVALA PRAKARAMA HŪṂ
Đây tên Thân Giáp Trụ
Người Trí thường nên làm
_Liền nên vào trong nước
Đến eo hoặc đến ngực
Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka) chướng
Các trùng ác trong nước
Do gia trì này nên
Chẳng thể gây tổn hại
Chân Ngôn là:
“Úm, tra-lung, mãn đà, sa-phạ ha”
*)OṂ_ ṬRŪṂ BANDHA SVĀHĀ
Biện Sự Chân Ngôn này
Tất cả Phật Đảnh Tâm
Do nghĩ nhớ Điều này
Các Chướng ở trong nước
Hết thảy muốn tổn hại
Đều khiến cấm bế miệng
_Dùng đây, hộ đất ấy
Chia đất thành ba phần
Dùng tẩy rửa sạch sẽ
Từ chân đến gối (đầu gối) tỳ (lá lách)
Dùng đất chà cho sạch
Lìa mùi hôi cặn dơ
Chư Phật nói là sạch
_Tiếp, dùng phần thứ hai
Từ eo cho đến cổ
Thứ ba, chà phần trên
Dùng đất nên chà rửa
Đất phải không có trùng
Trước, để đất thứ ba
Lại ân cần cọ rửa
_Dùng Biện Sự Chân Ngôn
Hành Giả gia trì nước
Tụng ba biến rưới đảnh (đảnh đầu)
Trầm tĩnh mà yên lặng
Tắm gội sạch sẽ xong
Chẳng cùng người nói chuyện
_Lại dùng Biện Sự Minh
Hành Giả tự gia trì
Dùng Vô Năng Thắng hộ
Với dùng Phật Hào Tướng
Tồi Hoại Phật Đảnh Minh
Gia hộ khắp, xưng tán
Dùng Phật Nhãn Chân Ngôn
Chỉ dùng thông Phật Bộ
Thuần chánh các Phật Đảnh
Thành tựu Mạn Trà La
_Lại kết Phương Ngung Giới
Kèm hộ nơi Trợ Bạn
Hứa dùng Tồi Hủy Đảnh
Với thành biện tất cả
Rưới vảy nước không trùng (loài trùng)
Tụng Minh này một biến
Thanh Tịnh Chân Ngôn là:
“Nẵng mô tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ nẫm. Úm, thú điện nỗ thú đà nẵng da, sa-phạ ha”
*)NAMO SARVA BUDDHĀ BODHI-SATVĀNĀṂ
OṂ_ ŚUDDHA ANUŚUDDHA-NĀYA SVĀHĀ
Táo Sái Chân Ngôn này
Dùng thông Như Lai Bộ
_Liền đến thất niệm tụng
Trụ Định, chẳng phóng dật
Nên quán ờ trước thân
Đất khoảng chừng ba Xích (1 m)
Tâm thương xót tương ứng
Kèm với Tuệ đều đủ
Đi đến thất niệm tụng
Nên mặc áo sạch sẽ
Nô Câu La Sô Ma
Cùng với áo Dã Ma
Người Trí nên niệm tụng
Y nơi Giáo Nghi Quỹ
Nên tụng Tịnh Chân Ngôn
Tiếp, dùng Biện Sự Minh
Gia trì tòa cỏ tranh
Trải bày ở trước tượng
Nên niệm tụng Bản Tôn
Tiếp, nghênh đón chúng Thánh
Chân Ngôn Ấn tương ứng
Luôn quán tượng Bản Tôn
Liền kết Liên Hoa Ấn
Dùng tòa để phụng hiến
Chư Phật trì Cát Tường
Chân Phật (bàn chân của Đức Phật) sanh Tiêu Xí (vật biểu tượng)
Các Bồ Tát: tòa sen
Tòa đấy đều xưng tán
Người tu hành Chân Ngôn
Chẳng nên ngồi giường cao
Mà quán tượng Bản Tôn
_Tiếp nên trì niệm châu (tràng hạt)
Xuyên Châu (xỏ xâu tràng hạt) Chân Ngôn là:
“Úm, a nạp-bộ đế, vi nhạ duệ, tất địa, tất đà ra-thê, sa-phạ ha”
*)OṂ_ ADBHUTE VIJAYE SIDDHI SIDDHĀRTHE SVĀHĀ
Niệm Châu (tràng hạt): hạt Bồ Đề
Quyết định được thành tựu
Tất Địa thượng trung hạ
Dùng thông các Chân Ngôn
Nhóm vàng, bạc làm Châu (tràng hạt)
Nên dùng cho Tăng Ích (Puṣṭika)
Pha Chi Ca (Sphaṭika: Pha lê) thanh tịnh
Thành tựu tất cả Nghĩa
_Đồng Tử xuyên xỏ dây
Đều y đủ Nghi Quỹ
Nên dùng Tự Mật Ngữ
Dùng đây làm gia trì
“Nẵng mô bà nga phạ để, tất địa, sa đà dã, sa đà dã, tất đà ra-thê, sa-phạ ha”
*)NAMO BHAGAVATE SIDDHE SĀDHAYA SĀDHAYA, SIDDHĀRTHE SVĀHĀ
Nên dùng Chân Ngôn này
Gia trì vào Niệm Châu
Nên tụng vào bảy biến
Cầm trong hai lòng tay
Ngồi trên chiếu cỏ tranh
Cầu thành tất cả Nghĩa
Cây Cát Tường Mật Phạ
Bạch Đàn với Thiên Mộc
Nhóm loại cây như vậy
Niệm Châu được Tăng Ích
Khi niệm tụng Hộ Ma (Homa)
Nên dùng Châu như vậy
Lấy cây Khư Đà La (Khadira)
Mạt Độ (Madhū), Câu Na Vệ (tên riêng của cây Trúc Đào)
Dùng cây này làm Châu
Để làm Pháp Điều Phục
Cũng dùng gỗ cây này
Tạo làm giường, tòa ngồi
_Nếu chẳng có cây này
Lấy lá lìa các Trùng (loài trùng)
Làm cái chiếu: ngồi, nằm
Tòa ngồi nơi Quán Đảnh
Đốt tro Cồ Ma Di (Gomayi: phân bò)
Lọc nước, dùng rửa sạch (tẩy tịnh)
Lụa kín làm lưới lọc
Xem kỹ nước đã lọc
Y Pháp trì Mật Ngôn
Nếu chẳng được thành tựu
Nên dùng Đảnh Luân Vương
Gia trì ắt thành tựu.
_Lại dùng Tâm, Tùy Tâm
Hòa tụng chung với nhau
Nếu như vậy, chẳng thành
Dùng Phật Nhãn Chân Ngôn
Hòa chung nhau mà tụng
Thế Tôn Phật Nhãn Minh
Tất cả Phật đã nói
Phật trước cũng xưng tán
Nay Ta cũng tuyên nói
Người cầu thành Phật Đảnh
Cần phải dùng tụng trì
Hòa tụng chung với nhau
Chẳng lâu. Mau thành tựu
Dầu tạo năm Vô Gián (5 tội vô gián)
Chẳng lâu cũng được thành
_Nếu không có tượng vẽ
Vận Tâm tác Quán Hạnh
Nơi chư Phật xưng tán
Liến kết Lễ Phật Chưởng
Quán Hạnh tụng Minh này
Chân Ngôn là:
“Nẵng mô ra đát-nẵng đát-ra dạ dã, a tả ra, vĩ lệ , sa-phạ ha”
*)NAMO RATNA-TRAYĀYA_ ACALA VĪRE SVĀHĀ
_Liền kết Đại Ấn, tưởng trên Ấn ấy có vô lượng vật báu tạo thành ngọn núi. Ở trên núi, tưởng bảy báu tạo thành hoa sen hoa, hoa sen ấy có vô lượng trăm ngàn cánh, gương sen ấy rộng lớn có cọng to lớn, ở bên trên hoa có trong lầu gác. Ở trong lầu gác, tưởng Đức Thế Tôn ngồi Kiết Già, kết Ấn Thuyết Pháp, đủ tướng Đại Nhân trang nghiêm thân ấy với ánh sáng tròn trịa vòng khắp. Nên Quán như vậy, ngoài ra cũng như Tượng đã vẽ bên trên.
Quán ở trong lầu gác, bên trên đều có Tướng Luân Đường, chính giữa tưởng vô lượng châu báu, lưới báu che trùm khắp, cho đến tuỳ ý quán lớn khoảng một Do Tuần, hoặc một trăm Do Tuần, cho đến một ngàn Do Tuần ứng với Quán Hạnh tùy ý mình quán, cho đến Hữu Đảnh (Sắc Cứu Cánh Thiên) chuyên chú nhất Tâm. Người Trí chẳng nên phóng dật, cột buộc Tâm nơi Bản Tôn, sức gia trì của chư Phật. Người cầu thành tựu tác Quán Hạnh như vậy, dùng Vô Cấu Hải Chân Ngôn gia trì vào biển lớn. Chân Ngôn là:
“Úm, vĩ ma lô nại địa, hồng”
*)OṂ_ VIMALA-UDADHI HŪṂ
Dùng Sơn Chân Ngôn gia trì vào ngọn núi. Chân Ngôn là:
“Úm, a tả la, hồng”
*)OṂ_ ACALA HŪṂ
Dùng Liên Hoa Chân Ngôn gia trì vào hoa sen. Chân Ngôn là:
“Úm, hồng, ca ma la, sa-phạ ha”
*)OṂ_ HŪṂ KAMALA SVĀHĀ
Dùng Nhất Thiết Bảo Lâu Các Chân Ngôn gia trì vào lầu gác. Chân Ngôn là:
“Nẵng mô tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm. Tát phạ tha khiếm, ôn-nặc nghiệt đế, tát-phả ra, ê hàm, nga nga nẵng kiếm, sa-phạ ha”
*)NAMO SARVA-TATHĀGATĀNĀṂ
SARVATHĀ KHAṂ UDGATE SPHARA HĪMAṂ GAGANAKAṂ SVĀHĀ
_Tiếp nên thỉnh Phật Thế Tôn, dùng Tự Chân Ngôn. Nên tưởng Đức Thế Tôn như từ Trời Đao Lợi (Trāyastriṃśa) giáng xuống Diêm Phù (Jambu-dvīpa) đến ở Đạo Tràng. Liền hiến Át Già (Argha), tác Tụng là:
“Dùng Thần Thông mình trụ
Đợi con làm cúng dường”
Sau đó, dùng Lục Tự Phật Đảnh kết Thượng Phương Giới, liền tưởng tắm rửa Đức Như Lai, Bản Tôn của mình, Bộ Chủ của ba Bộ. Hoặc y theo Giáo với các Tôn…hiến hương xoa bôi, hoa, quần áo, vật dụng trang nghiêm, thức ăn uống, nước thơm. Nếu như vật cúng như bên trên đã nói thì nên ở trong Tâm quán tưởng mà phụng hiến.
Nghi Quỹ cúng dường như vậy xong. Liền tỏ bày tội lỗi, tùy hỷ, khuyến thỉnh, hồi hướng, phát nguyện… thảy đều nên làm. Liền an Tâm ở đầu lỗ mũi, một lòng niệm tụng cho đến chẳng mệt mỏi, dùng biến số đã niệm tụng để phụng hiến. Lại hiến hương xoa bôi, hoa, hương đốt, thức ăn uống, đèn sáng… cúng dường. Hiến Át Già rồi quán tưởng ở cửa phía Đông phụng tống Đức Thế Tôn. Liền lễ tất cả Phật Bồ Tát, lễ xong thì đứng dậy. Như vậy ba thời nên làm.
Vì không có Tượng cho nên nói Nghi Quỹ này
Bồ Đề Tràng Sở Thuyết Nhất Tự Đảnh Luân Vương Kinh
PHÂN BIỆT TƯỚNG BÍ MẬT
_PHẨM THỨ SÁU_
Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: “Này Kim Cang Thủ! Ông hãy lắng nghe! Phật Đảnh Luân Vương Chân Ngôn Tu Hành Thành Tựu này là điều mà tất cả Như Lai đã nói. Vì thành tựu Phật Đảnh cho nên dùng câu Già Tha bất hoại thực hành Giáo.
Kim Cang Thủ! Ta lược nói thứ tự thành tựu mà tất cả Như Lai đã nói”.
Nói Già Tha (Kệ Tụng) là:
“Ngoài nơi tập chúng Thánh
Khiến được chốn oai linh
Ở nhà với Thiên Thất (nơi thờ phụng Trời)
Nhà trống, trong hang hốc
Cây cao với Thi Lâm
Rừng cây ở sơn cốc
Thành tựu hoặc niệm tụng
Tâm đặt tại Bản Tôn
Chẳng thanh tịnh khiến tịnh
Chẳng thanh tịnh, tịnh khắp
Nơi thanh tịnh thành tựu
Dùng hai thành hai loại
Đấy gọi là thành tựu
Tất cả tu Tất Địa
Ăn uống có chừng mực
Chẳng no cũng chẳng đói
Ăn uống nên liệu lường
Ngon ngọt với giấm chua
Nên bỏ Tham như vậy
Tham câu chi hữu tình
Sanh tham dính mùi vị
Do tham niệm Hộ Ma
Chẳng sanh nơi nhất tâm
Đầu đêm dọc Chánh Điển
Nửa đêm mới ngủ nghỉ
Trên chiếu cỏ tranh sạch
Tác Hộ y Nghi Quỹ
Đều cùng Ấn tương ứng
Nằm ngủ như sư tử
Như sư tử kiêu dũng
Gối lên tay nằm ngủ
Tức tăng nơi Hộ Ma
Nếu có phương Đông
Trái an ở trên phải
Chân tay cũng như vậy
Chồng bàn chân nằm ngủ
Chút phần khiến đoan nghiêm
Nếu đầu hướng [hương Tây
Mặt quán ở phương
Khi ngủ nên Hộ Thân
Cùng Hàng Phục tương ứng.
_Nếu trên cây Bạch Đàn
Cát Tường Ni Câu Đà
Nhóm cây Ưu Bát Đà
Mộng leo trên cây ấy
Đấy là tướng thành tựu
_Nhạn với Ca Lăng Già ()
Uyên Ương với Bạch Hạc
Khổng Tước, các chim tốt
Mộng cỡi nhóm chim này
Nếu thấy tướng như vậy
Chẳng lâu được Tất Địa
Nếu mộng thấy máu huyết
Cũng là tướng thành tựu.
_Nếu ở trong mộng thấy
Phướng, phan giao chéo nhau
Hoặc đi lên lầu cao
Hoặc giẫm xéo, du hành
Đấy tức tướng thành tựu
_Hoặc mộng ngồi thuyền bè
Cầm đàn tranh, Không Hầu (Vīṇā)
Hoặc thấy tháp, Bật Sô
Như vậy là mộng tốt
Đều là tướng thành tựu
_Nếu ở trong mộng thấy
Chó với Chiên Đà La (Caṇḍāla)
Đỉa dưới nước bu thân
Đây đều chẳng tốt lành
_Lạc Đà, Lừa với xe
Nếu thấy với tiếp xúc
Ắt hoại nơi thành tựu
_Như vậy, tướng các mộng
Tướng Thiện với Bất Thiện
Nên biết hai mộng này
Biết xong, cầu thành tựu
Nên làm Pháp Hộ Ma
Đốt gạo tẻ, Du Ma (mè)
Được thoát các Ma Chướng
Liền nhìn thấy Bản Tôn
Thường được mà cảnh giác
Thánh Giả hiện ra nói
Nên đến ở chỗ kia (tên….)
Đến đất đốt bơ, mật
Liền hiện nơi thật sự
Đi xin hoàn toàn thật
Nơi Đạo cũng là thật
_Nếu nghi ngờ Bản Tôn
Nên ngủ, ở trong mộng
Nguyện Tôn bày Ngã thân (thân của Bản Tôn)
Mà hiện tướng Trượng Phu
Nếu thấy tướng người nữ
Hay sanh Tâm tham nhiễm
Nên giữ, chẳng phóng dật
_Muốn ngủ thời gia trì
Niệm tụng chẳng nên nghĩ
Tài Bảo của quá khứ
Vị lai cũng chẳng nên
Cẩn thận, đừng suy nghĩ
Chẳng thành Niệm Tụng Nghi
_Nếu Tâm bị tán động
Quán nghĩa lý Chân Ngôn
Trụ Định mà niệm tụng
_Nếu Tâm duyên tham nhiễm
Nên tác Bất Tịnh Quán
_Nếu Tâm khởi giận dữ
Liền cùng Từ (Maitra) tương ứng
Nơi niệm ngu, duyên sanh
Thường thường nếu Tâm khởi
Ở ngay trong điên đảo
Liền chuyên chú nhất tâm
Trụ ở Bản Tôn Quán
_Nếu chưa vào Luân Đàn
Hiến các nhóm hương hoa
Bị các Ma ăn nuốt
Do chẳng y Nghi Quỹ
Với chẳng khéo hiểu rộng
Xa lìa A Xà Lê
Công niệm tụng bị cướp
Bản Tôn chẳng nhận được
_Chân Ngôn Chủ Tể này
Thành tựu Đảnh Chân Ngôn
Nên dùng làm gia trì
Hộ Ma, nhóm Đảnh Hạnh
Chẳng thể gây chướng ngại
Thành tựu Đảnh Luân Vương
Thế nên làm gia hộ
Tất cả nơi thành tựu
_Nên tụng Vô Năng Thắng
Làm tự thân gia trì
Bồ Tát Chủng Chân Ngôn
Quyến thuộc của Luân Vương
Dùng đấy làm gia hộ
_Khi thành tựu Chân Ngôn
Niệm tụng nhóm Hộ Ma
Trước nên làm Hộ Thân
Nếu lìa Pháp Hộ Thân
Ắt Tất Địa chẳng thành
Du Không Đại Dược Xoa
Thành Tựu Quỷ La Sát
Du hành phá hoại nên
Khiến Tâm ấy nghi ngờ
_Các hoa Vĩ Lạp Phạ
Át Ca Độ Độ La
Thảy đều chẳng nên dùng
_Tất cả Phật Đảnh Bộ
Xưng tán hoa Xà Đề
Sen xanh, Câu Vật Đầu
Hoa sen, hoa Dữu Thể
Với mọi loại hoa khác
Hoa lục địa cực thơm
Nên biết Phật Đảnh Minh
Tất cả thời cúng dường
_Người tu hành chẳng thành
Hai, ba lần làm Pháp
Cho đến ở bảy biến
Thứ tự làm thành tựu
_Nên đi vào sông, biển
Rồi làm Pháp ấn Tháp
Hoặc một, hai, ba, bốn
Tùy theo sức mà làm
Niệm tụng kèm tác Pháp
Cung kính mà khen ngợi
Đọc tụng nơi Diệu Điển
Thường thường khi mỏi mệt
Đủ ba lạc xoa Tháp
Tội trước đều tiêu diệt
_Dùng bông hoa cực thơm
Hương đốt, hương xoa bôi
Cúng dường Tốt Đổ Ba (cái tháp)
Ở trước mỗi một Tháp
Dùng Chân Ngôn gia trì
Nên tụng ngàn tám (1008) biến
Nếu Chân Ngôn chẳng thành
Do tội che lấp Tâm
Nên làm khoảng một khuỷu
Một ngàn Tốt Đổ Ba (1000 cái tháp)
Dầu tạo tội Vô Gián
Quyết định được thành tựu
_Do niệm tụng diệt tội
Huống chi làm Chế Để (Caitye: tháp miếu)
_Nên đi vào sông, biển
Hiến mười vạn hoa sen
Hiến đủ hạn số ấy
Mau chóng được thành tựu
Nơi sông, biển đã vào
Huống chi hơn lượng ấy
Chậm, mau được thành tựu
Đều do bản thân mình
Thành tựu nơi Chân Ngôn
Do có Phước, không Phước
Nếu Phước Đức cường thịnh
Ắt sẽ chẳng bao lâu
Mau chóng được Tất Địa
_Người không có Phước Đức
Nên làm Tốt Đổ Ba
Tất Địa, gốc niệm tụng
Thế nên dùng tinh tấn
Thành tựu được bền chắc
_Chân Ngôn tại Kinh Thư
Chẳng thể trừ mọi Độc
Thấy Đạo Lý như vậy
Gia công niệm tụng hơn
Thường vì cha mẹ, Thầy
Các hữu tình chịu khổ
Một phần mà niệm tụng
Đều hồi hướng cho họ
Vì diệt các chướng nạn
Cần phải thường lễ Phật
Do lễ Phật, niệm tụng
Mau chóng được thành tựu
_Nói quả báo lễ Phật
Vô lượng nhóm Phước Đức
Nên biết Quy Mạng đấy
Thường thường siêng kính lễ
Luôn luôn được Tất Địa
_Chẳng thế, thời Mạt Pháp
Chân Ngôn chẳng thành tựu
Thế nên, Thích Ca, Ta
Nói Đệ Tử oai đức
Mạt Thế được giải thoát
Bở thế, lìa Tâm nghi
Phát siêng Đại Tinh Tấn
Tu trì các Tất Địa
Chẳng lâu được thành tựu
Người tăng Phước thù thắng
Mau chóng được Tất Địa.
_Phần lớn người không Phước
Chậm trễ mới được thành
Nếu tương ứng Bi, Trí
Được Tất Địa thù thắng
Chẳng cần mựợn Lưu Ly
Với nhóm Pha Lê hồng
Phật Đảnh Chân Ngôn đấy
Sức dùng chẳng thể bàn
_Xin thức ăn, khiến tịnh
Nên phụng hiến Bản Tôn
Chia ra làm ba phần
Thương xót hữu tình nên
Trước tiên, lấy một phần
Đem cúng dường Bản Tôn
Lại lấy tiếp một phần
Cho khách bên ngoài đến
Phần còn lại tự ăn
_Thức đã hiến Bản Tôn
Lấy, bỏ mà thọ dụng
Nếu không có khách đến
Chuyển cho các cầm thú
Phần thức ăn của mình
Chẳng hết, cho người khác
Sợ tổn hoại thân nên
Giảm chút phần, nên cho
_Hướng phía Nam mà ăn
Đấy tức Pháp Điều Phục
Chẳng hướng Tây mà ăn
Nên làm việc Điều Phục
Bắc, Đông là Tức (Tức Tai), Tăng (Tăng Ích)
Thành tựu hàng Phật Đảnh
Thành Tịch (Tịch Tai), Đông làm khác
Nên tác Tâm thương xót
Ba thời nên suy nghĩ
Ai ở chỗ khổ não
Nay Ta cứu giúp hết
Tương ứng Tâm Đại Bi (Mahā-kāruṇa-citta)
Xuất Gia với Tại Gia
Cầm gậy (trì trượng) và Phạm Chí (Brāhmaṇa)
Đều ôm Ý thương xót
_Người niệm tụng du hành
Không bạn, thường cẩn thận
Thế nên thường kính lễ
Tháp miếu của chư Phật
Các Chân Ngôn khó thành
Tất cả thời Đẳng Trì (Samādhi)
Thường tu Tam Ma Địa (Samādhi)
Người đấy được tự tại
_Mọi loại việc Điều Phục
Hiện bày mọi loại Sắc
Thế nên thường phải làm
Niệm tụng với Hộ Ma
Xoa lau, rưới vảy sạch
Tác Tịnh như trước nói
Sau nên làm Hộ Thân
Tro, Giới (hạt cải) kết Phương Ngung (Phương Ngung Giới)
Dùng Biện Sự Chân Ngôn
Hoặc dùng Tồi Hoại Đảnh
Gia trì dây ràng cọc (cây cọc)
Nên đóng ở bốn góc
Hộ xong, nên cúng dường
Người Trí liền khải thỉnh
Tất cả các Thánh Chúng
Nơi niệm tụng, Hộ Ma
An trí trên tòa ngồi
Nên làm Nhân (Hetu) thành tựu
Cồ Ma (phân bò) trộn với đất
Người Trí dùng làm Đàn
Ở trong Đàn Luân này
Nói cúng dường làm Nghi (Nghi tắc)
_Trước là Như Lai Thắng
Y Nghi Quỹ phụng hiến
Tiếp đến Luân Vương Đảnh
Kế đến các Phật Đảnh
Thứ tự mà cúng dường
Tiếp đến Quán Tự Tại
Tự Tộc kèm quyến thuộc
Cùng với Kim Cang Thủ
Nơi hiến đồng Phật Đảnh
Nhóm hương hoa đã hiến
Cũng đồng với Bộ Loại
Như vậy là ba Bộ
Mà làm Nghi cúng dường
Dùng đây thường cảnh giác
Với tất cả Thế Thiên
_Ngu si nói lời này:
“Tất cả Chân Ngôn Nhân (người tu Chân Ngôn)
Thảy đều là vọng làm”
Nếu chẳng nói Nghi Quỹ
Tức đọa vào hủy báng
_Hạt mè, hạt cải trắng
Dùng làm nơi Hộ Ma
Hay thành việc Kính Ái
_Đốt hạt mè, gạo tẻ
Đắc được nơi Tăng Ích
_Thuốc độc, La Nghiệt Lê
Hòa chung rồi Hộ Ma
Kẻ hoại loạn Phật Giáo
Thảy đều khiến trừ diệt
_Gỗ cây Vĩ Lạp Phạ
Vô Ưu với Bạch Tần
Ba La Xa, Bồ Đề
Cùng với Bạch Giao Mộc
Tăng Ích các Hộ Ma
Dùng nhóm cây như vậy
_Ni Cồ Đà, Ưu Đàm
A Thuyết Tha, Nhũ Mộc
Nhóm cây Hoạt Nhi Tử
Nếu làm Pháp Tức Tai
Dùng làm củi Hộ Ma
_Khư Đà La, Mộc Hoạn
Với cây Ca La Ca
Cây Ca La Vĩ La
Các nhóm cây như vậy
Dùng Điều Phục, Tướng Tăng (Tăng Ích)
_ Ngồi hướng mặt phía Nam
Xưng chữ Hồng (HŪṂ) thiêu đốt
Ý nghĩ, miệng xưng tụng
Ứng làm Pháp Điều Phục
_Mặt đối diện phương Bắc
Ở trong câu Chân Ngôn
Tụng thêm Sa Phạ Ha (SVĀHĀ)
Liền thành nơi Tức Tai
_Các Phật Đảnh nên tu
Ngồi hướng mặt phía Đông
Hộ Ma làm Tăng Ích
_Kiết Già làm Tức Tai
Cát Tường Tọa: Tăng Ích
Tồn Cứ (ngồi xổm) làm Điều Phục
Trừ hại, nên Hộ Ma
Tên là việc Điều Phục
_Ngăn che các chướng nên
Tên gọi là Tức Tai
_Thành tựu tùy ý nên
Đấy tên là Tăng Ích
Như vậy tất cả chỗ
Khéo nghĩ mà tu hành
_Kẻ ganh ghét Phật Giáo
Khiến kẻ ấy xa lìa
Đấy tên Pháp Tướng Tăng (Tăng Ích)
_Người trì tụng thanh tịnh
Chẳng để tóc, móng dài
Người tịnh hạnh tại gia
Tóc dài chẳng bị lỗi
Khi Hộ Ma, niệm tụng
Đều có chỗ ngăn ngại
Tham việc, chải tóc, tắm
Vượt qua nơi Thời Phần
Khi cúng dường Thánh Tôn
Trong móng ngón dơ bẩn
Đầu phát sanh chấy, rận
Hay sanh các tội lỗi
_Chẳng quán: mặt trời mọc
Chẳng quán: lúc Nhật Thực
Cũng chẳng quán: Nguyệt Thực
Chẳng khinh chê Tôn Sư
Khi cúng dường chúng Thánh
Chẳng quán: việc an vui
Cũng chẳng quán: đấu tranh
Thế nên người tu hành
Thường cùng Định tương ứng
_Ở cõi nước đói kém
Với ở nơi chiến đấu
Quốc Chủ chẳng hòa thuận
Chẳng nên cầu Tất Địa
_Nơi chúng Thánh bị phạt
Chỗ Dược Xoa, Quỷ Thần
Nơi Long Thần, tạp loạn
Nơi có nhiều muỗi mòng
Hoặc ở nơi hạn hán
Nơi có các nạn ấy
Chẳng nên cầu Tất Địa
_Chẳng ở chỗ Ca Nữ
Nơi có nhiều gió ác
Nhóm nơi chốn như vậy
Chẳng được nơi Tất Địa
_Nơi đấy nếu tốt lành
Niệm tụng, làm Hộ Ma
Chúng Thánh đều vui thích
Như người ăn món ngon
Tâm Ý được vui sướng
Trong đây Hộ Ma thắng
Hoàn thành các sự nghiệp
_Nếu tướng vua chẳng đủ
Chẳng thể nối Vương Vị (địa vị của nhà vua)
Tùy sức phần mà làm
Niệm tụng với Hộ Ma
Người tu hành thấp kém (hạ liệt)
Quả Báo cũng thấp kém
_Xin chất độc, đao, gậy
Chẳng tương ứng ban cho
Chỉ trừ Pháp Kính ái
Vì hộ mạng, giải nạn
Trừ lo âu, phiền não
Trừ Nhân Duyên như vậy
Thảy đều chẳng nên cho
_Người tu hành thanh tịnh
Tiếp chạm nơi chẳng sạch
Liền nên đi tắm gội
Tâm tụng, kết Ấn Khế
Như vậy, loại tham nhiễm
Nên nghĩ Tịnh Chân Ngôn
Tụng Minh, kết Ấn Khế
Thảy đều được thanh tịnh
_Các Quỷ Thần ô uế
Khởi Thi (Vetāla hay Vetaḍa) với Dược Xoa
Với La Sát thành tựu
Nơi làm Pháp Thượng Trung
_Người Trí chẳng nên nghi
Vào trong sông thù thắng
Tắm gội nước Chánh Pháp
Dùng Tuệ mà suy nghĩ
Niệm tụng thảy đều làm
Chẳng nên phá Kiết Già
Nơi việc đều trái ngược
Nếu phá Kiết Già Tọa
Liền đứng dậy, tắm gội
Hoặc dùng Tâm tắm gội
Thảy đều được thành tựu.
BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH
_QUYỂN THỨ HAI (Hết)_