PL 2544 – DL 2000
MẶT TRỜI NỬA ĐÊM
Kim Đài
Thơ thiền
A DI ĐÀ
A Di Đà tất cả pháp
Tất cả pháp A Di Đà
Chẳng quản trời cao đất thấp
Búng tay, cõi nước bày ra
CHÚA XUÂN
Tặng Trần Nhân Tông hoàng đế
Thuở nhỏ đâu từng biết chúa Xuân
Cứ theo xác pháo chạy tung tăng
Chúa Xuân nay đã về ngự trị
Pháo cuối làng xa nổ đì đùng
THU HÚ
Thu hú! Thu hú
Chẳng khách chẳng chư
Vỡ nát càn khôn
Thu hú! Thu hú!
TIỄN BIỆT
Tiễn sư ra phi trường
Hương nào hương cố hương?
Sắc nào sắc ly sắc?
Chương nào chương phi chương?
HOÀNG HÔN
Giòng sông xanh
Một con thuyền
Neo ở đầu bờ
CHIỀU TÀN
Con chồn hoang
Nhảy vào bụi rậm
“Soạt!”
THU HÚ
Thu hú! Thu hú!
Trên đảnh chẳng trú
Dưới đáy không trầm
Thu hú! Thu hú!
BÌNH MINH
Sóng bủa vào bãi đá
Hàng dương reo rì rào
Một con chim bổ cá
Đâm mình xuống biển sâu
THU SANG
Lá ngô đồng
Rụng xuống mặt hồ
Chiều thu sang!
THU HÚ
Thu hú! Thu hú!
Ngàn câu muôn cú
Là lời vô ngôn
Thu hú! Thu hú!
NGHÉ
Đồi cỏ non
Con nghé gọi mẹ
“Nghé! Nghé!”
MÂY TRẮNG NÚI XANH
Nơi trắng không trắng
Nơi xanh không xanh
Trắng xanh như huyễn
Mây trắng núi xanh
THU HÚ
Thu hú! Thu hú!
Là mới là cũ?
Là có là không?
Thu hú! Thu hú!
NƯỚC DỐC
Dòng thác đổ xuống vực sâu
Một con cò
Đậu trên mõm đá
THU HÚ
Thu hú! Thu hú!
Là thu là hú?
Là hú là thu?
Thu hú! Thu hú!
HỪNG SÁNG
Mặt trời vừa mới ló
Biển xanh nghìn sóng vỗ
Con vạc bay lững lờ
“Vạc! Vạc!”
SẮC THINH
Sắc kia đâu tự sắc
Thinh kia đâu tự thinh
Một niệm phi thinh sắc
Thân đáo pháp vương thành
THU HÚ
Thu hú! Thu hú!
Thánh phàm chẳng trụ
Thoát thể vô y
Thu hú! Thu hú!
CHIỀU QUÊ
Cô gái quê
Quảy đôi thùng nước trên vai
Bên hàng dậu
THU HÚ
Thu hú! Thu hú!
Đêm ôm Phật ngủ
Ngày cùng Phật đi
Thu hú! Thu hú!
TRĂNG NƯỚC
Trăng ấy là trăng nước
Nước ấy là nước trăng
Nước trăng như hoa đốm
Trăng chiếu khắp mười phương
THU HÚ
Thu hú! Thu hú!
Hữu cú vô cú
Cây ngã bìm khô
Thu hú! Thu hú!
SUỐI THIỀN
Chuông xa thoáng động mặt hồ
Vừng trăng lơ lững lững lơ đầu ghềnh
Cội già trơ gốc chênh vênh
Sư ông ngồi giữa suối thiền cô đơn
THU HÚ
Thu hú! Thu hú!
Vi diệu thần chú
Linh dược nhiệm mầu
Thu hú! Thu hú!
VÔ VÔ VÔ
Con chó có Phật tánh không?
Nếu mà nói có nói không cũng thừa
Sáng nay đi dạo vườn dưa
Chó đâu chạy đến sủa bừa một hơi
THU HÚ
Thu hú! Thu hú!
Đói ăn mệt ngủ
Tu cùng chẳng tu
Thu hú! Thu hú!
TRĂNG THẬT
Ngón tay chỉ mặt trăng
Ngón tay không phải trăng
Vậy đâu là trăng thật?
Hét!
MƯA ĐÊM
Đầu thềm tí tách
Phi chủ phi khách
Ngói bể băng tan
Tí tách! Tí tách!
BỊP
Đầm sen nở rộ
Thỏ rừng gặm cỏ
Bìm bịp kêu vang
“Bịp! Bịp! Bịp! Bịp!”
MÂY NƯỚC
Kim Đài mở nước mây
Mới hay mây nước leo cây thuở nào
HOA LAN
Ô kìa!
Một đóa phong lan hé nụ
Trên cội thông già
THU ĐẾN
Nhạn kêu
từ đâu vẳng lại
Thu đến rồi!
ĐỐM LỬA
Một đốm lửa phát ra
bên sườn núi
Đêm tối mịt mùng
GIUN DẾ
Cái nghe cái thấy không còn
Con giun con dế cũng đồng ông tiên
RỬA BÁT
Ăn bánh
Uống trà
Rửa bát
Quét nhà
bửa củi
gánh nước
thì chẳng hỏi.
Chỉ hỏi:
“Thế nào là rửa bát?”
TÂM PHÁP
Tâm pháp như nhiên
Vạn cổ huy huyền
Thủy lưu sơn đảnh
Hoa vũ mãn thiên
THIỀN ẤN
Thiền ấn tịnh quang
Phổ chu sa giới
Liên Trì tuyên hội
Bát nhã diễn âm
XUÂN DI LẶC
Mỗi người có một xuân
Ấy là Xuân Di Lặc
Không tước cũng không huân
Vô thinh cũng vô sắc
Không trẻ cũng không già
Chẳng được cũng chẳng mất
Chẳng đến cũng chẳng đi
Không thêm cũng không bớt
Chẳng lý cũng chẳng đào
Phi chủ lẫn phi khách
Bày đặt liền mất xuân
Vì xuân đâu bày đặt?
Thể tánh vốn như nhiên
Xưa nay trong vằng vặc
Đâu chỉ là một xuân
Mà Xuân vô cùng cực
ĐỘC THOÁT
Bổn lai thường minh liễu
Không trung điểu xuyên du
Đàm thanh thầm ảnh chiếu
Hà tung tích xuân thu?
Động tĩnh hàm chu
Tướng tâm câu triệt
Thư chi ngọa chẩm Lăng Già Nguyệt
Sạ văn hinh hướng dã lan phu
LỘ
Thu hồ tịch mặc
Độc mộc cô tôn
Tâm nguyệt quang thôn
Tỳ bà huýnh thoát
MƯỜNG LĂNG
Người buổi ấy ra đi từ lịch kiếp
Sao không về một ngụm hớp Tây Giang?
Loài chim nhỏ theo hừng đông lảnh lót
Mường Lăng ôi! Hoa lá rụng bao lần …
Cây có cội từ hàn nham thiết cốt
Sông có nguồn từ sa mạc cô liêu
Nhựa đã chảy trên tàng cây khô chết
Máu đã lưu từ xác vữa thiên triều
Ta đã hái ngàn hoa từ thạch thảo
Xin nhớ cho dù bao kiếp thăng trầm
Loài chim ấy một lần qua hải đảo
Mường Lăng ôi! Hoa lá rụng âm thầm …
NẾU AI HỎI
Nếu ai hỏi: “Tên em là gì nhỉ?”
Xin thưa rằng: “Mây trắng và trời xanh”
Xin đạp nát thiên đường cùng ngạ quỷ
Để tên em sáng chói vạn kinh thành
Nếu ai hỏi: “Em tròn bao nhiêu tuổi?”
Xin thưa rằng: “Ba ba tắm trăng rằm”
Xin đếm bước đầu tiên là cùng cuối
Để tuổi em tròn nụ với môi hồng
Nếu ai hỏi: “Nơi nào em đang ở?”
Xin thưa rằng: “Em đang ở trong anh”
Xin xóa hết những ngày xưa lầm lỡ
Để về đây trùm chăn ngủ ngon lành.
KINH KIM CƯƠNG
Nhược kiến chư tướng phi
Tướng tức kiến Như Lai
(Nếu thấy các tướng không
Ngay tướng tức Như Lai)
GHI CHÚ:
Một hôm Kim Đài tụng kinh Kim Cương đến câu: “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”, liền phá cú đọc như trên, hội Bát Nhã vẫn nghiễm nhiên như xưa!
AI NIỆM A DI ĐÀ
Niệm Phật là ai?
Gà gáy ò o
Chân duỗi chân co
Mây Nam, núi Bắc
TÂM
- Mở lối:
Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác
Rất bình thường, không tạo tác
Suối reo, lá rụng toàn chơn
Chớ còn nghi ngờ gì khác
- Khảo xét:
Đưa gậy lên hỏi: - Thấy chăng?
Đập vào bàn hỏi: - Nghe chăng?
Có thấy có nghe, ngoài tâm có vật.
Không thấy không nghe, trong nước chết chìm.
- Thấu thoát:
Nói được, ăn 30 gậy.
Nói không được, ăn 30 gậy.
SAU RẰM
Sau rằm là ngày mấy?
Đồi Lâm Viên cỏ cháy
Vượn đầu non hú dài
Trong chăn, bọ chét quậy
VÔ SỰ
Các pháp đều không liên hệ
Chỉ do sanh tâm tồi tệ
Nay nếu một niệm chẳng sanh
Ấy là “Bà già bà đế”.
SARA ERIKSSON
Sweden, a country of peace
A nice girl went to Vietnam
Read loudly herself a question of heat
Ah! Who am I before concept?
KHO BÁU
Nhà mình xưa nay sẵn đủ
Đâu cần những thứ nào thêm
Buông hết những gì đang có
Núi Sam riêng đứng một mình
THẤY LÌA THẤY
Thấy chẳng do mắt
Nghe chẳng do tai
Thấy nếu lìa thấy
Liền thấy Kim Đài
CHẲNG NHẬN
Phiền não cũng chẳng nhận
Thiền định cũng chẳng nhận
Xưa nay vốn là ông
Còn tin tức nào nữa?
TRĂNG TRÒN
Xưa vốn không sanh
Nay cũng chẳng diệt
Như trăng tròn vành
Chưa từng khiếm khuyết
ĐÊM ĐẬU BẾN PHONG KIỀU
Tặng Trương Kế
Quạ kêu, trăng lặn, sương dày
Giấc sầu len lói đèn chài bờ phong
Cô Tô thuyền đậu bên dòng
Nửa đêm vọng tiếng Hàn San chuông rền
KỆ PHÁP
Gánh nước là bồ đề
Bửa củi là gương sáng
Các pháp vốn chẳng diệt
Bụi trần cũng chẳng sanh
TRỨNG VÀ GÀ
Tăng hỏi”
- Gà và trứng, cái nào có trước?
Kim Đài đáp:
- Khi có trứng thì có gà
Khi không trứng thì không gà.
Kệ: Khi có đồng thời có
Khi không đồng thời không
Trước sau đều chẳng lập
Hiển lộ chủ nhân ông.
TÂM VŨ TRỤ
Tăng hỏi:
- Đâu là tâm của vũ trụ?
Kim Đài đáp:
- Vũ trụ vô tâm
THE POEM OF SATORI
The road at the bottom of Won Gak mountain is not the present road
The man climbing with his backpack is not a man of the past
tok, tok, tok – his footsteps
transfix past and present
Crows out of a tree caw, caw, caw
Seung Sahn
The whole world is a single flower
page 229
Viên Giác sơn hạ phi Kim lộ
Bối khỏa hành khách, phi cổ nhơn
Trạc, trạc! Lý thanh quán cổ kim
Khả, khả! Ô thanh phi thượng thụ
Sùng Sơn
Đường dưói núi Viên Giác – không NAY
Khách vác đồ lên non – không XƯA
Chân bước suốt xưa nay: “Tốc! Tốc!”
Quạ bay lên cây kêu: “Quạ! Quạ!”
Kim Đài
MỘNG MỊ
Từ sanh đến tử chỉ là
Một tràng mộng mị dối ta dối người
“Mặt trời nửa đêm”, bút pháp của chính tác giả, viết xong ngày ba mươi tháng chạp, hòa âm cùng núi biếc mây ngàn …
---o0o---
Trình bày: Anna