Śrīmālā-siṃhanāda-sūtra-vyākhyā
TuệSỹdịch và giảng
GIẢNGLUẬN
NHƯLAI TẠNG
TIẾT1:NGUỒN TƯ TƯỞNG
Vàomộtlúc nọ, một tỳ-kheo[191] đến xin phép Phật quay trởlại đời sống thế tục, không tu nữa, lý do: «Thế Tônđã không trình bày về khởi nguyên của thế giới.»[192]
Phậttrả lời: «Khởi nguyên của thế giới được trình bày haykhông được trình bày, pháp mà Ta giảng thuyết có mục đíchhướng dẫn người thực hành đi đến chỗ hoàn toàn diệttận đau khổ.»[193]
Đâykhông phải là trường hợp có một không hai khi một đệtử Phật công nhiên thách thức Phật với vấn đề như vậy.
«Thếgiới thường hằng hay không thường hằng? hữu hạn hay vôhạn?…» Những câu hỏi như vậy không ngớt được nêu lên,được tư duy, chiêm nghiệm để tìm giải đáp, xuất hiệnngay trong thời bình minh của tư tưởng nhân loại. Cho đếnngày nay, vẫn là những câu hỏi chưa có giải đáp dứt khoát.Dù cho chúng ta hiện nay biết khá rõ, và không hẳn là tuyệtđối chính xác, do đâu và bằng mà có trái đất này, nhưngbản chất của vấn đề vẫn tồn tại như trinh nguyên.
Cácđệ tử Phật đã dám công khai thách thức Phật[194] vớinhững câu hỏi như vậy cho thấy ngôi nhà kính tư tưởngtôn giáo và triết học đương thời đang bị hâm nóng nhưthế nào. Tần số xuất hiện của chúng trong các pháp thoạicủa Phật lại càng cho thấy nhu cầu cấp bách một giảiđáp thích đáng. Nhưng điều cũng gây nhiều người – kểcả một số đệ tử Phật thời đức Phật – cảm thấythất vọng. Nhiều giải thích và nhiều kết luận khác nhau,thường là cực kỳ mâu thuẫn nhau, về «sự im lặng» mangnhiều tính huyền bí này của đức Phật.
Thựcsự, phải chăng đức Phật «hoàn toàn im lặng», thủy chungkhông hề cung cấp bất cứ giải đáp nào?
Truyềnthuyết Luật tạng[195] kể rằng Xá-lợi-phất tức thì «sạchbợn, sạch cáu bẩn, có con mắt pháp» ngay sau khi nghe hai dòngkệ của A-thuyết-thị,[196] một trong năm tỳ-kheo đầu tiênđược Phật giảng pháp tại vườn nai:
Nhữngpháp nào xuất hiện do bởi nguyên nhân,
NhưLai nói về nguyên nhân của những pháp đó.
VàNgài cũng nói về sự diệt mất của chúng.
Đólà thuyết giáo của vị Đại Sa-môn.[197]
Bàikệ hứa hẹn sẽ cung cấp câu trả lời thích đáng về nguyênnhân của những gì đang tồn tại ở đây. Nhưng sẽ cung cấpbằng cách nào? Trong trường hợp Xá-lợi-phất, và hầu nhưtrong tất cả mọi trường hợp xảy ra cho đệ tử Phật,chính người hỏi tự tìm thấy giải đáp. Vì một trong cáctính chất của Pháp Phật là «Hãy đến đây để tự mìnhnhìn thấy.»[198]
Mỗicá nhân có cách đặt câu hỏi và giải đáp riêng của mình.Mỗi thời đại cũng có vấn đề và giải đáp riêng củanó. Cho nên, trước các Thần linh mà các tôn giáo nêu lêncho giải đáp về khởi nguyên của thế giới, Long Thọ trảlời dứt khoát: «Hoàn toàn không các sự hữu nào xuất hiệnbất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.»[199] Nếu tất cảvốn không tồn tại, hay không hiện thực, thì các câu hỏivề nguyên khởi hay tận cùng đều trở thành vô nghĩa.
NhưngThắng Man lại có cách đặt vấn đề khác. Và do vậy, thuyếtNhư Lai tạng xuất hiện.
NhưLai tạng là gì?
Mộtvài giải thích theo ngữ nguyên Trung hoa hiểu chữ «tạng»ở đây cũng như trong danh từ «tạng thức.» Vậy thì, «NhưLai tạng» ở đây có nghĩa là «kho tàng Như Lai.» Đại sưCát Tạng[200] cũng có dẫn lời Tam tạng Chân Đế rằng NhưLai tạng «cũng nói là Như Lai thai.» Nhưng Đại sư không bìnhgiải gì đặc biệt cho ý nghĩa của từ Hán dịch mới này.
Nếumuốn lần tìm về nguồn gốc vi tế, ẩn mật của từ ngữnày, chúng ta có thể tìm thấy khá nhiều điển hình trongkinh điển A-hàm (Hán tạng) hay Pāli.
TrungA-hàm, kinh số 105 «Hoàng lô viên»[201] chép mẫu đối thoạigiữa đức Phật và một người bà-là-môn 120 tuổi có tênlà Bệ-lan-nhã.
Bà-la-mônnói:
«Sa-mônCù-đàm không đầu thai.»[202]
Phậttrả lời:
«Cósự kiện để Ta không nhập thai, nhưng không phải như lờiông nói. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào, đối với thai sàngtương lai mà nhận thức toàn diện, tuyệt diệt nó, bứt rễnó, không để cho tái sinh trở lại; Ta nói người ấy khôngnhập thai. Như Lai đối với thai sàng tương lai đã nhận thứctoàn diện, tuyệt diệt nó, bứt rễ nó, không để cho táisinh trở lại. Đó gọi là sự kiện để Như Lai không nhậpthai.»
RồiPhật giảng tiếp:
«NàyBà-la-môn, đối với chúng sinh này, đến từ vô minh, yêuthích vô minh, bị vô minh che phủ, bị bọc trong vỏ trứngvô minh; Ta là người đầu tiên nhìn thấy Pháp. Cho nên, đốivới chúng sinh ấy Ta là tối tôn, bậc nhất. Cũng như mộtcon gà mái sinh 10 hoặc 12 trứng. Nó thường xuyên nghĩ nhớđến; thường xuyên che phủ, thường ấp cho ấm, thườngxuyên gìn giữ. Một thời gian sau, giả sử con gà mái bỏlơ, và trong đó có gà con đã có thể dùng mỏ, hoặc móngchân, mổ vỡ trứng mà tự mình thoát ra một cách an ổn.Con gà con đó là bậc nhất…»
Khôngcó bài kinh nào trong kho tàng Nguyên thủy nói về ý nghĩa NhưLai tạng nhiều hơn thế, và rõ ràng như thế. Theo đó, thìkiểu nói rằng, Như Lai là Phật tính có sẵn trong mỗi chúngsinh. Tự tính bản lai thanh tịnh ấy bị bao bọc trong vỏtrứng vô minh; đó là điều mà các nhà chú giải học thuyếtNhư Lai tạng nói là quan điểm «Như Lai tại triền» tứcNhư Lai đang bị quấn chặt. Nhiếp Đại thừa luận thích[203]liệt kê 10 trường hợp thành tựu viên mãn của Bồ tát bướcvào Sơ địa, trong đó trường hợp thứ mười được nóilà «Đã thoát khỏi tình trạng trứng thối»; nghĩa là cáilòng đỏ bồ-đề tâm được thụ giống trải qua vô sốkiếp nay phát triển thành gà con, chờ ngày chui ra khỏi trứng;không còn sợ tình trạng trứng thối hay trứng lộn nữa.Tất nhiên, cách nói tuy khác, nhưng nội dung không khác.
Thêmnữa, thí dụ «vỏ trứng vô minh» là hình ảnh để có thểhiểu dễ dàng và khá đầy đủ về bản chất và công năngcủa vô minh trụ địa. Trong cảnh tối tăm như thế, làm saophân biệt đông hay tây để có thể nói «đâu là khởi thủy?đâu là tận cùng?» Chân lý nhận thức được trong bóng tốicủa «vỏ trứng vô minh» như vậy với ảo giác của vọngtưởng phân biệt thì nó là vô hạn nhưng thực tế thì nóđược gọi là «hữu hạn» để tương đối với tầm nhìnbao la khi gà con chui ra khỏi trứng, bấy giờ được gọi là«vô biên Thánh đế.»
Nóitóm lại, câu chuyện trong Hoàng lô viên chứng tỏ Như Laitạng không phải là một học thuyết do các nhà Đại thừavề sau thêm thắt vào.
TIẾT2:KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA LIÊN HỆ
Trongcáckinh điển Đại thừa được nói là thuộc hệ tư tưởngNhư Lai tạng, hiện còn trong Hán tạng, bản dịch sớm nhấtcó lẽ là Đại phương quảng Như Lai tạng kinh, do Phật-đà-bạt-đà-la.[204]Cho đến đời Đường, Bất Không[205] dịch lại, cùng têngọi.
Kinhbắt đầu bằng biến cố bất thường. Sau bữa ăn trưa, Phậtkhiến cho từ đại lâu các Chiên-đàn tạng hiện ra hàng vạnức đóa hoa sen, phủ kín cả hư không. Trên mỗi đóa sen cómột đức Như Lai ngồi kết già. Đột nhiên, tất cả hoasen này héo úa, màu sắc cực kỳ xấu xa, có mùi rất hôihám. Nhưng các Như Lai trên các hoa sen vẫn phóng quang, thịhiện các quốc độ; tất cả thảy đều tráng lệ.
Phậtgiải thích:
«NhưLai bằng ánh sáng trí tuệ của chính Phật nhìn thấy trongnhững dục vọng, sân hận, si mê, tham trước, vô minh, phiềnnão của hết thảy chúng sinh, trong các thiện nam tử, thiệnnữ nhân đang bị nhận chìm bởi phiền não, trong thai tạng,thảy đều có hằng trăm nghìn vạn ức chư Phật, thảy đềunhư Ta. Bằng con mắt trí tuệ của Như Lai mà quán sát, cácvị ấy đều có tự thể Phật pháp, ngồi kết già, tịchnhiên bất động…»
Tiếptheo đó, kinh nêu lên một loạt tám thí dụ, để giải thíchý nghĩa của một khái niệm quan trọng trong học thuyết NhưLai tạng là «Như Lai tại triền.»
Trướcbản dịch của Bất Không, vào đời Nguyên Ngụy Bồ-đề-lưu-chicho xuất hiện bản dịch Phật thuyết Bất tăng bất giảmkinh.[206] Kinh mở đầu với câu hỏi của Xá-lợi-phất vềsố lượng tăng hay giảm của chúng sinh trong dòng sinh tử.Phật giải thích, trong Nhất pháp giới, không có sự tănggiảm. Từ ý nghĩa Nhất pháp giới, các khái niệm tương tựđược giới thiệu: «Thậm thâm nghĩa là Đệ nhất nghĩađế, …là chúng sinh giới, … là Như Lai tạng, … là Phápthân.»
Trongđó, chúng sinh giới bao hàm ba ý niệm.
1.Pháp thanh tịnh và tự thể tương ưng với bản tế của NhưLai tạng. Đây chỉ Như Lai tạng là tự tính thanh tịnh tâm.Bản tế tức khởi điểm hay nguyên khởi, chỉ vô tận quákhứ.
2.Pháp không thanh tịnh bị quấn chặt trong phiền não, và tựthể không tương ưng với bản tế của Như Lai tạng. Đâychỉ vọng thức, tức là Như Lai tạng bị bao bọc bởi kháchtrần phiền não tuy vậy không hề bị ô nhiễm.
3.Pháp hằng hữu bình đẳng suốt vị lai tế của Như Lai tạng.Đây chỉ khả năng thoát ly của Như Lai tạng. Suốt cho đếnvô tận vị lai, cho đến khi thành Phật, Như Lai tạng vẫnhằng hữu.
Cuốicùng, phải kể đến bản kinh quan trọng trong hệ tư tưởngnày, mặc dù đứng sau Thắng Man về mặt ảnh hưởng. Đólà Phật thuyết Vô thượng y kinh, bản Hán dịch của ChânĐế.[207] Về hình thức, kinh này dài hơn Thắng Man một chút,nhưng không bao quát nhiều vấn đề như Thắng Man phu nhân.
Nhưđề kinh cho thấy, xu hướng của kinh là muốn thiết lậpmột sở y thường hằng bất biến, làm nơi nương tựa chânthật cho chúng sinh. Điểm này trong Thắng Man cũng được đềcập dưới tên gọi là «Nhất y»; ý muốn nói, trong ba quyy thì quy y Phật là chân thật quy y. Quy y Phật ở đây chínhlà quy y Pháp thân thường trụ của Phật. Pháp thân ấy cũngchính là Như Lai tạng.
Vôthượng y mở đầu bằng sự so sánh công đức của ngườibố thí và một người khác thờ xá-1ợi. Điểm này tấtcó ý nghĩa lịch sử của nó. Nhưng ở đây chúng ta khôngxét đến. Điều cần lưu ý là từ giới[208] trong các từ«chúng sinh giới» hay «pháp giới», «hư không giới» v.v.,ngoài ý nghĩa thường gặp, còn có nghĩa «tháp thờ xá-lợicúngPhật» hay chỉ cho xá-lợi hay di cốt của Phật. Chínhtrong ý nghĩa này, «Như Lai giới» hàm cả hai nghĩa, vừa siêuhình vừa hiện thực.
Tronghiện thực, Như Lai giới là di cốt của Phật là cơ sở chochúng sinh thờ phụng, tu phước. Trong ý nghĩa siêu hình, NhưLai giới chính là Pháp thân thường trụ, và đó chính làVô thượng y. Ở đây, không chỉ là sở y, là nơi nương tựanhư hòn đảo an toàn cho chúng sinh mệt mỏi, sợ hãi. Đócòn là nguyên lý duy trì và xuất sinh mọi hiện tượng. Nóicách khác, Như Lai giới là sở y cho tất cả chúng sinh giới.Chúng sinh giới là Như Lai tạng đang bị bọc trong vỏ phiềnnão.
Điểmtập trung của kinh là ý nghĩa và tự tính của Bồ-đề.[209]Trong này, có ba từ được hiểu như gần đồng nghĩa: Bồ-đề,Như Lai tạng, và chuyển y. Chuyển y[210] cũng là một từ khóatrong hệ tư tưởng Duy thức. Đó là kết quả của quá trìnhchuyển hóa từ thức ô nhiễm thành trí thanh tịnh. Cũng giốngnhư độ tươi sáng đạt được của ngọc qua những côngđoạn lau chùi, mài dũa.
Bồ-đềnày có bốn đặc tính:[211] 1. Là điều kiện cho sự sinh khởi,làm phát sinh dòng tương tục của Như Lai qua suốt vô tậnthời gian; 2. Là điều kiện cho sự diệt tận của tất cảphiền não căn bản. 3. Là quả sở tri đã được tư duy thànhthục. Sở tri tức đối tượng nhận thức ở đây là phápchân như; 4. Là tự thể của pháp giới vô cùng thanh tịnh.
Liênhệ với Như Lai tạng là Pháp thân. Có bốn đức của Phápthân: thường ba-la-mật, lạc ba-la-mật, ngã ba-la-mật, tịnhba-la-mật. Điều này cũng được đề cập trong Thắng Man.
Ngoàira, kinh giới thiệu các công đức hay phẩm tính siêu việtcủa Phật thường gặp trong các kinh điển Đại thừa nhưmười lực, bốn vô ngại trí, bốn vô sở uý…
Đồngthời với bản dịch của kinh này, Tam Tạng Chân Đế cònphiên dịch một tác phẩm quan trọng khác của Thế Thân.[212]Vì những vấn đề được trình bày trong tác phẩm này cótính hoàn chỉnh của một hệ thống tư tưởng nên chúng tasẽ đề cập cũng trong phần tiếp theo của chương này.
Cuốicùng, cũng không thể không nhắc đến hai tác phẩm khác củaKiên Tuệ.[213] Trong đó Cứu cánh nhất thừa Bảo tính luậnquan trọng gần như ngang tầm với Phật tính luận. Xu hướngchủ yếu của tác phẩm này, cũng giống như của Phật tínhluận, giải thích Phật tính chính là Như Lai tạng. Vì tínhcách hệ thống của tác phẩm, nên chúng ta cũng sẽ đề cậpđến trong phần tiếp theo. Tác phẩm thứ hai là Đại thừapháp giới vô sai biệt luận, trong đó giải thích 12 ý nghĩaBồ-đề tâm mà dẫn kinh chủ yếu là các đoạn trong ThắngMan.
TIẾT3:TỪ NGHĨA LUẬN[214]
I.TỪNGUYÊN
Donhận định các về từ nguyên khác nhau nên Phật tính luận[215]nêu lên ba ý nghĩa của «tạng.»
1.Tạng tức sở nhiếp, là cái được nắm giữ, được duytrì. Nói một cách cụ thể, đó là cái lòng đỏ trong quảtrứng, là phôi thai trong bào thai, là hạt nhân, là mầm giốngđể nảy sinh ra Như Lai sau này. Theo ý nghĩa này, tất cảchúng sinh đều là Như Lai tạng, là phôi cái bào thai củaNhư Lai. Nhưng, Như Lai tính vốn thanh tịnh. Để cái phôi thaiô nhiễm ấy mà có thể phát triển thành Phật Như Lai saunày, thì trước hết cần phải giải quyết cặp mâu thuẫnđối nghịch nhiễm và tịnh. Chúng sinh tính là nhiễm. NhưLai tính là tịnh. Cặp mâu thuẫn này không thể giải quyếtbằng lý luận. Về sau, Lăng-già đề ra ý niệm chuyển y;[216]và Duy thức đã xây dựng quá trình chuyển y rất hoàn chỉnh.Nhưng Thắng Man cũng đặt nền tảng cho sự chuyển y ấy bằngKhông tính. Thắng Man nói: «Trí của Như Lai tạng làtrí của Như Lai về Không tính.» Nói cho gọn theo Bát-nhã,«tướng Không của các pháp ấy vốn không sinh, không diệt;không dơ, không sạch; không tăng, không giảm.»[217]
Khinhận thức quan hệ hai mặt nhiễm-tịnh như thế, thì «Như»trong từ Như Lai được hiểu là Chân như hay Như như, nhậnthức đối tượng như vậy đúng như vậy. Và «lai» tứclà đến, đi đến nơi, hay đạt đến mục đích. Vậy thì,«Như Lai tạng» ở đây có nghĩa là «cái phôi đang phát triểnđể trở thành Như Vậy, hay Như Như.»
Nhưvậy, về mặt ý nghĩa «tạng tức sở nhiếp» thì tất cảchúng sinh đều là cái phôi được chứa đựng bên trong trítuệ của Như Lai. Trong ý nghĩa này, Phật tính luận[218] nêuba loại «tạng.» Một, chính cảnh vô tỷ, tối thượng vềcảnh giới, vì ngoài cảnh giới như như, không tồn tại cảnhgiới nào khác. Hai, chính hành vô tỷ, tối thượng về hành,vì ngoài trí này ra không còn trí nào cao hơn nữa. Ba, chínhquả vô tỷ, tối thượng về quả chứng, vì quả ấy nhiếptàng hết thảy chúng sinh. Nói rõ hơn, chúng sinh tức là NhưLai tạng, nên ba loại «tạng» vừa dẫn chính là ba giai đoạntrong quá trình chuyển y của Như Lai tạng, từ ô nhiễm trởthành thanh tịnh. Ba giai đoạn đó là, chúng sinh, Bồ tát vàPhật.
2.Tạng tức ẩn phú, nghĩa là bao phủ, che dấu. Nói là bịche dấu, vì vẫn thường hằng hiện hữu ở đó theo nghĩa«chưa từng đến và cũng chưa từng bỏ đi», nhưng phàm phuthì hoàn toàn không có chút ấn tượng gì về sự hiện diệnấy. Hàng Nhị thừa thì không hay biết, và cũng không tin làcó. Hàng Bồ tát, tùy theo trình độ tu chứng mà tin nhiềuhay tin ít. Cho đến hàng địa thượng Bồ tát mới hoàn toàntin là có. Tất nhiên, tin chứ không phải thấy. Vì nghe theolời Phật nói, và bằng theo sự quán sát của mình, cho nêntin.
Nhưng,ở đây nói, «tạng tức ẩn phú» nghĩa là «che dấu»; vậy,đích thực, nó là «cái bị che dấu» hay «cái che dấu»?Nó là «phôi» hay «phôi bào»? Phật tính luận[219] nói, chínhNhư Lai tự ẩn không hiện nên nói là «tạng.»[220] Đây làđiều mà Thắng Man gọi là «Không nghĩa ẩn phú chân thật.»Không nghĩa tức Không tính. Không tính tức Như Lai tính. NhưLai cũng là một từ có thể được dùng để chỉ yếu tínhcủa tồn tại. Vì Như Lai cũng đồng nghĩa với Chân như;cũng đồng nghĩa với pháp bất sinh; đồng nghĩa với phápđoạn diệt, với pháp tuyệt đối không sinh khởi.[221] Trongý nghĩa liên hệ này, thì «như» về mặt nhận thức là «chânthật không điên đảo.» Về mặt tự thể, «như» là tồntại hiện tiền thường hằng bất biến. Tổng hợp mà nói,«Như Lai tạng» ở đây tức là lý tính duyên khởi, là Khôngtính,[222] quy luật mà từ đó các pháp tồn tại và đượcnhận thức, tùy theo trình độ nhận thức.[223] Vì là lý tính,cho nên luôn luôn tàng ẩn. Và vì là lý tính của tồn tạinên nó thường hằng tồn tại.
Nóitóm lại, Như Lai tính thường hằng hiện hữu ngay hiện tiền,trong mọi tồn tại, nhưng Như Lai tính ấy bị màng phiềnnão che khuất nên chúng sinh không thấy.
3.Tạng tức năng nhiếp. Ý nghĩa này chỉ địa vị quả chứng,tức Vô thượng Bồ-đề hay Phật. Tức là điều mà ThắngMan nói: «Như Lai tạng vốn không lìa ngoài tướng hữu vi.Như Lai tạng vốn thường trụ, không hủy hoại. Cho nên, NhưLai tạng là cái duy trì, là cái thiết lập.» Trong ý nghĩanày, về mặt từ nguyên, từ «tạng» trong tiếng Phạn cónghĩa đen là «tử cung.» Như vậy thì, chính các đức NhưLai, chư Phật Thế Tôn là đấng hộ vệ thế gian này, cưumang trong đại bi tâm vô lượng của các Ngài tất cả phẩmtính siêu việt, không phải chỉ riêng là những phẩm tínhsiêu việt của Như Lai, mà của tất cả mọi chúng sinh. Khichúng sinh nào nhận thức được Như Lai tính, Phật tính hayPháp thân Phật thường trụ nơi tự tính của mình, lúc bấygiờ chúng sinh ấy được gọi là «con ruột» của Phật.Vì người ấy hằng ở trong lòng của Phật.[224]
II.NỘI HÀM
ThắngMan phu nhân nói:
«BạchThế Tôn, Như Lai tạng là Pháp giới tạng, là Pháp thân tạng,là Xuất thế gian thượng thượng tạng, là Tự tính thanhtịnh tạng.»[225]
Điềumà Thắng Man nói là Pháp giới tạng,[226] Phật tính luậnnói là Chánh pháp tạng, và Luận này giải thích:[227] «Nhân,đó là nghĩa của tạng. Bởi vì, hết thảy Thánh nhân, hếtthảy Chánh pháp, bốn niệm xứ, v.v…., đều lấy đây làmcảnh giới, khiến cho những gì chưa sinh thì được sinh; đãsinh thì được phát triển trọn vẹn.» Cát Tạng[228] hộithông sự khác biệt giữa hai dụng ngữ, dựa trên giải thíchvừa dẫn: «Giới trong Pháp giới tạng chỉ cho cảnh giới.»Thực ra, khi Phật tính luận nói «tạng» cũng có nghĩa là«nhân», thì trong ý đó cũng bao hàm ý niệm về «giới»rồi.[229] Như Lai tạng là Pháp giới tạng, vì đó là nơicưu mang tất cả Như Lai, và vì Như Lai là nguồn của tấtcả Chánh pháp, của hết thảy Ba thừa. Tất cả Pháp giớixuất sinh từ đó, và cũng tồn tại trong đó. Nhưng nếu «tạng»lấy từ gốc là «câu-xá», thì Pháp giới tạng có ngĩa là«kho tàng Pháp giới.» Như vậy, Như Lai tạng là Pháp giớitạng, vì là kho chứa tất cả chủng loại pháp, tất cảthành tố và mầm giống của hết thảy các pháp. Thêm nữa,từ «câu-xá» còn có nghĩa là «vỏ kén» (của tằm), hay«vỏ trứng.» Vậy, Như Lai tạng là Pháp giới tạng, vì làtự thể của Pháp giới đang bị bọc kín trong vỏ cứng phiềnnão.
VềNhư Lai tạng là Pháp thân tạng, Phật tính luận[230] nói «tạngở đây có nghĩa là đi đến nơi.»[231] Pháp thân trong ThắngMan được nhận thức với bốn đức tính hay bốn ba-la-mậtthường, lạc, ngã và tịnh. Như Lai, tức Pháp thân, là nơinương tựa, là chỗ thường trụ quy y của hết thảy thếgian. Nhưng chỉ các Thánh nhân, là A-la-hán, Bích-chi-Phật vàĐại lực Bồ tát mới có khả năng tin và hiểu tự thểvà yếu tính của Pháp thân, do vậy mà nhiệt thành tin tưởngvà nhiệt thành tu tập để đạt được Pháp thân ấy. Vậy,Như Lai tạng, hay «Như Lai thai», là Thánh thai của tất cảThánh nhân, của hàng địa thượng Bồ tát.
Vềý nghĩa Xuất thế tạng, Phật tính luận[232] nói: «Tạngở đây có nghĩa là chân thật.» Luận giải thích. Thế giancó ba khuyết điểm. Thứ nhất, về mặt đối trị, nó cóthể bị làm cho diệt tận. Tức có chân lý về thế gian diệt,và cũng có chân lý về thế gian diệt đạo. Nói cách khác,đối trị chỉ có ý nghĩa đối với bịnh nhân. Với mộtcơ thể không bịnh hoạn thì không hề có khái niệm đốitrị. Cũng vậy, Như Lai tạng không liên hệ đến bất cứý niệm đối trị nào, do đó được nói là «tạng xuấtthế gian thượng thượng.» Bởi vì tạng ấy chỉ có thểđược tin và hiểu bởi ba Đại Thánh nhân của ba thừa, chonên thêm các từ «thượng thượng» để phân biệt. Thứhai, thế gian có nghĩa là không ổn định. Thứ ba, có đảokiến, tức nhận thức trái ngược; với những gì là vô thườngthì được nhận thức là thường; những gì là khổ thì đượcnhận thức là lạc.
Cuốicùng, Như Lai tạng tính là Tự thanh tịnh tạng. Thắng Manphu nhân nói: «Bạch Thế Tôn, nhưng có phiền não, có tâmbị phiền não nhiễm ô. Tự tính thanh tịnh tâm mà có ô nhiễm,thật là khó thấu triệt.»
Theoý nghĩa đó, tạng ở đây được hiểu là bí mật.[233]
TIẾT4:TÂM LÝ LUẬN
I.KHÁITHUYẾT
Tâmlý luận là xu hướng phát triển tất nhiên của Phật học.Trong ba môn học, môn định học nằm ở vị trí trung chuyển.Nó vừa là yếu tố duy trì đời sống đạo đức cá nhânvà cũng là tác nhân chính cho sự phát triển của nhận thức.Nó là phương pháp giúp cá nhân sống an lạc. Vì vậy, đạibộ phận tác phẩm kinh điển Phật học đều tập trung quanhchủ đề thiền định. Phân tích thiền, là phân tích cáctrạng thái tâm lý biến chuyển trong các giai đoạn tọa thiền.Khoa tâm lý luận Phật giáo không lấy dữ liệu từ nhữngthống kê xã hội hay từ những hồ sơ bịnh án. Tất cảnhận thức về tâm lý luận Phật học hoàn toàn dựa trênkinh nghiệm thiền định chủ quan của mỗi cá nhân.. Cho nên,nói về tâm lý luận Phật giáo, có chỗ dễ hiểu, mà cũngcó chỗ khó hiểu. Khó dễ tùy người.
Sựphát triển tư tưởng Thắng Man mang những dấu ấn thời đạilịch sử đặc biệt, do đó không hoàn toàn là phát triểnchủ yếu chỉ dựa trên các khảo sát tâm lý luận. Trong ThắngMan, yếu tố xã hội và tín ngưỡng đi trước yếu tố tâmlý và triết học. Nhưng không một hệ phái tư tưởng Phậthọc nào khi đã trở thành một hệ thống hoàn thiện lạithiếu mất cơ sở tâm lý luận. Bởi vì, về mặt thực tiễnứng dụng, mỗi hệ phái tư tưởng Phật học đều có riêngnhững phương pháp đối trị tâm bịnh. Thắng Man cũng khôngngoài thông lệ ấy. Do vậy, tâm lý luận trong Thắng Man cũngphản ánh khá nhiều yếu tố thần bí và siêu hình.
NhưLai tạng trước hết là một khái niệm thần bí của tínngưỡng tôn giáo. Đức Phật dứt khoát bác bỏ sự hiệndiện một Thượng đế có quyền năng tuyệt đối trong vũtrụ. Các luận sư của cả hai thừa đều tích cực bác bỏ.Nhưng tín ngưỡng bình dân không bác bỏ được. Quần chúngbình dân cần sự hiện diện của một đấng Tối cao đểche chở, để phân xử công bằng. Quan trọng nhất, Ngài phảilà nguồn sinh sản bất tận cho sự thịnh vượng của thếgiới, mà trước hết là thế giới vật chất. Vì Phật làđấng Chí Tôn đối với quần chúng Phật tử, cho nên chínhNgài là nguồn sinh sản bất tận ấy. Chúng ta biết rằngcác luận sư Đại thừa đã vận dụng ý nghĩa của từ «thai»trong «Như Lai thai» một cách không mấy hăng hái. Nếu cóthể, các Ngài né tránh tìm một từ khác, như từ «tàng»hay «tạng.» Nhưng chính Phật giáo Mật tông đã bảo lưutừ này, và phát triển một cơ sở tín ngưỡng hoàn thiệndựa trên ý niệm nội hàm của từ này. Đó là «Thai tạnggiới.»[234] Hán dịch vừa «thai» và vừa «tạng» để cốkhai thác tất cả ý nghĩa tiềm ẩn của từ ngữ này.
II.CHỦ THỂ TÂM LÝ
TrongThắng Man, không đề cập rõ rệt đến một hay nhiều chủthể nhận thức. Kinh có đề cập đến tái sinh, đến dòngtương tục của sinh tử, nhưng cũng không minh họa ý nghĩachủ thể trong dòng sinh tử ấy. Chủ thể tâm lý thườngnghiệm lại càng khó tìm thấy hơn nữa.
Thựcsự, vì trung thành với giáo lý vô ngã, các xu hướng tư tưởngPhật học thường cố tránh né đề cập đến một chủ thểtâm lý như là chủ nhân ông của mọi hành động. Do đó,nếu hiểu chủ thể như một nhân cách có ngôi vị phân biệtta và cái khác ta, thì chủ thể ấy cũng rất khó tìm tronghầu hết các tông phái Phật giáo. Tuy không thừa nhận sựtồn tại của một chủ thể nhân cách như vậy, nhưng mộtcâu hỏi thúc bách qua mọi thời đại cần phải có trả lờidứt khoát: Phật dạy không có tự ngã, vậy cái gì luân hồi?
ThắngMan nói: «Sinh tử nương trên Như Lai tạng.» Ý nāy về sauđược giải thích và được phát triển bởi Lăng-già:[235]«Như Lai tạng hoạt động như là nhân của thiện và bấtthiện, là cái tạo ra định hướng của tất cả sinh loại.»Đó là xác nhận chủ thể hành động. Nhưng không phải làchủ thể tâm lý thường nghiệm. Lăng già cảnh cáo khôngnên liên hệ hoạt động của Như Lai tạng như vậy với sựtồn tại của một tự ngã như là tác giả, mà các triếtgia ngoại đạo thường có xu hướng làm. Bồ tát Đại Tuệhỏi Phật:[236]
«BạchThế Tôn, trong nhiều đoạn kinh Như Lai tạng được Thế Tônmô tả như là có bản chất ngời sáng, bản lai thanh tịnh,thường hằng thanh tịnh, đủ 32 tướng tốt, thường tồntại trong thân chúng sinh. Như hạt minh châu vô giá bị bọctrong tấm vải bẩn; (Như Lai tạng) tuy bị quấn chặt bởichiếc áo uẩn, xứ giới, bị cáu bẩn bởi chất bẩn thamdục, thù hận, ngu si, hư vọng phân biệt các thứ, vẫn đượcThế Tôn mô tả là thường hằng, trường cửu, tịch tĩnh,bất biến. Phải chăng thuyết Như Lai tạng của Thế Tôn khôngđồng với thuyết tự ngã của Ngoại đạo? Bạch Thế Tôn,Ngoại đạo cũng chủ trương tự ngã, rằng Ngã là tác giả,thường hằng, biến tại, không lệ thuộc yếu tố cấu thành.»
Phậtđáp:
«…Các đức Như Lai sau khi giảng thuyết Như Lai tạng bằng cáccú nghĩa tính không, thật tế, niết-bàn, bất sinh, vô tướng,vô nguyện; với mục đích khiến cho những kẻ phàm ngu dẹpbỏ nỗi kinh hoàng về vô ngã. Các Như Lai, A-la-hán, Chánhđẳng giác lại giảng thuyết Như Lai tạng như là vô phânbiệt, vô ảnh tượng.»
Vôngã, ý tưởng «ta không hiện hữu», gây nên nỗi sợ hãisiêu hình nào đó, tạo thành ám ảnh kinh hoàng về hư vô.Phật giảng Như Lai tạng để chúng sinh khống chế nỗi sợhãi ấy. Về điểm này, Thắng Man phu nhân nói:
«BạchThế Tôn, Như Lai tạng không phải là ngã, không phải là chúngsinh, không phải là linh hồn, không phải là chủ thể có ngôivị.
«BạchThế Tôn, Như Lai tạng không phải là cảnh giới cho chúngsinh rơi vào thân kiến, chúng sinh điên đảo, chúng sinh loạný chấp không.»
Đểcó thể quan sát được chủ thể giả định ấy trong sinhhoạt thường nghiệm, và để khỏi nhầm với ý niệm vềmột tự ngã thường hằng, Lăng-già đề nghị thay Như Laitạng bằng A-lại-da thức, như vậy, có thể giải thích dễdàng hơn bản chất và hoạt động của các quan năng nhậnthức thường nghiệm. Lăng-già[237] nói: «Nếu thức A-lại-da,được biểu thị bởi từ Như Lai tạng, mà không hoạt động,thì bảy chuyển thức biến mất.»
Ýniệm về bảy chuyển thức hoạt động trên mặt nổi củaNhư Lai tạng cũng được đề cập một cách sơ lược trongThắng Man. Đó là các yếu tố mà kinh nói là «sáu thức vàtâm pháp trí; bảy pháp này không đình trú trong từng sátna.»
Chuyểnthức là các chủ thể tâm lý thường nghiệm hoạt độngnhư những con sóng trên đại dương mà nước chính là thứcA-lại-da.
Bởivì Như Lai tạng không thể là đối tượng của nhận thứcthường nghiệm, do đó hoạt động của bảy yếu tố tâmthức sinh diệt liên tục trong từng sát-na tạo thành hìnhảnh một dòng sông chảy xiết. Hình ảnh đó, trong nhận thứccủa tục thức, là chủ thể của sinh mạng và nhận thức.
III.HOẠT ĐỘNG CỦA TÂM THỨC
Khiđã chuyển Như Lai tạng, nguyên lý siêu hình vốn là bảnthể sáng tạo của mọi tồn tại, thành hình ảnh của mộtchủ thể tâm lý thường nghiệm, với cái tên gọi mới làA-lại-da, truyền thống Duy thức, hay nói một cách chung chunglà truyền thống duy tâm Phật giáo, đã cho phép thiết lậpmột hệ tâm lý học rất hoàn chỉnh, không chỉ để giảithích ý nghĩa sinh tồn của chúng sinh, mà còn có thể mô tảnhững xung động tâm lý thường nhật, những hoan lạc vàđau khổ, v.v. Nhưng đó là những vấn đề của Duy thức tôngvề sau này. Ở đây, trong Thắng Man, chưa xuất hiện mộtcách rõ rệt ý tưởng về một thức A-lại-da thay thế choNhư Lai tạng. Cho nên, để có thể hiểu các hoạt động củatâm thức, không thể không lấy Như Lai tạng làm căn cứ.Dù thế nào, ý niệm về Như Lai tạng thủy chung vẫn là ýniệm về một tâm thể thường hằng, thanh tịnh; trong khicác hoạt động tâm thức thường nghiệm hoàn toàn bị thúcđẩy và chi phối bởi các động lực vô minh và tham ái. Đólà một nạn đề lớn. Và Phật đã ghi nhận điều đó trongThắng Man : «Có hai pháp khó thấu triệt. Đó là tự tínhthanh tịnh tâm, và tâm ấy bị ô nhiễm.»
Sựtồn tại của một pháp như vậy đương nhiên không thể đượcnhận thức một cách dễ dàng. Tuy nhiên, các yếu tố tâmlý, dù khi chúng hoạt động như là chủ thể của nhận thức,cũng không phải có thể được nhận thức một cách đơngiản. Sự tồn tại của chúng có thể được nhận thứcbằng trực giác, tức điều mà Lăng-già nói là hiện lượngcủa tự tâm. Nhưng từ nhận thức bằng tự tâm hiện lượngấy mà vẽ lên hình ảnh xác định của từng chủ thể nhậnthức, thì quả là điều không thể. Chính vì vậy mà cáchoạt động tâm thức thường bị hiểu nhầm. Sự hiểu nhầmấy đưa đến hai hậu quả, hình thành hai quan điễm mâu thuẫnnhau về yếu tính tồn tại của bản ngã và thế giới. Đólà thường kiến và đoạn kiến. Cả hai quan điểm cực đoannày được gọi chung là biên kiến. Thắng Man nói:
'Biênkiến, là phàm phu đối với năm thủ uẩn mà thấy là ngã,vọng tưởng chấp trước, sinh ra hai kiến chấp; đó gọilà biên kiến; tức thường kiến và đoạn kiến. Thấy rằngcác hành là vô thường; ấy là đoạn kiến chứ không phảichính kiến. Thấy rằng Niết-bàn là thường; ấy là thườngkiến chứ không phải chính kiến.»
Cảhai quan điểm cực đoan đều không nhận ra hoạt động củatâm thức như là những con sóng của dòng sông chảy xiết.Đó gọi là dòng tương tục. Có hai dòng tương tục hoạtđộng như là hai dòng tồn tại tại khác nhau, nhưng trong thựctính chỉ là một dòng duy nhất. Thứ nhất, Thắng Man gọilà dòng tương tục của sự hữu hay của hữu phần.[238] Dòngtương tục này chảy liên tục suốt qua các đời sống khácnhau theo các định hướng tái sinh khác nhau. Nó là dòng sinhmạng chỉ được nhận thức là chủ thể tồn tại trong mộtkhoảng thời gian nào đó, nói theo thời gian tuyến tính. Khởiđiểm hoạt động của nó là sát-na đầu tiên của sự thọsinh, khi mầm sống vừa được gieo. Đó chính khởi điểmhình thành các quan năng nhận thức cũng như sinh dục cho đờisống hiện tại. Khi các quan năng này chìm xuống để cho dòngtương tục của hữu phần trở lại trạng thái của dòngsông không gợn sóng, đó là điểm chấm dứt hoạt động,gọi là sự chết. Nếu chỉ có thể nhận thức hoạt độngcủa dòng tương tục hữu phần này trong một phần hạn thờigian như thế, thì không có quan niệm về đời trước và đờisau. Chết là hết. Đó là đoạn diệt luận.
Thếnhưng, chết là gì? Thắng Man nói: chết là khi các quan năngtri giác chìm xuống và các quan năng không tri giác tiếp nốikhởi lên. Điều này muốn nói đến ý hướng hoạt độngcủa tâm thức. Đặc tính hoạt động của các thức, tứcquan năng tri giác, luôn luôn hướng đến một đối tượngbên ngoài nó, hay được giả định là bên ngoài nó. Nguyênlý sinh khởi và hoạt động của thức là cần phải có sựhiện diện của yếu tố làm sở duyên, tức là đối tượngtương ứng mà thức có thể vin vào để đứng dậy. Yếutố ấy là ngoại cảnh. Chúng tồn tại trong liên hệ vớithức, nhưng không bị chi phối hay điều động bởi thức.Nghĩa là, thức không thể sáng tạo chúng theo ý thích hay tưởngtượng một cách tự do tự tại. Quan hệ giữa thức và đốitượng của nó đã được hình thành từ các hoạt độngquá khứ. Mối quan hệ này tồn tại như là tập quán di truyềncủa quá khứ, được gọi là tập khí. Hay nói theo ThắngMan, là các trụ địa, «mảnh đất được xông ướp.» Nhữngtrụ địa này là động lực, là những xung động tâm lý,kích thích hoạt động của tâm thức trong hiện tại, đồngthời các hoạt động ấy cũng làm dày thêm, «nặng mùi thêm»mảnh đất được xông ướp. Và như vậy là chúng hình thànhđịnh hướng mới cho tái sinh..
Hếtđợt sóng này đến lượt sóng khác, dòng tương tục hữuphần không ngừng biến động, không ngớt bị quấy động.Khởi lên rồi chìm xuống. Lại tiếp tục khởi lên. Cái véc-tơsự sống ấy quay liên tục vô số chu kỳ, tạo thành ảogiác về một dòng tương tục uốn lượn theo dạng sóng hìnhsin với hai pha âm-dương, sống-chết, tiếp nối nhau cho đếnvô tận trên trục thời gian tuyến tính.
ThắngMan phu nhân nói:
«BạchThế Tôn, sinh và tử, hai pháp này tức là Như Lai tạng. Dongôn thuyết của thế gian nên nói là có sinh có tử. Tử làcăn (cũ) hủy hoại. Sinh là căn mới khởi lên. Chứ khôngphải rằng Như Lai tạng có sinh có tử.»
Đólà đoạn kiến, là nhận thức sai lầm về tồn tại củadòng tương tục hữu phần.
Thứhai là thường kiến, là nhận thức sai lầm về sự tồn tạicủa dòng tương tục của tâm thức. Thắng Man nói: «Đốivới dòng tương tục của tâm mà ngu tối, không tỏ rõ, khôngbiết cảnh giới của ý thức có gián đoạn trong từng sát-na,nên khởi thường kiến. Vì do vọng tưởng kiến chấp vậy.»
Sựhình thành về quan điểm thường hằng của bản ngã và thếgiới cũng được tác động theo một quy luật chung của hoạtđộng của tâm thức. Tất cả hoạt động của tâm thứcđều hướng đến phục vụ một bản ngã. Bản ngã đó cóthể tồn tại hay không tồn sau khi chết. Nhưng trong hiệntại nếu không tồn tại một bản ngã, sẽ không có hoạtđộng của tâm thức. Tất nhiên, khi nói về sự sống, thìý niệm cần và đủ trước hết phải là ý niệm về mộtchủ thể của sự sống. Khi nói đến nhận thức cũng thế.Chủ thể ấy là bản ngã. Bản ngã ấy có thể được nhậnthức từ những sinh hoạt thường nghiệm của tâm thức. Nócũng có thể được nhận thức bằng những suy luận siêuhình, và điều này thường dẫn đến các tranh chấp tư tưởngvề ý nghĩa tồn tại của nó. Tuy nhiên, bản ngã được nhậnthức như là chủ thể của sinh hoạt thường nghiệm thì khôngthể phủ nhận. Đó gọi là chấp ngã, chỉ có thể đượcđoạn trừ khi chứng quả A-la-hán.
Dòngchảy liên tục của tâm, sinh rồi diệt trong từng sát-na khônggián đoạn, là ý nghĩa mà nhận thức thường nghiệm khôngnắm bắt được. Tâm thức thường nghiệm rung động theotần số dao động của tồn tại ngoại giới, hay cụ thể,tồn tại của thế giới như là nguồn dinh dưỡng hay nguồnnăng lượng chính yếu cho nó tồn tại và hoạt động; tầnsố ấy thường ghi lại trên tâm thức với dấu ấn củanhững chu kỳ chậm, kéo dài. Chậm và kéo dài đủ cho bộmáy tâm thức thực hiện trọn vẹn quá trình xử lý các hìnhảnh bắt được. Nói theo ngôn ngữ cổ điển của kinh: từsát-na đầu tiên với sự giao tiếp của căn, cảnh và thức,gọi là ba hòa hiệp xúc, kích phát hoạt động của cảm thọ.Từ cảm thọ, kích phát sự tiếp thu các ảnh tượng. Từsự tiếp thu này, hình thành xung động tâm lý, và vào sát-nacuối cùng tâm thức như là chủ thể nhận thức hiện tạiquyết định sẽ làm gì sau khi hoàn tất quá trình xử lýđối tượng nắm bắt được. Đó là thứ tự hoạt độngcủa năm uẩn. Trong nhận thức thường nghiệm, quá trình nhưvậy được giả thiết là diễn ra ít nhất trong 5 sát-na.Mỗi sát-na là khoảng thời gian cực ngắn, vừa lớn đủcho thức sinh và diệt không gián đoạn. Trong quá trình ấy,thức này sinh rồi diệt ngay, làm điều kiện tiếp nối chothức kế tiếp. Diễn tiến hoạt động tâm thức như vậynếu không tồn tại một chủ thể tồn tại suốt từ đầuđến cuối, thì quá trình không thể xảy ra trọn vẹn. Chủthể ấy là tác giả, và cũng là thọ giả, là tác nhân sángtạo ra quá trình và cũng là chủ nhân hưởng thụ kết quảcủa quá trình. Từ đó hình thành ý niệm về một bản ngãthường nghiệm. Quá trình được lặp lại nhiều lần, bảnngã càng trở nên to lớn. Nhưng lớn cho đến độ khi đượckhuếch trương theo trục thời gian thì nó trở thành linh hồnvĩnh cửu bất diệt; bấy giờ gọi quan điểm về sự tồntại vĩnh hằng ấy là thường kiến.
Đoạnkiến hay thường kiến đều là hai thái độ, hai cách nhìnkhác nhau, từ hai vị trí khác nhau, đối với dòng tương tụccủa hữu phần và của tâm thức. Nói cách khác, thường kiềnvà đoạn kiến là những cái nhìn sai lạc bị thúc ép bởinỗi sợ hãi về sự chết.
Sợhãi, đó là xung lực chính của các hoạt động tâm thức.Thắng Man nói, «các chúng ba thừa có sợ hãi mà quy y NhưLai, cầu mong xuất ly, tu học, hướng Vô thượng Chánh đẳngchánh giác.»
Đốivới phàm phu, sợ hãi phản ánh ý hướng níu lại và giữgìn những gì mà các biến cố vô thường trong dòng tươngtục của sinh tử phần đoạn luôn luôn đe dọa cướp đi.Đối các các Đại Thánh nhân, các A-la-hán, Bích-chi-Phậtvà Đại lực Bồ tát, nỗi sợ hãi vẫn còn ám ảnh, vì sinhtử biến dịch bất tư nghị chưa được thoát ly.
Từsợ hãi, tâm thức triển khai các hoạt động để trấn ápvà để hưởng thụ các lạc thú do ý tưởng bình an đượcmang lại từ đó.
NhưngThắng Man không triển khai các hoạt động này thành một hệtâm lý luận hoàn chỉnh như Duy thức tông sau này. Hệ đơngiản nhất của Thắng Man chỉ gồm năm yếu tố, gọi làngũ trụ địa hoặc.
ThắngMan nói:
«Phiềnnão có hai loại… trụ địa phiền não và khởi phiền não.Trụ địa phiền não có bốn… kiến nhất xứ trụ địa,dục ái trụ trụ địa, sắc ái trụ địa và hữu ái trụđịa. Bốn trụ địa này sinh ra hết thảy khởi phiền não.Khởi tức là sát-na tương ưng sát-na tâm… Vô minh trụ địavô thủy không tương ưng với tâm.»
Trongđó, khởi phiền não chỉ những yếu tố hành hoạt độngcủa tâm thức. Chúng là những hạt giống được gieo trêncác mảnh đất đã được xông ướp, hay phân bón. Khi nảymầm, chúng hoạt động để tìm cách thỏa mãn những khátvọng của thức. Khi thế lực hiện hành hoạt động dứt,chúng rơi vào trạng thái tiềm phục, làm điều kiện cho cácmầm giống hoạt động tương lai. Cứ như thế, mảnh đấttâm thức càng lúc càng được xông ướp nặng mùi thêm.
Kiếnnhất xứ trụ địa là tập hợp tất cả yếu tố hoạt độngdưới sự chỉ đạo của tri kiến. Giống như một y sỹ nếunhận định sai các triệu chứng bịnh và có chẩn đoán saivề nguyên nhân gây bịnh, phương thức điều trị bấy giờthường đe dọa gây nhiều nguy hiểm cho bịnh nhân. Nhưng domầm giống nảy từ mảnh đất vô minh, nên những nhận thứccủa chúng sinh về hiện thực đều sai lầm, do đó hậu quảluôn luôn là đau khổ. Một khi thấy được sự thực, kiếnđế, những yếu tố này đồng loạt bị tiêu diệt. Bởivì chúng quanh ta có vô vàn tác nhân gây nhiễu nhận thức,cho nên phiền não thuộc kiến nhất xứ trụ địa cũng nhiềuvô số kể.
Dụcái trụ địa, là mảnh đất cho những khát vọng tính dụctrên đó các hạt giống đã nảy mầm hoạt động theo chiềuhướng tìm kiếm những nguồn dinh dưỡng hay năng lượng thỏamãn các xúc cảm vật chất. Sắc ái trụ địa là mảnh đấtcho sự phát triển các lạc thú mang đến do thiền định.Hữu ái hay vô sắc ái, là những khát vọng tồn tại siêuviệt thế giới vật chất.
Vôminh trụ địa là tầng sâu thẳm nhất nằm bên dưới tậncùng, mà độ dày của các tầng trên tùy thuộc vào nó. Duyvô minh vẫn còn là một khái niệm huyền bí. Vì, như ThắngMan nói, chỉ A-la-hán, Bích-chi-Phật và Đại lực Bồ tátmới trực nghiệm được xung lực hoạt động này mà thôi.Tuyvậy, nó cần phải được nhận diện, vì nếu không, khi cácThánh giả A-la-hán, Bích-chi-Phật, Đại lực Bồ tát diệttrừ triệt để tất cả các phiền não trụ địa, các Ngàinhất định phải nhập Niết-bàn, vì không mảnh đất nàotồn tại nữa.
Cáctrụ địa, là các mảnh đất tâm thức được xông ướp.Nhưng ngoài mảnh đất tâm ấy, không có tự thể tâm thứcnào khác. Khi mê, gọi là thức. Khi ngộ, gọi là trí. Mảnhđất tâm nếu được cải tạo tốt, được chăm bón cẩnthận, sẽ sản xuất những thứ hoa trái tốt, không độchại. Chuyển mê thành ngộ, chuyển thức thành trí, đó làcông phu tu tập cho quá trình chuyển y được minh giải rấtchi tiết trong Duy thức học về sau này.
IV.KẾT LUẬN
Từtrước đến nay, qua suốt các chương đã được trình bày,chúng ta nhìn tư tưởng Thắng Man như là một triết lý hànhđộng của Bồ tát đạo. Thì ở đây cũng thế, chúng ta đãnhìn tư tưởng Như Lai tạng của Thắng Man trong liên hệ đó,coi nó như là cơ sở của triết lý hành động ấy.
Nóimột cách vắn tắt, triết lý hành động của Thắng Man khởiđi từ cái nhìn về thiên chức làm mẹ của Bồ tát. Quátrình tu dưỡng của Bồ tát là quá trình nuôi lớn Thánh thai,là mở rộng tâm lượng của mình cho đến bao la vô tận,ôm trọn cả thế giới vào trong lòng. Do thế, nếu thấu suốtđược Như Lai tạng, chứng nghiệm được Như Lai tạng, làcó thể thấy rõ giới hạn tối sơ của mọi sự sống, hiểubiết tường tận tất cả sự sanh thành và hủy diệt củathế giới.
Sựchứng nghiệm vô biên Thánh đế cũng là sự diệt trừ toàndiện vô minh trụ địa, đập vỡ cái vỏ trứng che cách bảnthân và thế giới, và do đó thấu triệt tất cả căn nguyêncủa thế giới. Căn nguyên ấy là Như Lai tạng. Như Lai tạnglà nguồn xuất sinh của tất cả giáo pháp của ba thừa baogồm hai trình độ sai biệt nhận thức về bốn Thánh đế,do đó, theo trình tự tu chứng, trước hết Thắng Man phu nhângiới thiệu bốn Thánh đế hữu tác với mặt hạn chế củachúng trong ý nghĩa đối trị các trụ địa phiền não, tiếptheo giới thiệu bốn Thánh đế vô tác, và từ đó giới thiệuNhư Lai tạng.
ThắngMan phu nhân nói:
«Thánhđế, đó là nói nghĩa sâu xa, vi tế, khó biết; không phảilà cảnh giới tư lương. Đó là sở tri của bậc Trí; làđiều mà hết thảy thế gian không thể tin. Vì sao? Đây lànói tạng sâu thẳm của Như Lai. Như Lai tạng là cảnh giớicủa Như Lai; không phải là điều mà hết thảy Thanh văn,Duyên giác có thể biết. Ở nơi cảnh vực Như Lai tạng mànói ý nghĩa Thánh đế. Cảnh vực Như Lai tạng sâu thẳm,cho nên Thánh đế cũng sâu thẳm, vi tế, khó biết, không phảilà cảnh giới tư lương…»
Nhưvậy, Như Lai tạng được biết đến, được giới thiệutừ sự chứng nghiệm thực tế, từ sự triển khai nhữngkhía cạnh của thực tiễn hành động để nó trở thành cơsở của triết lý hành động của Bồ tát đạo theo ThắngMan.
[191]Pāṭika-sutta, D.iii.1ff, tỳ-kheo Sunakkhatta, người Licchavi. Trường«15 A-nậu-di kinh», tỳ-kheo tên Thiện Tú; Đại 1, tr. 66ff.
[192]Pāṭika, D.iiitr. 4: na hi pana me bhante Bhagavā aggaññaṃ paññāpetīti.
[193]Pāṭika, đã dẫn trên: paññatte vā aggaññe apaññatte vā aggaññeyass' atthāya mayā dhammo desito so niyyāti takkarassa sammā-dukkha-kkhayāya.
[194]Ngoài trường hợp Thiện Tú (Pāli Sunakkatta), trường hợprất nổi tiếng khác, Man Đồng tử (Pāli Māluṅkyaputta) vớiví dụ về mũi tên; xem Cūla-Māluṅkya-sutta, M.i. tr. , 426ff;Trung «221. Tiễn dụ kinh», Đại 1, tr. 804ff.
[195]Ngũ phần, quyển 16, Đại 22, tr. 110; Tứ phần, quyển 33, Đại16, tr. 798cff.; Mahāvagga, Bihar, tr. 39.
[196]Skt. Aśvajit; Hán: An-bệ, A-thuyết-thị, A-thấp-bà, Mã Thắng.
[197]Pāli: ye dhammā hetuppabhavā hetuṃ tathāgato āha/ tesaṃ yo nirodhoevaṃ vādī mahāsamaṇo.
[198]Pāli: svākkhato Bhagavatā dhammo… ehipassiko.
[199]Madhy, kārikā 3 (nửa sau): utpannā jātu vidyante bhāvāḥ kvacanakecana.
[200]Bảo khốt, tr. 67b.
[201]Đại 1, tr. 679. Pāli tương đương, Verañja-sutta, A.iv. tr. 172ff.
[202]Pāli: apagabbho bhavaṃ Gotamo. Câu này thực ra là một là câurủa.
[203]Bản Chân Đế, Đại 31, tr. 226a 6.
[204]Phật-đà-bạt-đà-la (Skt. Buddhabhadra, Hán dịch: Giác Hiền);bản dịch được thực hiện dưới triều Đông Tấn, niênhiệu Nguyên hy thứ 2 (A, D.420); Skt. Tathāgatagarbha-sūtra; hoặcĀrya-tathāgatagarbha nāma mahāyānasūtra.
[205]Bản dịch được thực hiện trong khoảng Thiên bảo 5 và Đạilịch 9 (A.D. 746-774). Tam tạng Bất Không hay nói đủ là BấtKhông Kim Cang (Skt. Amoghavajra), dịch giả lớn của kinh điểnhệ Mật giáo, truyền thừa dòng Thai tạng giới (Garbha-dhātu)tại Trung hoa.
[206]Bản dịch thực hiện vào niên hiệu Chính quang, Nguyên Ngụy(A.D, 525), trước thời gian Bồ-đề-lưu-chi tập đại thànhĐại bảo tích kinh (niên hiệu Trường thọ 2, A.D. 693) mà«Thắng Man Phu nhân hội» là một hội trong đó.
[207]Bản dịch được thực hiện dưới triều Lương, niên hiệuThiệu thái (A.D. 557). Tam tạng Chân Đế (Paramārtha) là dịchgiả lớn, người đã dọn nền móng cho Duy thức tông TrungHoa.
[208]Dhātu trong cụm từ dhātu-garbha-kumbha, «bình đựng di cốt»(wogihara, Honwadaijiten), hoặc trong (buddhānāṇāṃ) dhātustūpāḥSP.7.3, «tháp thờ di cốt của chư Phật.» (Fr. Edgerton, BuddhistHybrid Sanskrit Grammar and Dictionary).
[209]Vô thượng y, tr. 470c20: «Cái gì là tự tính của Bồ-đề?Mười địa, mười ba-la-mật, như lý và như lượng mà tutập con đường xuất ly; sự minh tịnh, tịch tĩnh, đạt đượcdo chuyển y… được gọi là tự tính của Bồ-đề.»
[210]Chuyển y (Skt. āśraya-parivṛtti, hoặc āśraya-parāvṛtti). Nhiếpluận thích (Huyền) 9, tr. 369a27: «Chuyển y là gì? Khi phátsinh sự đối trị đối với tự tính ấy, xả bỏ phần ônhiễm mà được phần thanh tịnh thì nói là chuyển y.»
[211]Vô thượng y, tr. 470c24.
[212]Phật tính luận. 4 quyển, Thiên Thân Bồ Tát tạo; Trần, Thiêntrúc Tam tạng Chân Đế dịch, đời Trần trong khoảng niênhiệu Vĩnh định 2 - Thái kiến 1 (A.D. 558-569). Đại 31, tr.794-812.
[213]Kiên Tuệ (Skt. Sāramati), người Trung Ấn độ, xuất hiệnsau Thế Thân (Vasubandhu), được tôn sùng là bậc Bồ Tát địathượng. 1. Cứu cánh nhất thừa bảo tính luận (Skt. Mahāyānottaratantra-śātra),4 quyển, Lặc-na-ma-đề (Ratnamati: Bảo Ý) dịch, Hậu Ngụy,niên hiệu Chính thủy 5 (A.D.508-); Đại 31, tr. 813ff.- 2. Đạithừa pháp giới vô sai biệt luận, cũng gọi là Như Lai tạngluận, Đề-vân Bát-nhã (Devaprajñā) dịch, Đường niên hiệuThiên thụ 2 (A.D.692); Đại 31, tr. 894ff.
[214]Phật tính luận (Đại 31, tr. 796b1) phân thành 10 tiết mụcđể luận về Như Lai tạng: 1. Tự thể tướng; 2. Nhân tướng;3. Quả tướng; 4. Sự năng tướng; 5. Tổng nhiếp tướng;6. Phân biệt tướng; 7. Giai vị tướng; 8. Biến mãn tướng;9. Vô biến dị tướng; 10. Vô sai biệt tướng.
[215]Đại 31, tr. 795c23.
[216]Xem cht. 209 trên.
[217]Bát nhã Tâm kinh. Hṛdaya: …sarvadharmāḥ śūnyatā lakṣaṇāanutpannā aniruddhā amalā na vimalā nonā na paripūrṇāḥ. Xemthêm dẫn và giải thích của Vô sai biệt, Đại 31, tr. 893b19.
[218]Đại 31, tr. 796a15.
[219]Đại 31, tr. 796a.
[220]Trong các trường hợp này, phát âm Hán Việt đúng phải là«tàng» như trong từ «tàng ẩn.» Nhưng theo thói quen, nênđây vẫn phát âm là «tạng».
[221]Vajra. tr. 74.12: tathāgata iti subhūte bhūtatathatāyā etad adhivacanam/tathāgata… anutpādadharmatāyā etad adhivacanam/ …dharmocchedasyaitadadhivacanam/ …atyāntānutpannasyatad adhivacanam, «Này Tu-bồ-đề,Như Lai là từ đồng nghĩa với Chân như, với vô sinh pháptính, pháp đoạn diệt, cứu cánh không sinh khởi».
[222]Madhy., kārikā 22.16: tathāgato yat svabhāvas tat svabhāvam idaṃjagat/ tathāgato niḥsvabhavo niḥsvabhāvam idaṃ jagat, Như Laicó tự thể cho nên thế gian này có tự thể. Như Lai khôngcó tự thể, thế gian này cũng không có tự thể.
[223]Madhy, Kārikā 24.14: sarvaṃ ca yujyate tasya śūnyatā yasya yujyate/sarvaṃ na yujyate tasya śūnyaṃ yasya na yujyate, «tất cả thíchứng vì nó thích ứng với Không tính. Tất cả không thíchứng vì nó không thích ứng với cái Không».
[224]«Con ruột của Phật» (Tathāgata-putra, hay Tathāgata-suta?) chưaxác định được Skt. Có lẽ: Tathāgata-bhūta-suta/putra (Skt.bhūta, có nghĩa là chân thật, cũng có nghĩa là con đích thực;V. Sh. Apte, The Practical Sanskrit-English Dictionary). Các bản Hándịch của Thắng Man đều nói là «Như Lai chân tử.» TrongPhật tính luận (Đại 31, tr. 798b26), Chân Đế dịch là «NhưLai hung tử» nghĩa là «Người con trong lòng Như Lai» và luậngiải thích sở dĩ nói thế vì luôn luôn ở trong lòng (tâmhung) của Phật.
[225]Dẫn bởi Phật tính luận (Đại 31, tr. 796b26).
[226]Đại nhật kinh sớ, quyển 14: «Pháp giới tạng, tiếng Phạnở đây có âm là Câu-xá. Nó có nghĩa là ‹bao kiếm›».Theo đó Pháp giới tạng ở đây Skt. là Dharmadhātu-kośa (thayvì là Dharmadhātu-garbha) cũng như trong Abhidharma-kośa (A-tỳ-đạt-maCâu-xá ).
[227]Đại 31, tr. 796b 10.
[228]Bảo khốt, Đại 34, tr. 85b23.
[229]Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận (An Tuệ), Đại 31,tr. 704b25: «Nghĩa của giới là gì? Nghĩa là, hạt giống củahết thảy pháp. Tức là, căn cứ hạt giống của các pháptrong A-lại-da thức mà nói là giới. Vì giới có nghĩa lànhân vậy.»
[230]Đại 31, tr. 796b12.
[231]Hán: chí đắc. Mochiyuki đọc là chí đức, theo âm Nhật đềulà shitoku.
[232]Đại 31, tr. 796b16.
[233]Phật tính luận, Đại 31, tr. 796b21.
[234]Skt. Garbhadhātu. Giải thích của Đại nhật kinh sớ 3 : «Hànhgiả khi vùa phát tâm mong cầu Nhất thiết trí, giống nhưbắt đầu gieo hạt giống của thức vào trong thai do nhân duyênhòa hiệp của cha mẹ…»
[235]Laṅkā, tr. 90.7: tathagatagarbho mahāmate kuśalākuśala-hetukaḥsarvagatikartā pravartate. Cf. Lăng-già 5, Đại 16, tr. 619c1.
[236]Laṅkā, tr. 33.10. Cf. Lăng-già 11, Đại 16, tr. 599b9.
[237]Laṅkā, tr. 90.18: aparāvṛtte ca tathāgatagarbhaśabda-saṃśabditeālaya-vijñāne nāsti saptānāṃ pravṛttivijñānānāṃ nirodhaḥ.Cf. Đại thừa nhập Lăng-già 5, Đại 16, tr. 619c13.
[238]Hữu tương tục (Skt. bhavāṅga-santati).