Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 1: Khái niệm về «thể dạng trung gian» giữa cái chết và sự sinh trong Phật giáo

31/07/201115:25(Xem: 3307)
Chương 1: Khái niệm về «thể dạng trung gian» giữa cái chết và sự sinh trong Phật giáo

Dagpo Rinpoche
THỂ DẠNG TRUNG GIAN
GIỮA CÁI CHẾT VÀ SỰ SINH
Hoang Phong biên dịch
Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2011

KHÁI NIỆM VỀ «THỂ DẠNG TRUNG GIAN»
GIỮA CÁI CHẾT VÀ SỰ SINH TRONG PHẬT GIÁO


Tấtcả mọi hiện tượng đều tương liên với nhau và biến đổi, không có một sự gián đoạnhay ngưng nghỉ nào, không có gì bớt đi cũng không có gì thêm vào, chỉ có nguyênnhân này sinh ra hậu quả kia, rồi hậu quả kia lại tạo ra nguyên nhân khác. Đó là cáinhìn của Phật giáo đối với tất cả các hiện tượng trong vũ trụ cũng như đối vớisự sống và cái chết của từng cá thể.

Thếnhưng con người thường không chấp nhận quy luật biến đổi liên tục ấy của mọi hiệntượng và xem sự sinh là một biến cố mới mẻ đánh dấu một sự khởi đầu, cái chết làmột sự chấm dứt hay xóa bỏ. Trên thực tế sự sinh không xảy ra một cách vô cớ màcần phải có một nguyên nhân từ trước và hội đủ một số điều kiện nào đó. Mặt khácnếu sự sinh tạo ra các nguyên nhân và điều kiện cần thiết giúp cho cái chết cóthể xảy ra, thì chính cái chết nhất định cũng tạo ra các nguyên nhân khác và các điều kiện khácgiúp một sự sinh mới có thể hình thành. Quá trình diễn tiến của sự sinh đưa đếncái chết thì mọi người đều biết, thế nhưng quá trình của cái chết đưa đến sựsinh lại là một câu hỏi rất lớn, một «khoảng trống» khó nắm bắt.

Dựavào các phương pháp quan sát, phân tích và các kỹ thuật thiền định, Tan-trathừa, còn gọi là Kim cương thừa, ra sức tìm hiểu thật chi tiết cáchiện tượng biến động xảy ra giữa hai biến cố trên đây, tức những gì xảy ra giữacái chết và sự sinh của một cá thể. Hơn thế nữa Tan-tra thừa còn đưa ra các phéptu tập giúp chủ động được các thể dạng xảy ra trong các giai đoạn của quá trìnhđó để hướng chúng vào sự tu tập với mục đích «chận đứng» hay«ngắt bỏ» quá trình của sự sinh để đạt được sự Giải thoát thật sự.

Mộtcách tổng quát đối với Phật giáo Đại thừa nói chung và nhất là đối với Tan-trathừa, các hiện tượng xảy ra giữa «cái chết» và «sự sinh»được phân chia thành ba giai đoạn:

a)giai đoạn thuộc quá trình của cái chết : tức quá trình tan biến của thân xácvà tâm thức thuộc kiếp sống hiện tại.

b)Giaiđoạn trung gian: tiếng Phạn gọi là Antarabhava, tiếng Tây tạnggọi là Bardo: tức là giai đoạn chuyển tiếp giữa quá trình trên đâyvà quá trình hình thành còn gọi là sự sinh xảy ra sau đó.

c)giai đoạn thuộc quá trình của sự sinh tức là quá trình diễn tiến của sự thụthai và sự hình thành một cá thể thuộc vào kiếp sống sau.

Thể dạng trung giancòn gọi là Trung hữuhay Trung ấmlà một hiện tượng cấu hợp, dođó nó cũng vô thường và sinh diệt như tất cả các hiện tượng khác. Tuy nhiên kháiniệm về thể dạng Trung gian củacác tông phái Phật giáo không hoàn toàn thống nhất. Sau đâylà phần trình bày thật sơ lược vài nét chính về thể dạng trung gian đối với Phậtgiáo nguyên thủy, Đại thừa nói chung và Tan-tra thừa.

A- Khái niệm về thểdạng trung gian đối với Phật giáo nguyên thủy và Đại thừa

Phật giáo Nguyên thủy hay Theravadacòn gọi là Phật giáo Nam tông không chấp nhận sự hiện hữu của thể dạng trunggian (antarabhava). Đối với Phật giáoNguyên thủy, dòng tiếp nối liên tục củatri thức(continuum of consciousness) trực tiếp chuyển tải nghiệp của một cáthể từ cái chết sang sự sinh (thụ thai) không có sự gián đoạn nào tức không trảiqua một thể dạng trung gian nào cả. Sự «chuyển tiếp» giữa thể dạng hiệnhữu trước sang thể dạng hiện hữu tiếp theo sau xảy ra rất nhanh chỉ trong khoảnhkhắc của «một chớp mắt hay một tiachớp».

Tómlại Phật giáo Nguyên thủy không quan tâm đến những gì xảy ra giữa cái chết và sựsinh. Có thể đây là một sự thiếu sót, vì khi quan sát và theo dõi diễn tiến của một cái chết bình thường, người ta thấyquá trình đó không xảy ra đột ngột như một «tia chớp», và đối với sự sinh thì các điều kiện thuận lợi giúptinh trùng, noãn cầu và dòng tiếp nối liên tục của tri thức kết hợp với nhau khôngxảy ra trong «chớp mắt».

Kháiniệm về thể dạng trung gian xuất hiện trước nhất trong học phái Nhất thiết hữubộ (Sarvastivadin), khoảng ba trăm năm sau khi Đức Phật tịch diệt. Có thể tập A-tì Đạt-ma Câu-xá luận(Abhidharmakosa) do Thế thân (Vasubandu -thế kỷ thứ III-IV) biên soạn là tập sách đầu tiên nêu lên khái niệm về thể dạngtrung gian xảy ra giữa cái chết và sự sinh. Thể dạng này tượng trưng bởi mộtsinh linh cấu tạo bằng «khí» và «tri thức»(consciouness), mang hình hài của cá thể mà nó sắp tái sinh và «sống»được bảy ngày. Sinh linh trong thể dạng trung gian ấy có thể nhận biết được cácsinh linh cùng một thể loại với nó. Sau bảy ngày thì nguyên nhân của nghiệp bắtđầu «chín», sinh linh ở thể dạng trung gian trên đây sẽ chuyển sangthể dạng tái sinh trong những điều kiện phù hợp với nghiệp của nó.

Cũngtheo học phái Nhất thiết hữu bộ, các sinh linh trong hai cõi dục giới và hình tướngđều phải trải qua một thể dạng trung gian antarabhavagiữa quá trình tan biến của cái chết và quá trình hình thành của sự sinh. Ngoàikhái niệm về thể dạng trung gian trên đây do học phái Nhất thiết hữu bộ chủ trương,còn có thêm một học phái xưa khác là Tự ngã bộ (Pudgalavadin) cũng chủ trương bắtbuộc phải có một thể dạng trung gian chuyển tải dòng tiếp nối liên tục của trithức từ một cá thể (pudgala) này sang một cá thể khác.

Trongsố các tông phái Đại thừa, Duy thức học (Yogacara – Cittamatra) đặc biệt nghiêncứu và chú trọng đến thể dạng trung gian antarabhava.Học phái Duy thức nêu lên khái niệm về một «cơ sở» giữ vai trò «hỗtrợ» hay «chuyển tải» tri thức (consciousness) xuyên qua cácthể dạng hiện hữu khác nhau. Cơ sở này chính là a-lại-da thức(alayavijnana). chuyển tải các vết hằn (tiếngPhạn : vasana– kinh sách tiếngViệt gọi là tập khí) của nghiệp và cácchủng tử (tiếng Phạn : bija) tạora thể dạng tương lai của một cá thể. Tóm lại trên một khía cạnh nào đó có thểhiểu a-lại-da thứcdòng tiếp nối liên tục của tri thức(continuum of consciousness) của một cá thể, vận hành xuyên qua thể dạng trunggian. Tan-tra thừa «mô tả» các cơ sở chuyển tải trên đây dưới hìnhthức các «khí» cực tinh tế.

Vôtrước (Asanga, thế kỷ thứ V) trong tập A-tìĐạt-ma tập luận(Abhidharmasamuccaya)cho biết trong trường hợp cái chết xảy đến với một người mang nhiều nghiệp tiêucực nửa phần cơ thể bên trên của người này mất hơi ấm trước nhất, trái lại trongtrường hợp cái chết xảy đến với một người đạo hạnh thì hơi ấm khởi sự suy giảmtrước hết từ nửa phần bên dưới của cơ thể. Vô trước còn cho biết thêm «đối với người hung ác, sinh linh trong thể dạngtrung gian mang hình tướng một con bò mộng đen tuyền hoặc tương tợ như bóng tốidầy đặc, [trái lại] đối với người đạo hạnh [sinh linh trong thể dạng trunggian] sẽ giống như một tấm vải trắng hay ánh sáng trăng rạng rỡ» (tríchtrong tập Abhidharmasamuccaya,dựa theobản dịch của W. Rahula). Sinh linh trong thể dạng trung gian «sống»bảy ngày, hoặc nhiều hơn, tuy nhiên cũng có thể «chết» trước thời hạn đó. Sinhlinh này rất linh động vì không có chướng ngại nào ngăn cản được sự di chuyển củanó.

Sinhlinh trong thể dạng trung gian «chết» đúng vào lúc hình thành sự thụthai. Dục vọng, lòng mong muốn được tái sinh và sự bám víu vào một nơi chốn nàođó là những động cơ thúc đẩy các sinh linh trong giai đoạn trung gian đi tìm các điều kiệntái sinh phù hợp với nghiệp của mình. Thời điểm khi xảy ra sự sinh (thụ thai) đánhdấu sự chấm dứt của thể dạng trung gian và xác định sự thâm nhập của tri thức vàophôi vừa được hình thành. Cũng bắt đầu từ thời điểm trên đây phôi hàm chứa mộttri thức mới, tượng trưng cho quả phát sinh từ nghiệp trong các kiếp trước. Thông thường thểdạng trung gian kéo dài 7 ngày, tối đa 49 ngày sau khi chết. Tuy nhiên theo sựtin tưởng của một số tông phái Phật giáo Nhật bản thời gian này có thể lên đến 77ngày.

B- Thể dạng trung gian đối với Tan-trathừa

Kháiniệm về thể dạng trung gian được Tan-tra thừa và nhất là Tối thượng du-giàTan-tra nghiên cứu, tu tập và quảng bá rộng rãi. Tan-tra thừa sử dụng cácphương pháp quan sát, phân tích và thiền định để tìm hiểu các hiện tượng liênquan đến quá trình của cái chết và sự sinh để ứng dụng vào việc tu tập. Cáichết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chất vàtâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc từ thôthiển đến tinh tế và cực tinh tế.

Sựtan biến thể xác có nghĩa là thân xác vẫn còn đó thế nhưng các thành phần vậtchất tạo ra thể xác không còn hội đủ khả năng để «hỗ trợ» hay«chuyển tải» tâm thức nữa. Sự tan biến của tâm thức hay các thểdạng tâm thần có nghĩa là «khí lực» hay các loại «khí»mất dần khả năng «chuyểntải» các loại cảmnhận và khái niệm. Hai loại hiện tượng tan biến vật chất vàtâm thần trên đây diễn tiến song hành với nhau: sự tan biến của các khả năngvật chất xảy ra cùng lúc với sự tan biến của các khả năng tâm thức. Sự tan biếnhoàn toàn các khả năng của các thành phần vật chất và tâm thức đánh dấu sự chấmdứt của quá trình của cái chết, tức cái chết thực sự đã xảy ra.

Cáchiện tượng tan biến trên đây không nhất thiết chỉ xảy ra trong quá trình của cái chết mà còn thườngxuyên xảy ra trong cuộc sống thường nhật, chẳng hạn như khi chợp mắt để ngủ haykhi bất chợt rơi vào sự bất tỉnh. Vì thế khái niệm về thể dạng trung gian antarabhavakhông nhất thiết chỉ dùng đểmô tả giai đoạn trung gian sau khi chết (post-mortem) mà còn dùng để chỉ định cácsự biến đổi quan trọng khác của tri thức có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong cuộcsống hàng ngày.

Tóm lại thể dạng trung gian chỉ địnhmột giai đoạn « chuyển tiếp » không hề xác định một sự « chấm dứt » nào cả. TheoTan-tra thừa việc tu tập cũng là một hành động liên tục, do đó phải lợi dụng bấtcứ thể dạng tâm thức nào xảy ra trong các quá trình trên đây để làm hiển lộ« ánh sáng trong suốt» (tiếngPhạn : prabhavasvara, tiếng Tây tạng : ‘od-gsal) của tâm thức căn bảnhay nguyên thủy. Vì thế các biến đổi quan trọng của tri thức trong giai đoạntrung gian được xem như các « dịp may » hay các « biến cố »thuận lợi giúp người tu tập có thể làm hiển lộ và trực tiếp cảm nhận thể dạng tựnhiên của ánh sáng trong suốt.

Sau đây là các khái niệm về thể dạngtrung gian bardotheo các trường phái Tan-tra khác nhau :

Ninh-mãphái (Nyingmapa) là một trường phái xưa, xuất hiện rất sớm khi Phật giáo bắt đầubành trướng ở Tây tạng vào khoảng thế kỷ thứ VIII-IX. Trường phái này nghiên cứurất tỉ mỉ thể dạng bardo. Rất nhiều kinh sách thuộc chi phái Dzogchen trong Ninh-mãphái mô tả rất chi tiết về thể dạng trung gian này. Trong số các kinh sách vừakể có một tập rất nổi tiếng là Bar-dothos-grol, còn viết là Bardo thödol,có nghĩa là «Giải thoát khỏi thểdạng trung gian bằng cách nghe». Thế nhưng tập sách này khi được dịchsang nhiều thứ tiếng khác nhau lại thường mang tựa đề không trung thực với nguyênbản, chẳng hạn như «Tử thư Tây tạng»,«Le livre de la mort tibétaine»,«The Tibetan book of the Dead»,v.v..., cách dịch không chính xác này có thể gây ra hiểu lầm về nội dung củaquyển sách.

Theo Phật giáo Tây tạng có tất cả sáuthể dạng trung gian, thế nhưng thường thì được gom lại thành bốn thể dạng nhưsau :

I- Thể dạng bardo tự nhiên của sự sống(tiếngPhạn : jatyantarabhava, tiếng Tây tạng :skyes-gnas bar-do) : đó là giai đoạnkhởi đầu từ giây phút thụ thai cho đến lúc hội đủ các điều kiện làm phát sinhra cái chết.

Sở dĩ thể dạng bardo của sự sống giữ được tình trạng tương đối «ổnđịnh» trong một khoảng thời gian nào đó là nhờ vào những nghiệp làm phátsinh ra sự sống ấy vẫn còn bảo tồn được tiềm năng tác động của chúng để duy trì sự sốngấy trong một cõi thuộc sáu cõi luân hồi. Nói một cách khác khi nào các nghiệp ônhiễm làm phát sinh ra sự sống còn duy trì được một số hiệu năng thì khi ấy sựsống vẫn còn tiếp tục giữ được một sự tương tác thăng bằng nào đó để hiện hữu. Vìthế cũng nên hiểu rằng sự sống dưới thể dạng con người, tức thể dạng bardo củasự sống, đòi hỏi các nghiệp đang tác động phải bảo tồn được một tư thế kết hợp bềnvững nào đó. Tư thế kết hợp và tương tác của vô số nghiệp tạo ra sự sống này rấtmong manh, và vì lẽ rất mong manh nên sự sống đó thật quý giá. Đó là phương tiện tối cần thiết giúp một cá thể cóthể đạt được sự Giác ngộ ngay trong kiếp nhân sinh này, hay trong thể dạngbardo của cái chết. Hoặc trong trường hợp kém may mắn hơn cáthể ấy ít ra cũng sẽ tái sinh trong những điều kiện thuận lợi để có thể tiếp tụctu tập trong kiếp sống sau.

Tình trạng trung gian bardo của sựsống có thể phân chia thành nhiều thể dạng khác nhau căn cứ vào tình trạng biếnđổi của các thể dạng tri thức trong cuộc sống thường nhật, có tất cả ba thể dạngchính yếu như sau:

1- Thể dạng bardotự nhiên(tiếng Phạn : jatyantarabhava,tiếng Tây tạng: rang-bzhin-gyi bar-do): là thể dạng tri thức tự nhiên tronglúc tỉnh, tức là ngoài các giấc ngủ.

2- Thể dạng bardokhi chiêm bao(tiếng Phạn : svapanantarabhava, tiếng Tây tạng :rmi-lam bar-do) : là quá trình xảy ralúc « chợp mắt » khi khởi sự ngủ, quá trình này tuy rất ngắn nhưng khátương tợ với quá trình của các hiện tượng tan biến khi xảy ra cái chết. Khi nămkhả năng tri thức của giác cảm tan biến vào a-lại-da thức trong lúc vừa chợp mắt,ánh sáng trong suốt sẽ phát hiện. Thế nhưng quá trình đó diễn tiến quá nhanh khiếnhầu hết những người không tu tập không thể nhận biết được và họ chìm vào giấc ngủthật nhanhchóng ngay sau đó.

Một số người tu tập thiền định du-giàcó thể «dừng lại» trong ánh sáng trong suốt của giấc ngủ và biến giấcngủ trở thành một thể dạng tâm thức rạng ngời. Đấy cũng là một trong các phép tậpluyện Tan-tra giúp họ lưu lại lâu dài hơn trong giai đoạn ánh sáng trong suốtkhi quá trình của cái chết xảy đến với họ sau này.

Ngoàira trên một khía cạnh nào đó giai đoạn ngắn ngủi trước khi tỉnh giấc cũng có thểxem như thể dạng bardo của sự hình thành. Trong một số trường hợp các giấc mơ hàmchứa các khí thật tinh tế giúp tâm thức hiểnhiện dưới thể dạng «thân xác giấc mơ» (corps de rêve – dreamingbody). Thân xác hiển hiện trong giấc mơ rất linh động có thể di chuyển đếnbất cứ nơi nào. Các phép luyện tập du già giúp chủ động được những gì hiển hiệnra trong giấc mơ và phát huy được sự sáng suốt để quán nhận được bản chất ảo giáccủa những thứ ấy.

3- Thể dạng bardokhi thiền định(tiếng Phạn : samadhyantarabhava, tiếng Tây tạng :bsam-gtan bar-do) : là một thể dạngtri thức mang đặc tính trung gian giữa hai thể dạng khác nhau : một là thểdạng tri thức bình thường mang tính cách nhị nguyên và thô thiển trong lúc tỉnhvà một là thể dạng hiển hiện của tánh không trong sáng và rạng ngời gọi là rigpa(tiếng Tây tạng rig-pa) là ánh sángtrong suốt của trí tuệ nguyên thủy. Khả năng duy trì sự thăng bằng của thể dạngrigpa trong lúc thiền định và trong các giấc ngủ giúp người tu tập khi chết lưulại lâu dài hơn trong thể dạng trong suốt của cái chết. Học phái Dzogchen đưara nhiều phép tu tập giúp phát triển khả năng lưu lại trong dòng chảy tự nhiêncủa rigpa nhằm mục đích tạo ra các điều kiện thuận lợi để tinh khiết hóa mọi sự nhậnthức cũng như các xu hướng tiêu cực của nghiệp.

II- Thể dạng đau đớn của bardo khi xảy ra cái chết(tiếng Phạn : mumursantarabhava,tiếng Tây tạng : ‘chi-kha’i bar-do) :là thể dạng bắt đầu từ lúc xảy ra các dấu hiệu không còn đảo ngược được của cái chết kéodài cho đến hết giai đoạn hiển hiện của ánh sáng trong suốt căn bản. Toàn thểgiai đoạn đau đớn của bardo có thể xem là giai đoạn « hấp hối », tronggiai đoạn này các sự tan biến «bên trong» và «bên ngoài»tuần tự xảy ra đưa đến cái chết thật sự. Trong các trường hợp bất đắc kỳ tửgiai đoạn này diễn tiến thật nhanh.

Sau đây là các hiện tượng tan biến củacác thành phần thân xác và tâm thức cấu tạo một cá thể :

1- Sự tan biến của các thành phần cấu hợp thân xác:

Sự suy thoái tuần tự của bốn thànhphần cấu hợp thân xác là đất, nước, lửa và khí tạo ra các hiện tượng hòa tan« bên ngoài ». Đồng thời với các sự tan biến đó, hệ thống kinh mạch vàcác « luân xa » (tiếng Phạn : cakra) cũng thoái hóa theo. Sự tanbiến vật chất bên ngoài như vừa kể sẽ làm phát sinh các dấu hiệu « bêntrong » :

1) Khi thành phần đất tan vào thànhphần nước, thân xác trở nên nặng nề, tay chân bủn rủn không cử động được nữa,người hấp hối có cảm giác thân xác nặng nề như bị lún sâu xuống đất. Thị giácsuy thoái, hình ảnh do mắt ghi nhận trở nên mờ ảo. Dấu hiệu bên trong là sự cảmnhận các loại ảo ảnh.

2)Khi thành phần nước tan biến vào thành phần lửa, các chất lỏng của cơ thể chẳnghạn như nước miếng, các chất nhờn,... chảy ra ngoài và bị khô. Người hấp hối mấthết các cảm nhận xúc giác. Thính giác suy thoái không nghe được rõ. Dấu hiệu bêntrong là sự cảm nhận một làn khói mỏng đang tỏa rộng.

3) Khi thành phần lửa tan vào thànhphần khí, hơi ấm giảm xuống và tan biến, người hấp hối cảm thấy lạnh. Mọi sự nhậnthức tan biến, mũi không ngửithấy mùi. Dấu hiệu bên trong là các tia lửa bắn tung toéhay đom đóm bay loạn.

4) Khi thành phần khí tan vào khônggian, hơi thở trở nên hổn hển, khò khè, thở hắt ra và sau cùng là ngưng thở. Mọi ý chí biếnmất, lưỡi co rút lại và không còn cảm nhận được vị. Người hấp hối hoàn toàn khôngcòn cảm nhận được mọi sự va chạm vào cơ thể. Dấu hiệu bên trong là sự cảm nhậnmột ngọn lửa của chiếc đèn dầu hay một ngọn nến đang bập bùng trước gió.

Các học phái Tan-tra xưa cho rằng vàothời điểm này máu huyết kết hợp lại và ba giọt máu chui vào kinh trung tâm tạivị trí tim, trong khi đó hơi thở ngắn dần và ngưng bặt.

Khi hoàn toàn ngưng thở tim cũng ngưngđập. Đây là thời điểm đánh dấu cái chết xảy ra theo các «tiêu chuẩn ykhoa» Tây phương. Thế nhưng theoTan-tra thừa quá trình của cái chết vẫn còn đang tiếp diễn.

2- Các hiện tượng tan biến xảy ra sau khi các cấu hợp vật chất đã tan biến :

Saukhi các cấu hợp vật chất tan biến có nghĩa là mất hết khả năng chuyển tải tri thức thì các hiện tượngtan biến vẫn tiếp tục nhưng thuộc lãnh vực «bên trong», liên quan đếncác hiện tượng tinh tế của tri thức. Đồng thời với hiện tượng tan biến này pháthiện một cách tuần tự sự rạng ngời căn bản của tâm thức. Các sự tan biến trên đâygồm ba giai đoạn :

a)Giai đoạn bên ngoài(tiếng Tây tạng :snang-ba) liên quan đến giọt (tiếngPhạn : bindu, tiếng Tây tạng :thig-le) bồ đề tâm màu trắng di chuyểntừ đỉnh đầu xuống vị trí tim. Dấu hiệu bên trong là sự cảm nhận một màu trắng rựcrỡ như ánh trăng vằng vặc của bầu trời mùa thu. Tiếp theo đó ba mươi ba thể dạngtư duy liên quan đến sự giận dữ cũng tan biến hết, trong số này có thể kể ra:sự buông bỏ các đối tượng của sự thèm khát, sự khổ đau, sự sợ hãi, các cảm giácnhư đói, khát, căn bản hiểu biết, sự xấu hổ, tình thương, v.v...

b)Giai đoạn thăng tiến(tiếng Tây tạng :mched-pa) liên quan đến sự di chuyểncủa giọt bồ đề tâm màu đỏ thuộc vị trí cơ quan sinh dục hay rốn ngược lên vị trí củatim. Dấu hiệu bên trong là sự cảm nhận một màu đỏ tương tợ như lúc mặt trời lặn.Bốn mươi khái niệm nhận thức phát sinh từ dục vọng tan biến, trong số này có thểkể ra : sự thèm khát vật chất, hân hoan, kinh ngạc, cười, kiêu hãnh, tìnhbạn hữu, sự kết hợp vì yêu thương lẫn nhau, sự quyến rũ, đạo đức, sự can đảm,v.v...

c)Giai đoạn thu đạt được (tiếng Tây tạng :thob-pa) liên quan đến sự phối hợp giữagiọt trắng và giọt đỏ nơi vị trí của tim. Dấu hiệu bên trong là sự cảm nhận mộtbầu trời tăm tối và đen sẫm. Bảy khái niệm phát sinh từ vô minh bắt đầu tan biến,gồm có : sự thèm khát mãnh liệt, sự quên lãng, sự khinh miệt, sự câm nín(mutisme), sự buồn bã, sự lười biếng, sự nghi ngờ, đấy là bảy loại khái niệm phátsinh từ sự ngu đần. Sự tan biến đó tượng trưng cho sự hòa tan của tri-thức-không-gianvào thể dạng ánh sáng căn bản rigpa, tương tợ như bầu trời lúc rạng đông chan hòa sự rạngrỡ căn bản của cái chết. Kinh mạch trung tâm nơi vị trí tim được tháo gỡ đánh dấuthời điểm xảy ra cái chết thật sự.

Đốivới một người tu tập cao thâm đã từng lưu lại một cách bền vững trong sự rạng rỡtự nhiên của thể dạng rigpa và đã từng cảm nhận được « ánh sáng trong suốtcon » trong những lúc tu tập khi còn sống sẽ nhận ra « ánh sáng trongsuốt mẹ » của cái chết và hội nhập với ánh sáng đó, và nhờ đó sẽ đạt đượcpháp thân (dharmakaya) tức là tự giải thoát cho mình. Thể dạng trung gian bardocũng sẽ chấm dứt đối với họ vào thời điểm này. Đối với những người không tu tậphoặc khả năng tu tập còn kém, sau khi cảm nhận được sự rạng rỡ rigpa sẽ nhanhchóng rơi vào một thể dạng vô thức, và tùy theo trường hợp thể dạng này có thểkéo dài lâu hay mau.

III- Thể dang bardo của hiện thực tuyệt đối (tiếng Phạn : dharmatantarabhava,tiếng Tây tạng : chos-nyid-kyi) :là thể dạng khi cảm nhận được ánh sáng trong suốt căn bản của pháp thân(dharmakaya) trong lúc tri thức tan biến vào sự rạng rỡ. Đó là thể dạng tinhkhiết và rạng rỡ của tâm thức nguyên thủy, tương tợ như bầu trời quang đãng khôngmột bóng mây. Theo các học phái Tan-tra xưa, thân xác của người chết bỗng chuyểnđộng thật nhẹ và một giọt máu chảy ra từ lỗ mũi bên phải và một giọt trắng chảyra khỏi đường bí hiểm (tức cơ quan sinh dục), thể dạng rạng ngời tự nhiên tức làrigpa bốc lên từ tim và thoát ra ngoài bằng cửa ngõ của hai mắt, đấy là giai đoạncủa ánh sáng trong suốt của ứng thân (sambhogakaya), giai đoạn này gồm có bốn sựtan biến.

1) Sự tan biến củakhông gian trong sự rạng ngời(tiếng Tây tạng :nam-mkha’ ‘od-gsal-la thim-pa) : trong giai đoạn này không còn lưu lại mộtsự vướng mắc vật chất nào thuộc thể dạng bên ngoài, tri thức « khoác lên »cho mình một hình tướng rạng ngời, hiển hiện dưới hình dạng những tấm gấm vóc óngả, muôn màu và lấp lánh. Người tu tập nhận biết được các hiện tượng đó là nhữngbiểu hiện của chính mình và nhân đó tự giải thoát cho mình. Nếu không thành côngsẽ chuyển sang thể dạng tan biến tiếp theo.

2) Sự tan biến của ánh sáng rạng ngời trong sự kết hợp(tiếng Tây tạng : ‘od-gsal zung-‘jug la thim) : tronggiai đoạn này nhiều bầu ánh sáng kết hợp lại và làm hiển lộ các mạn-đà-la(mandala) của các thân chư Phật gồm cả các chư Phật hung tợn và hiền hoà, trongkhi đó các tiếng vang rền kinh khiếp nổi lên và ánh sáng tràn ngập không gian.Người tu tập không nên hốt hoảng và xem đấy chỉ là những biểu hiện phát xuất từ chính mình. Trong giai đoạnnày lần lượt phát hiện các mạn-đà-la của chư Phật như : Tỳ-lô Giá-na (Vairocana),Kim-cang Tát-đóa – A-súc Bệ Phật (Vajrasattva-Aksobhya), Nam Phật (Ratnasambhava),A-di-đà Phật (Amitabha), Ly-bố-uy Như lai (Amoghasiddhi), v.v... Từ nơi tim củangười tu tập phát hiện các tia sáng rạng ngời chiếu thẳng vào tim của các thầnlinh phù trợ tức chư Phật trên đây, tuần tự từng vị một. Nếu người quá vãng đủkhả năng lưu lại thật bền vững trong một trong các thể dạng chư Phật tuần tự xuấthiện như vừa kể, thì vị Phật phù trợ ấy sẽ tan biến vào người quá vãng giúp chongười này đạt được sự Giác ngộ.

3) Sự tan biến của sự kết hợp vào trí tuệ(tiếng Tây tạng : zung-‘jug ye-shes la thim) : trong giai đoạn tan biếnnày nhiều tia sáng phát ra từtim làm phát hiện sự quán thấy những tấm gấm vóc phản chiếunhư những tấm gương, các tấm gấm vóc màu trắng nằm vào vị trí bên dưới, sau đólà các tấm gấm vóc màu vàng, màu đỏ và trên hết là màu xanh dương. Đấy là các biểuhiện của sự « kết hợp của bốn thứ trí tuệ ». Trí tuệ tượng trưng bằngmàu xanh lá cây chưa hiển hiện vì đấy là trí tuệ cao nhất gọi là trí tuệ hoànthiện (viên mãn).

4) Sự tan biến của trí tuệ vào sự hiện diện đột khởi(tiếng Tây tạng : ye-shes lhun-grub-la thim) : trong giai đoạnnày các biểu hiện vừa kể trên đây kết hợp lại thành một cái tán (cái lọng) thậtlớn. Phần bên trên là không gian tinh khiết của pháp thân, tượng trưng bằng bầutrời trong sáng không mây, bên dưới là các thần linh phù trợ hiền hòa và hung tợnbiểu hiện của ứng thân (sambhogakaya), bên dưới là vùng tinh khiết tự nhiên củahóa thân (nirmanakaya), và sau cùng nơi vị trí thấp nhất là các biểu hiện ảo giáccủa sáu cõi luân hồi. Tuy nhiên đấy chỉ là những biểu hiện bên ngoài của Căn bản tâm thức nguyên thủycủa ngườiquá vãng, liên quan đến Căn bản của támphương thức biểu hiện. Người tu tập dựa vào khả năng tu tập từ trước có thểlưu lại vững vàng trong thể dạng đó với tất cả sự tự tin và sẽ đạt được sự Giảithoát. Tám phương thức biểu hiện sẽ tan biến vào sự tinh khiết nguyên thủy làmhiển lộ pháp thân (dharmakaya).

IV- Thể dạng bardo của sựhình thành(tiếng Phạn : bhavantarabhava, tiếng Tây tạng : srid-pa bar-do) : Đây là thể dạng thông thường xảy ra đối với tấtcả mọi người không tu tập hoặc có tu tập nhưng không đủ khả năng khai thác đượccác thể dạng diễn tiến quá nhanh trên đây để đạt được sự Giải thoát. Những ngườinày phải trải qua quá trình hình thành, tức quá trình đảo ngược với quá trìnhtan biến đã được mô tả trên đây và phải mang một thân bardo (tiếng Phạn :antarabhavavayukaya, tiếng Tây tạng : bar-do’i rlung-lus, tiếng Việt :thân trung hữu), gồm có khí tinh tế phối hợp với tri thức. Có thể xem thânbardo hay trung hữu là một sinh linh hàm chứa các khả năng giác cảmtức có thể nhận biết và di chuyển khắp mọi nơi không bị một sự ngăn cản nào, cácbiểu hiện của nó tương tợ như những ảo giác phát sinh trong giấc mơ. Người tu tậpquá vãng có thể nhân cơ hội này để đạt được sự Giải thoát qua một trong sáu lãnhvực tinh khiết của hoá thân (nirmanakaya). Thể dạng bardo sẽ chấm dứt ngay sau đó.

Đốivới những người không tu tập, tâm thức hỗn loạn phục hồi nhanh chóng và đủ mọi thứtư duy và hình ảnh phát sinh từ xung năng của nghiệp hiển hiện trở lại. Ngườiquá vãng cảm biết được mình đã chết khiến họ rất đau khổ, nhất là biết mình khôngcòn khả năng giao tiếp và trao đổi với người sống và khi nhìn thấy họ thờ ơ vớimình. Các sinh linh trong thể dạng bardo có thể di chuyển đến bất cứ nơi nào vớitốc độ của sự suy nghĩ, trừ ra nơi chốn sẽ xảy ra sự tái sinh của mình. Cáchsinh linh này sống bằng mùi bốc ra từ thực phẩm mà người sống cúng dường cho họvà thường xuyên bị dao động bởi ảnh hưởng tác động của mọi thứ nghiệp, họ bị chaođảo như «một cái lông chim bị gió thổitung». Các sinh linh này có thể gặp nhau và nhận biết ra nhau, đồng thời cũnghọ cũng gặp các sinh linh thuộc các cõi khác, chẳng hạn như cõi ngạ quỷ (quỷ đói).Họ không tìm thấy một nơi nào có thể giúp họ dung thân, tâm thức họ luôn bấtan, bị chấn động bởi mọi thứ xúc cảm.

Các xung năng của nghiệp có thể tạora những cảnh tượng khiếp đảm, chẳng hạn như các vực sâu màu đỏ, màu trắng hay đen,cảnh bị quỷ dữ đuổi bắt, mưa đá, thú dữ... Trong từng mỗi giai đoạn kéo dài bảyngày, bốn thành phần cấu hợp sẽ tạo ra bốn loại khiếp đảm tượng trưng bởi các cảnhtượng : núi non sụp lở (thành phần đất), bị cuốn trôi trong các dòng thác hunghãn (nước), rơi trong than hồng và lửa đỏ (thành phần lửa) và những nỗi khổ đaumênh mông (khí). Do đó các sinh linh trong thể dạng bardo cũng phải trải qua cácquá trình tan biến và hình thành tương tợ như cái chết và sự sinh, tuy nhiên cáchiện tượng này hoàn toàn thuộc lãnh vực tâm thần. Người sống có thể giúp đỡ cácsinh linh đang vướng mắc trong thể dạng bardo hướng vào sự tái sinh với các điềukiện thuận lợi bằng cách hồi hướng công đức của mình cho họ.

Hiện tượng tái sinh xảy ra nhưsau : sinh linh trong thể dạng bardo bị thu hút bởi hình ảnh của cha và mẹmình trong tương lai đang giao hợp. Nếu sinh linh bardo sẽ tái sinh dưới thể dạngnam tính, họ sẽ bị thu hút và phát lộ sự thèm khát mãnh liệt đối với người mẹ tươnglai của mình, và ngược lại nếu sinh linh bardo sẽ tái sinh dưới thể dạng nữ tínhsẽ phát lộ sự thèm muốn đối với người cha tương lai của mình. Sinh linh bardo bịhút vào điểm giao hợp và đồng thời xảy ra hiện tượng kết hợp hai giọt trắng và đỏ,tri thức bị ép chặt vào giữa hai giọt. Quá trình đảo ngược với quá trình tan biếncủa cái chết tiếp tục diễn tiến thêm góp phần vào sự hình thành một cá thể. Đồngthời với sự diễn tiến của quá trình hình thành trên đây các kinh mạch, luân xa(cakra) và khí cũng được thành lập.

Dầu sao cũng cần ghi chú thêm làcách mô tả các thể dạng bardo của các học phái Tan-tra xưa (như đã được trình bàysơ lược trên đây) và của các học phái Tan-tra mới đại diện bởi Tối thượngdu-già Tan-tra có một số khác biệt trên chi tiết. Tuy nhiên sự khác biệtquan trọng đáng ghi nhận hơn hết chỉ thuộc vào lãnh vực thực hành tức là các phéptu tập nhiều hơn, nhất là đối với Tối thượng du-già Tan-tra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/08/2024(Xem: 914)
Khi thấy Đức A Di Đà Phật xuất hiện, Cụ Ông 80 tuổi, vào hai đêm trước ngày ra đi, mặc dù bị bệnh ung thư đại tràng giai đoạn cuối, vẫn mỉm cười niệm Nam Mô A Di Đà Phật; ngay trước giờ xả bỏ báo thân, Cụ Ông, lại một lần nữa, thấy Đức A Di Đà Phật hiện ra; và sau đó tỉnh táo, sáng suốt ra đi an lành. Tâm Tịnh và Hoa Chí cùng con cháu của Cụ có duyên lành hỗ trợ Cụ Niệm Phật suốt tám ngày và tám đêm, khai thị, khuyến khích, làm cho Cụ phấn chấn, đặc biệt, Tâm Tịnh đã tận mắt chứng kiến sự ra đi nhẹ nhàng của Cụ vào lúc 9.40 sáng ngày 11 tháng 07 Quý Mão (2023). Để kỷ niệm một năm giỗ đầu của Cụ, và như một lời hứa khả với quý đạo hữu Tịnh Độ, Tâm Tịnh xin hân hoan tường thuật lại những gì mắt thấy, tai nghe trong suốt thời gian trợ duyên Niệm Phật cùng với Cụ cho đến thời khắc ra đi, kể cả thời gian ban đầu khi nhập viện và thời gian hộ niệm sau khi tắt thở. Từ những gì diễn ra trong những ngày cùng Cụ Niệm Phật, có thể đúc kết thành 14 chỉ dấu sau đây, làm cơ sở cho niềm tin rằng Th
21/01/2024(Xem: 1641)
Tỉnh Thức Đối Diện với Bệnh tật và Cái Chết_Tỳ Kheo Analayo_Bình Anson dịch
06/06/2023(Xem: 6916)
Bất cứ trong một tôn giáo, một triết học nào, phần nhân sinh quan vẫn là quan trọng. Chúng ta theo một tôn giáo mà không biết quan niệm nhân sinh trong tôn giáo ấy như thế nào, thực là một khuyết điểm lớn lao. Ở đây, chúng ta chỉ riêng bàn về phần nhân sinh quan Phật giáo để tìm hiểu Phật giáo quan niệm về đời sống con người như thế nào ?
21/05/2023(Xem: 1848)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất. Việc giữ gìn, duy trì sự sống là một điều cơ bản mà bất cứ ai sống trên đời này cũng phải làm để mong mình sống lâu, sống thọ chứ không ai mong mình chết sớm, hay nói đúng hơn là ai cũng sợ cái chết bởi không có một loài động vật có máu huyết nào lại không sợ chết, nhưng sợ chết, không muốn chết thì con người vẫn không thể thoát được cái chết, cho nên thay vì sợ hãi thì chúng ta hãy tập đối diện với quy luật sinh tử như thế nào để vừa giữ được tinh thần lạc quan, vừa duy trì được sự sống của mình một cách trọn vẹn nhất.
22/03/2022(Xem: 3535)
Tôi không ngạc nhiên lắm khi biết dù tác phẩm Chết và Tái sinh ( Death & Rebirth ) đó TT Thích Nguyên Tạng soạn dịch ấn bản lần đầu tiên vào năm 2001 và được tái bản đến 9 lần rồi mà vẫn không đủ cung cấp, cho nên sắp tới Tu Viện Quảng Đức cho tái bản lần thứ 10 để cống hiến bạn đọc gần xa. May mắn thay trong thư viện tí hon của tôi có tác phẩm này được tái bản lần thứ bảy vào mùa Vu Lan báo Hiếu 2007 mà lời ngỏ của tác giả đã đánh động đến con tim của người đọc …qua câu chuyện Luật Sư Brendan Keilar sinh sống tại Melbourne / Australia đã bị bắn chết thật kinh hoàng khi tuổi mới 43 để trả giá cho hành động rất ngưỡng phục ( vì đã can thiệp cứu người).
02/12/2021(Xem: 19216)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
01/08/2021(Xem: 12019)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
26/06/2021(Xem: 14694)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
01/11/2020(Xem: 18913)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
09/09/2020(Xem: 7541)
Hỏi: Thưa Thầy, luân hồi thật sự được hiểu thế nào trong Phật Giáo, hay vấn đề này bị nhầm lẫn với thuyết tái sinh trong Bà La Môn Giáo và một số tín ngưỡng Tây Phương, vì từ Hán Việt “tái sinh” tiếng Pháp viết là "réincarnation” là sự lặp lại về đơn vị gốc, ví dụ: Người giàu nghèo sang hèn v.v… cứ thế trở lại nguyên gốc. Còn tiếng Phạn saṃsāra là luân hồi là lang thang, trôi nổi. Nếu dùng bật lửa đốt cháy cây nến, điều kiện tạo lửa từ bật lửa sẽ gồm đá đánh lửa, hộp nhựa đựng khí gas, ống thông nhau, ống dẫn ga, bánh xe tạo lực ma sát vào đá lửa, vô số phân tử hóa học trong khí gas, môi trường xung quanh v.v… Trong khi các duyên bắt lửa của ngọn nến chỉ có 2 yếu tố cơ bản gồm thân đèn làm bằng sáp và tim làm bằng vải… Vậy ngọn lửa từ bật lửa có quan hệ gì với ngọn lửa của cây nến? Như thế luân hồi không phải là sự tái sinh nguyên bản mà là tâm lang thang trôi lăn chìm nổi vì tham sân si, không biết tàm quý để rồi chúng sanh cứ mãi bị cái vòng xoay đó làm cho đau khổ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com