KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG
Thích Viên Giác dịch và giảng
Chương 9
I.Chánh Văn
Đức Phật dạy: "Học rộng, hiểu nhiều, đắm say đạo lý thì Đạo khó hội nhập. Kiên trì tâm chí thực hành thì Đạo rất lớn lao".
II. Đại Ý
Muốn thành tựu đạo quả thì phải thực hành giáo lý, chỉ biết học rộng hiểu sâu thì đạo quả khó thành.
III. Giảng Nghĩa
Đạo Phật là con đường giác ngộ, đưa con người đến sự thoát khổ. Đạo Phật là đạo sống, chứ không phải là một hệ thống triết học thuần túy, cũng không phải là Đạo của sự mê tín. Nhiều người nhìn Đạo Phật về góc độ tín ngưỡng tôn giáo, người khác nhìn vào góc độ triết học, và họ thán phục triết lý cao siêu của Phật giáo. Nhưng họ chẳng thu hoạch được lợi ích gì cho bản thân của họ. Đến với Đạo Phật bằng tình cảm tôn giáo hay bằng tri thức, lý thuyết thì không thể nào đạt đến chỗ tinh túy của Đạo Phật. Vì vậy, kinh văn nói: "Học rộng hiểu nhiều, đắm say đạo lý thì Đạo khó hội nhập" là ý này. Hương Nghiêm, Đức Sơn là những thiền sư nổi tiếng về sự thông thái, cuối cùng nhận ra rằng sự thông thái đó chẳng ích gì cho sự giác ngộ chân lý, sự thoát ly sinh tử. Nói như vậy, không có nghĩa là học rộng, hiểu nhiều là vô ích. Học rộng, hiểu nhiều chỉ có giá trị khi nó được sử dụng để tu tập, để hành đạo, biến thành chất liệu sống. Mặt khác, ngôn ngữ lý thuyết, chữ nghĩa không thể diễn tả được chân lý. Sự hạn chế của nó là quá rõ, chấp thủ vào lý thuyết là tự nhốt mình vào trong vòng lẩn quẩn của cuộc đời. Đức Phật đã dạy: "Mỗi quan điểm lý thuyết là một bụi rậm, một mê cung...". Có nhiều nhà nghiên cứu, bác học về Đạo Phật, những công trình của họ thật là vĩ đại, nhưng phiền não không đoạn trừ, khổ đau vẫn tồn tại, sinh tử vẫn triền miên ... Những người Phật tử làu thông kinh tạng, tông nào cũng biết, phái nào cũng thông, mở miệng là Phật, là Tổ, là Kinh, là Kệ, Đức Phật cho rằng đó chỉ là những kẻ hý luận mà thôi. Lão Tử nói: "Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn. Dĩ chí ư vô vi", nghĩa là: " Chạy theo sự học thì càng ngày càng thêm phiền toái, mà theo Đạo thì mỗi ngày mỗi giảm thiểu, giảm rồi lại giảm nữa, đến khi hội nhập vô vi". Con đường để thấy Đạo, chứng Đạo phải là con đường thực hành loại bỏ mọi tư duy khái niệm ngã tướng, đó là ý nghĩa "Kiên trì tâm chí thực hành Đạo thì Đạo rất lớn lao".
Trong kinh Di giáo, Đức Phật dạy rằng: "Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện", nghĩa là tập trung tâm ý vào một chỗ, thì không có việc gì là không thành tựu. Châu Lợi Đàn Bà Già là một Tỳ kheo dốt nổi tiếng, nhờ chí tâm hành đạo mà thành tựu Đạo quả. Có những bà già ngu dốt, chỉ chuyên niệm Phật đến chỗ bất loạn mà thành tựu sở nguyện ... Những chuyện như vậy không kể hết được. Từ "Thủ chí" rất quan trọng, phương ngôn có câu: "Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền", lòng bền bỉ, nước chảy đá mòn đó là thủ chí. Người xuất gia ban đầu tâm Bồ đề rất mạnh, nếu tâm Bồ đề đó được giữ vững từ đầu cho đến cuối thì chắc chắn sẽ gặp Đạo. Nhưng phần lớn, sơ phát tâm mạnh, một thời gian nó giảm dần, nên độ bền không có, Đạo ngày càng xa, như ta vẫn thường nghe: "Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật tại thiên, tam niên Phật biến".
Người xuất gia như một chiến sĩ ra mặt trận, phải có ý chí quyết thắng, phải có phương pháp chiến đấu thì mới mong chiến thắng mà trở về. Ý chí chiến đấu là Thủ chí hành Đạo, phải có phương pháp, đó là học rộng nghe nhiều. Sự hiểu biết và thực hành phải cân đối. Sự học hỏi phải đi đôi với sự học hành như một người có mắt để thấy, phải có chân để đi ,thấy mà không đi coi như không thấy. Đi mà không thấy sẽ đi vào chỗ tối tăm nguy hiểm. Giữa biết, nói và làm phải là một, như một triết gia Trung Hoa Vương Dương Minh chủ trương: "Tri hành hợp nhất". Đạo Phật là đạo cứu khổ, thoát khổ, cho nên rất chú trọng phần thực tiễn, thực hành. Do đó mà chương này có vẻ như coi trọng thực hành hơn lý thuyết.
IV. Nhận Xét Và Kết Luận
1) Chương này nói lên sự hạn chế của tri thức và tình cảm, hai lĩnh vực này khó mà hội nhập Đạo được.
2) Sự quan trọng của ý chí, của quyết tâm sẽ đạt được Đạo quả.
3) Học và Tu phải song hành, lý thuyết và thực tiễn phải hợp nhất thì Đạo rất lớn.
Chương 10
I. Chánh Văn
Đức Phật dạy rằng: "Thấy người thực hành bố thí, hoan hỷ giúp đỡ thì được phước rất lớn". Có vị Sa môn hỏi Phật: "Phước này có hết không?" Phật đáp: "Thí như lửa của một ngọn đuốc, hàng trăm hàng ngàn người đem đuốc đến mồi lửa về để nấu ăn hay để thắp sáng, lửa ngọn đuốc này vẫn như cũ. Phước của người hoan hỷ hỗ trợ cho người thực hành bố thí cũng vậy".
II. Đại Ý
Thấy người thực hành bố thí mà tùy hỷ hỗ trợ thì phước đức rất lớn.
III. Giảng Nghĩa
1. Chú thích từ ngữ, thuật ngữ:
Bố thí: tiếng Phạn là Dàna (Đàn-na), Hán dịch là Thí: cho, tặng. Bố thí là công hạnh tu tập của người Phật tử. Có 4 loại:
- Tài thí: cho tiền bạc của cải.
- Pháp thí: cho lời khuyên hay nói pháp cho người được lợi ích.
- Vô úy thí: cho sự không sợ hãi.
- Tùy hỷ thí: cho sự vui vẻ, đồng tình.
Phước (Phúc): tiếng Phạn là Dunya, P: Pùnna, là việc tốt, cảnh vừa ý, điềm tốt lành, sung sướng. Trái với tội, tai họa, khổ sở. Biểu hiện của Phước là sự sang trọng, giàu có, sống lâu, đẹp đẽ, yên ổn ...
2. Giải thích nội dung:
Chương này nói về hạnh tùy hỷ và hỗ trợ cho người thực hành bố thí, trái với hạnh tùy hỷ là cản trở chê bai người thực hành hạnh bố thí.
Người thực hành bố thí là người đang làm điều thiện. Sự phát tâm của họ thuở ban đầu còn yếu, nên gặp nghịch cảnh họ dễ dàng thoái tâm. Còn làm một việc thiện mà có sự tán trợ của người khác, niềm tin vào thiện pháp được tăng trưởng, họ mạnh dạn và vững chắc ý chí hơn trên con đường thực hành bố thí. Như vậy, nuôi dưỡng và tăng trưởng được tâm bố thí ở kẻ khác là một việc công đức rất lớn.
Sự tùy hỷ hỗ trợ này có 2 phần:
- Góp phần công đức bằng vật chất, ví dụ như có người đứng ra quyên góp để cứu trợ người gặp hoạn nạn, ta vui vẻ góp tiền bạc, gạo, quần áo...
- Góp phần công đức bằng tinh thần là khuyến khích, tán dương việc làm tốt đẹp ấy, làm cho người kia phấn khởi tinh thần, tâm bố thí càng mạnh.
Mặt khác, khi ta vui vẻ hỗ trợ cho người khác làm việc bố thí, một người làm sẽ tác động đến lương tâm của kẻ khác, họ sẽ noi gương bố thí, tiếp tục ảnh hưởng đến người khác nữa... tạo thành tác động dây chuyền. Việc bố thí trở thành nếp nghĩ, nếp sống của con người trong xã hội thì công đức tùy hỷ kia sẽ lớn lao vô cùng. Bố thí như vậy sẽ được lưu truyền từ đời này qua đời khác, biểu hiện tính chất văn hóa văn minh của con người, nên phước đức đó không thể hết được.
Tuy nhiên, tùy hỷ hỗ trợ kẻ bố thí phải có trí tuệ, vì giúp đỡ cho người bố thí vì danh lợi cá nhân, lấy lòng quần chúng để thực hiện ý đồ tăm tối nào đó, thì không những không có phước mà còn gây họa là đằng khác.
IV. Nhận Xét Và Kết Luận
1) Vui vẻ giúp người thực hành bố thí làm cho người bố thí tăng thêm niềm tin vào thiện pháp, tâm họ được tăng thượng nên công đức rất lớn.
2) Tạo nên tác động dây chuyền làm cho hạnh bố thí được phổ biến thành nếp nghĩ, nếp sống của con người, lợi ích sẽ lớn rộng, nên công đức rất lớn.
3) Cản trở là dập tắt lòng bố thí, đẩy người ta vào bóng tối, mình cũng đi theo vào bóng tối.
Chương 11
I. Chánh Văn
Đức Phật dạy: "Cho một trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho một ngàn người thiện ăn không bằng cho một người thọ ngũ giới ăn. Cho một vạn người thọ ngũ giới ăn không bằng cho một vị Tu Đà Hoàn ăn. Cho một trăm vị Tu Đà Hoàn ăn không bằng cho một vị Tư Đà Hàm ăn. Cho một ngàn vạn vị Tư Đà Hàm ăn không bằng cho một vị A Na Hàm ăn. Cho một ức vị A Na Hàm ăn không bằng cho một vị A La Hán ăn. Cho mười ức vị A La Hán ăn không bằng cho một vị Bích Chi Phật ăn. Cho một trăm ức vị Bích Chi Phật ăn không bằng cho một vị Phật ba đời ăn (Tam thế Phật). Cho một ngàn ức vị Phật ba đời ăn không bằng cho một vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng ăn".
II. Đại Ý
So sánh công đức bố thí nhiều hay ít tùy vào đối tuợng bố thí.
III. Giảng Nghĩa
1. Giải thích từ ngữ, thuật ngữ:
Bích chi Phật: dịch âm tiếng Phạn Pratryka Buddha, Trung Hoa dịch là Độc Giác Phật hay là Duyên Giác Phật tức là người tu hành vào thời kỳ không có Phật pháp, không gặp Phật pháp, tự lực giác ngộ nhờ quán chiếu nguyên lý duyên sinh.
Tam thế chư Phật: chư Phật 3 đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Thường thì Đức Phật Di Đà tượng trưng cho Phật quá khứ, Đức Phật Thích Ca tượng trưng cho Đức Phật hiện tại và Đức Phật Di Lặc tương trưng cho vị lai. Ở chương này muốn nói đến ứng hóa thân của chư Phật trong chúng sinh giới, cụ thể là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng: Ở đây muốn nói đến vị Phật thể tánh, sự thanh tịnh tuyệt đối của bản thể. Phật này là vô tướng Phật, pháp thân Phật.
2. Giải thích nội dung:
Chương 11 này nói về sự sai biệt của công đức bố thí tùy theo đối tượng bố thí. Ở trong A hàm và Nikàya có 2 kinh tương đồng với chương này đó là kinh Cù Đàm Di số 180 (Trung a hàm) và kinh phân biệt cúng dường (Trung bộ kinh 3). Đại ý như sau: Bà Mahapajapati Gotami dâng cúng Đức Phật chiếc y do chính bà cắt may, Đức Phật không nhận, khuyên bà nên cúng y ấy cho Tăng chúng công đức rất lớn. Sau đó ngài dạy về 14 đối tượng cá thể cúng dường được phước:
1. Bố thí cho bàng sinh được trăm phần công đức.
2. Bố thí cho phàm phu ác giới sẽ được ngàn phần công đức.
3. Bố thí cho người giữ (5) giới được trăm ngàn lần công đức.
4. Bố thí cho ngoại đạo ly dục được trăm ngàn ức công đức.
5. Bố thí cho vị đang hướng về quả Dự lưu được công đức vô lượng.
6. Bố thí cho vị đã chứng quả Dự lưu được công đức vô lượng.
7. Bố thí cho vị đang hướng về quả Nhất lai được công đức vô lượng.
8. Bố thí cho vị đã chứng quả Nhất lai được công đức vô lượng.
9. Bố thí cho vị đang hướng về quả Bất lai được công đức vô lượng.
10. Bố thí cho vị đã chứng quả Bất lai được công đức vô lượng.
11. Bố thí cho vị đang hướng về quả A La Hán được công đức vô lượng.
12. Bố thí cho vị đã chứng quả A La Hán được công đức vô lượng.
13. Bố thí cho vị Độc giác Phật được công đức vô lượng.
14. Bố thí cho vị Như Lai được công đức vô lượng.
Sau đó Đức Phật dạy thêm 7 đối tượng tập thể nếu bố thí công đức cũng vô lượng.
1. Bố thí cho Phật và hai chúng Tăng Ni.
2. Bố thí cho chúng Tăng và Ni sau khi Phật qua đời.
3. Bố thí cho Tăng chúng.
4. Bố thí cho Ni chúng.
5. Bố thí cho vị Tăng Ni đại diện cho Tăng Ni chúng
6. Bố thí cho vị Tăng đại diện cho Tăng chúng
7. Bố thí cho vị Ni đại diện cho Ni chúng.
Như vậy so sánh giữa Kinh Tứ Thập Nhị Chương và A Hàm, Nikàya như sau:
1. Kinh Tứ Thập Nhị Chương không đề cập đến bố thí cho hạng bàng sinh.
2. Kinh Tứ Thập Nhị Chương không có bố thí cho hạng tiên nhân, ngoại đạo ly dục. Ahàm và Nikàya đặt hạng người này chỉ thấp hơn Tu Đà Hoàn.
3. Kinh Tứ Thập Nhị Chương không có 4 hạng Tu đà Hoàn hướng, Tư đà Hàm hướng, A na Hàm hướng, A La Hán hướng.
4. Kinh Tứ Thập Nhị Chương lại đưa thêm một vị được coi là cao hơn Phật là vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng, đây là tư tưởng thiền tông Đại thừa sau này thêm vào.
5. Về số lượng, đối tượng, Kinh Tứ Thập Nhị Chương có 10; A Hàm và Nikàya có 14 - Đặc biệt A hàm và Nikàya khi ngang mức Tu đà Hoàn trở lên không tính số công đức mà gọi chung là công đức vô lượng .
Trong toàn văn kinh phân biệt cúng dường và kinh Cù Đàm Di, Đức Phật dạy cho Mahapajapati Gotami gồm 14 đối tượng cá thể và 7 đối tượng tập thể, ngoài ra còn đề cập đến công đức bố thí hoàn hảo phải nhờ vào đối tượng bố thí và người bố thí đều thanh tịnh. Như vậy nội dung rất rõ và hợp lý.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương chỉ trích ngang một đoạn nên có vẻ khập khễnh. Chỉ chú trọng đối tượng bố thí mà không quan tâm đến người bố thí. Nếu người bố thí là kẻ trộm thì đồ vật ăn trộm đem bố thí công đức không thể lớn được.
Dựa trên cơ sở nào để so sánh bố thí cho đối tượng này ít hoặc nhiều công đức hơn đối tượng kia?
Đối tượng bố thí có trình độ đạo đức càng cao thì công đức càng lớn bởi lẽ sự có mặt của một người thiện sẽ có tác dụng tích cực cho những người xung quanh, họ có thể đem lại bình an cho nhiều người. Vì vậy, bố thí cho họ không chỉ đem đến lợi ích cho cá nhân họ mà còn đem lại lợi ích cho số đông, cho nên công đức bố thí ấy lớn hơn công đức bố thí cho người bình thường.
Về mặt tâm lý, khi bố thí cho một người đạo đức Thánh thiện, sự Thánh thiện ấy tỏa ra từ đối tượng bố thí làm cho tâm lý người bố thí chuyển hóa mạnh mẽ, tạo ấn tượng sâu sắc làm cho tăng trưởng niềm tin, sự hoan hỷ phát sinh nên công đức người bố thí càng lớn.
IV. Nhận Xét Và Kết Luận
1) Chương này có xuất xứ trong Kinh Trung A Hàm và Trung Bộ Kinh (Kinh Cù Đàm Di và Kinh Cúng Dường Phân Biệt).
2) Đối tượng Tam thế Phật và vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng là được thêm vào sau này, nguyên bản cũ không có.
3) Bố thí cho người có trình độ, đạo đức và tâm linh càng cao thì công đức càng lớn. Bố thí là pháp môn tu tập của người Phật tử , qua đó làm cho tâm thức của mình được thanh thoát, xả ly.
Chương 12
I. Chánh Văn
Đức Phật dạy: "Làm người có 20 điều khó: Nghèo nàn bố thí là khó, Giàu sang học đạo là khó, Bỏ thân mạng quyết chết là khó, Thấy được kinh Phật là khó, Sinh vào thời có Phật là khó, Nhẫn sắc nhẫn dục là khó, Thấy tốt không cầu là khó, Bị nhục không tức là khó, Có thế lực không dựa là khó, Gặp việc vô tâm là khó, Học rộng nghiên cứu sâu là khó, Diệt trừ ngã mạn là khó, Không khinh người chưa học là khó, Thực hành tâm bình đẳng là khó, Không nói chuyện phải trái là khó, Gặp được thiện tri thức là khó, Thấy tánh học Đạo là khó, Tùy duyên hóa độ người là khó, Thấy cảnh tâm bất động là khó, Khéo biết phương tiện là khó".
II. Đại Ý
Phật dạy 20 điều khó làm đối với một con người.
III. Giảng Nghĩa
1. Chú thích từ ngữ, thuật ngữ:
Vô tâm: không để tâm, không chấp trước vào công việc, không dính mắc và bị lôi kéo bởi công việc.
Ngã mạn: ỷ tài mình, khinh khi lấn át kẻ khác.
Tâm bình đẳng: bình đẳng, tiếng Phạn là Sama, nghĩa là không phân biệt, không thiên vị. Tâm bình đẳng là tâm không phân biệt, không thiên vị, coi tất cả mọi người như nhau.
Thiện tri thức: tri thức là sự hiểu biết, người hiểu biết. Thiện tri thức là người bạn tốt, giúp đỡ ta trên đường đời cũng như trên đường Đạo. Có 3 hạng Thiện tri thức:
- Ngoại hộ Thiện tri thức: giúp đỡ các nhu cầu vật chất.
- Đồng hạnh Thiện tri thức: đồng tu, đồng học, khuyến khích sách tấn ta tu học.
- Giáo thọ Thiện tri thức: người dạy dỗ ta, cho ta kiến thức, sự hiểu biết để tu tập.
Kiến tánh: là thấy tánh, là một từ ngữ của Thiền Tông
Trong bài kệ của Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói: "Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật". Thấy rõ bản chất của tâm, của vật là không sinh, không diệt, không thiện, không ác, vượt ngoài đối đãi... gọi là kiến tánh.
Tùy duyên: thuận theo hoàn cảnh, điều kiện, nhân duyên mà xử sự. Trong kinh nói: "Tùy duyên bất biến". Thuận theo hoàn cảnh mà xử sự, nhưng không đánh mất bản tính của mình.
Phương tiện: tiếng Phạn là Upàya, cách xử trí khôn khéo để dẫn dắt chúng sinh vào con đường Đạo. Thường gọi là phương tiện pháp môn, là phương pháp tu tập theo căn cơ trình độ của chúng sinh, làm cho được giải thoát.
2. Giải thích nội dung:
20 điều khó làm là:
1) Nghèo nàn bố thí là khó: người nghèo, đời sống thiếu thốn, bức bách , luôn mong cầu có cái để ăn, để mặc, đã có rồi thì phải lo giữ phòng khi bất trắc, nên tâm lý luôn co cụm, không muốn xả ly, nên khó mà phát tâm bố thí. Nếu họ phát tâm bố thí, thì công đức rất lớn vì phải có tâm địa hoan hỷ đến mức cao mới bố thí. Kẻ giàu cũng có tâm lý bảo thủ nên họ cũng khó mà bố thí.
Người Phật tử cần phải hiểu rằng, bố thí trước hết là mở rộng lòng mình (Tâm). Tâm đã phát thì có cái để cho. Bố thí như đã nói ở chương trước chính là cái Tâm, chứ chưa hẳn là vật chất, nên không ai nghèo cả. Nghèo ở đây là nghèo về mặt tinh thần. Kinh Tăng Chi nói nghèo là không có lòng tin, không có sợ hãi những điều tội lỗi, không có tinh thần đoạn trừ điều ác, và không có trí tuệ. Như vậy, có những kẻ giàu có về mặt vật chất nhưng vẫn cứ "nghèo" như thường. Khi đã không có lòng tin vào Tam bảo và Thiện pháp thì làm sao mà bố thí được. Nghèo nhưng có đời sống tinh thần cao thì nghèo mà "Giàu".
Truyện Phật giáo có ghi chép hàng loạt những người nghèo mà phát tâm bố thí đem lại công đức lớn cho mình, như chuyện bà già cúng dầu, chuyện bán nghèo, chuyện hai vợ chồng nghèo cúng chiếc áo duy nhất... chứng tỏ sự nghèo mà không nghèo, và cái khó ấy cũng đã có nhiều người vượt qua.
2) Giàu sang học Đạo là khó: người giàu có thường dựa vào của cải, và yên tâm trên của cải, họ không có gì phải lo sợ nên họ không cần phải học Đạo làm gì. Mặt khác, công việc doanh thương đòi hỏi họ phải mưu toan, phải tranh đấu, phải lạnh lùng, ác nhiều hơn thiện, nên càng ngày càng xa với Đạo. Hình như trong kinh Thánh có nói: "Người giàu lên Thiên đường khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim". Và nhà Nho cũng nói:"Vi phú bất nhơn". Hơn nữa, người giàu thường thích hưởng thụ các lạc thú, tìm cầu lạc thú, nên khó mà học Đạo. Bởi vì học Đạo là học con đường xả ly, xả tham sân, si, là con đường tâm linh thanh thoát, từ, bi, hỷ, xả, là con đường đi ngược dòng đời.
Tuy nhiên, không phải ai giàu cũng khó học Đạo. Người giàu mà có trí tuệ, có sự tỉnh thức, họ có thể thấy cái mong manh của tài sản, có thể thấy con đường hạnh phúc thực sự là con đường tu tập Thánh đạo. Trong sử truyện Phật giáo cũng có hàng loạt những triệu phú biết tu học và đắc đạo như Cấp Cô Độc, Vi Sa Kha ...
3) Bỏ thân mạng quyết chết là khó: Người hay sinh vật nói chung đều tham sống sợ chết. Bản năng sinh tồn luôn chi phối con người bảo thủ cái thân mạng, cái ta ; cho nên nó xoay sở tìm cách để tồn tại, có khi phải làm điều ác như giết người để người khỏi giết mình. Ít khi vì lý tưởng nào đó mà hy sinh thân mạng, nên gọi là bỏ thân mạng quyết chết là khó.
Quyết chết có nghĩa là giữ vững khí tiết, giữ vững điều thiện hay lý tưởng cao cả như hy sinh cho mọi người ... Có những người không muốn sống, họ đi tìm cái chết bằng cách tự tử ; đây cũng là quyết chết nhưng không phải vì lý do cao cả cho nhân quần xã hội, mà đó là cái chết vị kỷ, cái chết do bản năng hưởng thụ hơn bản năng sinh tồn, họ chết vì nghĩ rằng chết sướng hơn. Trong lịch sử Phật giáo có khá nhiều Thánh Tử Đạo, vì Đạo mà hy sinh, như Bồ Tát Thích Quảng Đức là gương sáng cho mọi thế hệ Phật tử Việt Nam. Có người vì giữ giới mà quyết chết, thà chết còn hơn sống mà phạm giới, đó cũng là những cái chết kiên cường. Chỉ có những con người đạt đến chỗ vô ngã mới có thể hy sinh bản thân cho lợi ích của số đông. Vì vậy, nói rằng bỏ thân mạng quyết chết là khó.
4) Được thấy kinh Phật là khó: trong kinh, Phật dạy: "Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn" nghĩa là thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Thấy hay nghe là một. Khó mà thấy nghe và hiểu biết kinh Phật, không phải vì nghèo không có kinh, hay ở chỗ biên địa không có kinh, trong thời đại tiến bộ như hiện nay chỗ nào cũng có kinh sách, thậm chí nhiều là đằng khác. Khó thấy đây là khó thấy chân lý. Con đường đó đi ngược với sở thích của con mắt, lỗ tai, lỗ mũi, miệng... của mình, nên nghe mà không nghe, thấy mà không thấy, thậm chí không muốn thấy. Khổng Tử nói: "Sáng nghe Đạo, chiều chết cũng đành". Đấy là bậc Thánh nhân khát khao đạo lý. Phần nhiều con người đều khát khao tiền tài, tình ái, danh vọng, cho nên nói thấy được kinh Phật là khó.
5) Sinh vào thời có Phật là khó: Đức Phật như đóa hoa ưu đàm, ngàn năm mới nở một lần, thật hiếm hoi, thấy khó gặp. Theo kinh tạng nguyên thủy, trong một kiếp chỉ có một Đức Phật xuất hiện giáo hóa. Những người sinh vào thời có Phật, được Phật trực tiếp dạy dỗ, dễ dàng đắc Đạo. Phần lớn đệ tử của Đức Phật đều đắc Đạo, đó là sự thật. Tuy nhiên, có rất nhiều người sinh vào thời đó có Phật xuất hiện mà họ chẳng được ích lợi gì. Con số này là con số đông. Vậy thì ta hiểu thế nào về ý nghĩa sinh vào thời có Phật là khó? Phật nói theo tiếng Phạn là Buddha, nghĩa là người giác ngộ, người tỉnh thức, có thầy, có bạn, cùng nhau sách tấn tu học, phát triển sự tỉnh thức để thực nghiệm chân lý. Với đời sống hằng ngày chung quanh chúng ta, biết bao cám dỗ, cạm bẫy, dối trá là môi trường của ma giới , cạnh tranh chà đạp lên nhau mà sống, làm sao mà gặp Phật được.
Từ môi trường giác ngộ tỉnh thức, chúng ta luôn sống trong ý thức giác tỉnh, nhìn cuộc đời một cách thanh thản, vô ưu, thay đổi cái nhìn từ chỗ u minh thành giác tỉnh, thì môi trường ma quái sẽ thành môi trường giác ngộ. Và như vậy gọi là gặp thời có Phật.
Tóm lại, luôn luôn sống trong tỉnh thức và giác ngộ thì "Sinh vào thời có Phật" là không khó. Ngược lại, dù Phật có ở trước mặt cũng khó mà gặp được.
6) Nhẫn được sắc dục là khó: Người đời gặp chuyện bất bình chịu nhẫn, không nổi nóng, gặp nghịch cảnh trái ý chịu nhẫn không phản ứng. Nhẫn được như vậy được coi là có trình độ cao về nhẫn rồi, nhưng chưa phải là nhẫn cao thượng. Được gọi là nhẫn xuất thế là kham nhẫn đối với sắc dục. Mắt thấy sắc không bị sắc lôi cuốn làm cho dao động và nô lệ cho sắc. Lòng ham muốn sắc dục rất mạnh, vì đó là bản năng của các loài sinh vật. Bản năng hưởng thụ luôn thúc bách con người tìm kiếm lạc thú ; lạc thú cao nhất là sắc dục. Phật dạy: "Nếu có thêm một pháp nào hấp dẫn như sắc dục, thì ta khó hóa độ chúng sanh". Thói quen hưởng thụ sắc dục làm cho người luôn khao khát, luôn thiếu thốn, và điều quan trọng là sắc dục trở thành nhu cầu cao, rất khó nhẫn nhịn. Sự trói buộc của sắc dục rất đa dạng như vòi của bạch tuột. Kinh Tăng Chi đề cập đến sự trói buộc giữa người nam giới với người nữ giới hay nữ với nam là sự trói buộc qua nhan sắc, qua tiếng cười, qua lời nói, qua lời ca hát, qua nước mắt, qua áo quần, qua vật tặng, qua sự xúc chạm. Có nơi, Đức Phật dạy: "Ngay cả khi chết, người nữ vẫn còn hấp dẫn nam nhân". Vì vậy mà gọi là nhẫn sắc dục là khó. Nhẫn được sắc dục thì con đường Thánh đạo mở ra, nên gọi đó là nhẫn xuất thế.
7) Thấy tốt không ham cầu là khó: Thấy tốt tức là thấy người đẹp, vật tốt, công việc tốt đẹp, nói chung tất cả những đối tượng hợp ý, thích ý phù hợp với sở cầu của mình. Ai thấy tốt cũng mong ước cái tốt ấy sẽ là của mình, và ai cũng mong chiếm hữu nó. Chính vì ai cũng ham thứ tốt, nên thứ tốt là đối tượng tranh chấp, tranh đấu, chém giết lẫn nhau. Do mong cầu thứ tốt, nên khi gặp thứ xấu sinh ra bất mãn, bực tức, và đấu tranh để loại bỏ nó... cuộc sống trở nên rối rắm, bất an.
Người thấy tốt mà không ham cầu là người thấy rõ sự nguy hiểm của cái tốt, thấy được cái xấu của cái tốt và cái vô thường tạm bợ của cái tốt, nên họ không cầu cái tốt. Nhờ có trí tuệ thấy sâu sắc về sự vật nên họ mới làm chủ được tâm lý mong cầu của mình. Nhưng mấy ai có được trí tuệ để vượt thắng những cám dỗ thông thường. Thế nên gọi là thấy tốt không ham cầu là khó.
8) Bị nhục không tức giận tức là khó: Khá nhiều chương trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương đề cập đến sự nhẫn nhục, không phản ứng đối với người sỉ nhục mình, bởi vì nhẫn nhục là công hạnh tu tập quan trọng của người xuất gia hay người Phật tử. Làm chủ được tâm lý, tư tưởng của mình là đời sống tỉnh giác của đệ tử Phật. Sức mạnh của người tu hành không phải ở danh vọng, tiền tài hay vũ khí mà chính là tâm nhẫn nhục.
Có người bị người khác nhục mạ, sắc mặt vẫn điềm tỉnh bình thường, nhưng chưa hẳn là họ đang thực hành nhẫn nhục, mà có thể họ đang trù tính phải trả thù như thế nào cho có hiệu quả. Thánh nhân nói: "Kẻ mà ta nói cho họ tức giận mà họ không tức giận, nếu chẳng phải là người đại lượng thì chính là kẻ nham hiểm".
Bị nhục là đụng đến lòng tự ái, lòng tự ái là tên gọi khác của tự ngã, nên không ai chịu nỗi nếu bị nhục. Chỉ có Thánh nhân mới đạt đến vô ngã, chịu được sự nhục mạ nên nói rằng bị nhục mà không giận tức là khó.
9) Có thế lực không sử dụng thế lực tức là khó: Con người luôn luôn có chỗ dựa thì họ mới an tâm, cho nên họ tìm kiếm chỗ dựa. Chỗ dựa đó có thể là tiền tài, là những kẻ quyền thế, là danh vọng, là uy tín, là quần chúng. Khi có chỗ dựa an ổn rồi, họ thường ỷ lại vào thế lực của mình để cầu lợi cho mình, làm thiệt hại cho kẻ khác, họ trở thành tự cao tự đại. Tục ngữ Việt
Người có trí tuệ, có thế lực mà không sử dụng thế lực, nên khi thế lực mất đi, họ vẫn bình thường. Hơn nữa, có thế lực mà không sử dụng thế lực thì không ai phá thế lực của mình làm gì, nhờ đó mà thế lực của mình tồn tại lâu dài. Khổng Tử dạy Tăng Tử: " Thông minh, tài giỏi nên bớt đi bằng cách ngu độn. Công nghiệp to lớn thì bớt đi bằng cách khiêm cung. Sức khỏe hơn người thì bớt đi bằng cách nhút nhát. Giàu có thiên tải thì bớt đi bằng cách nhún nhường. Đó là những cái bớt đi cho khỏi đầy quá. Không quá đầy thì khỏi đổ ".
Biết bao danh nhân thế giới đã chết vì quá chủ quan dựa vào thế lực mà mình có, chính nó làm cho mình tồn tại thì nó cũng làm cho mình sụp đổ. Thấy được điều đó rất khó, nên gọi là có thế lực mà không sử dụng thế lực là khó.
10) Gặp việc vô tâm là khó: Tâm phân biệt của con người rất rõ, phân biệt đâu là khổ, đâu là sướng, cái đáng ghét, cái đáng thương, tướng đối đãi ở đời được con người rạch ròi đôi ngả. Khi sướng thì vui mừng, khi khổ thì đau buồn, gặp phúc thì hớn hở, gặp họa thì héo tàn. Do đó, cuộc đời luôn luôn dao động, bất an và phiền muộn. Cái tâm: "Hữu phân biệt" làm cho con người khổ.
Nếu dùng trí tuệ quán xét cuộc đời là tương đối thôi, có và không, được và mất, hơn và thua chỉ là 2 mặt của một đồng tiền. Chuyện Tái Ông thất mã là một ví dụ. Người xưa thường nói: "Nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì không có bạn". Cái khổ của "Hữu tâm" là vậy.
Nếu được "Vô tâm" thì sướng. Vô tâm là vô phân biệt; vô phân biệt là thấy được tính tương đối của vạn vật vũ trụ nên không chấp vào tướng cố định nào, nên công việc của họ an bình hơn và thành công nhiều hơn. Đối với hạnh giải thoát thì vô phân biệt là điều kiện để tiếp cận chân lý. Vượt qua được tầm nhìn hạn hẹp của hữu tâm không dễ, nên gặp việc vô tâm là khó.
11) Học rộng nghiên cứu sâu là khó: Ở đây đặt nặng vai trò và giá trị của học rộng nghiên cứu sâu. Ở chương 9 nói học rộng khó đạt đạo, so với phần này không có mâu thuẫn gì, chương này nói những cái khó chứ không phải nói về cứu cánh của Đạo.
Xưa nay, người trí thức bao giờ cũng là thành phần thiểu số trong xã hội. Sự đóng góp của người trí thức vào công việc xây dựng xã hội phát triển rất lớn. Cái khó của sự học rộng nghiên cứu sâu là ở chỗ:
- Khó do hoàn cảnh không cho phép, như môi trường xã hội, tài chánh ...
- Khó do điều kiện khả năng của bản thân như trí não hạn chế, bệnh hoạn ...
- Khó do lười biếng , ham hưởng thụ, không có lý tưởng ...
Học rộng nghiên cứu là để thấy rõ hơn, sâu hơn và đúng hơn về bản chất của sự vật. Ở đời thì nhờ nhớ sâu và rộng con người có thể giúp ích cho xã hội phát triển kinh tế, học thuật, chính trị... đối với người tu hành thì học rộng nghiên cứu để phát huy chánh pháp, để nhận diện chân lý của cuộc sống và đạt được sự giải thoát tối thiện.
Ngu dốt có 3:
- Không biết những gì cần phải biết.
- Biết không rõ những gì đã biết.
- Biết những điều không nên biết.
Như vậy, những người có kiến thức sâu rộng đôi khi vẫn bị coi là ngu dốt như thường.
Học rộng, nghiên cứu sâu là điều kiện để vươn tới chân lý và đó là điều khó khăn thực sự.
12) Diệt trừ ngã mạn là khó: ngã mạn là một phiền não căn bản, ai ai cũng có phiền não ngã mạn này. Theo kinh A hàm, thì bậc Thánh A La Hán mới đoạn trừ dứt ngã mạn, có nguồn gốc là chấp ngã; biến tướng của nó rất phức tạp. Duy thức học chia ra 7 hình thức mạn:
- Mạn: mình bằng người hay hơn người, sinh lòng kiêu căng, khoái thích về sự bằng hơn đó.
- Quá mạn: mình bằng người cho là hơn, mình thua cho là bằng người.
- Mạn quá mạn: tranh phần hơn người, người ta hơn mình mà mình cho là mình hơn.
- Ngã mạn: ỷ vào mình, khinh chê người khác tự cao tự đại.
- Tăng thượng mạn: chưa được nói đã được, như mình chưa chứng Thánh quả nói rằng mình đã chứng Thánh quả.
- Ty liệt mạn: có đôi chút tài năng khoe khoang khoác lác là nhiều tài năng.
- Tà mạn: kiêu mạn vớ vẩn không có căn cứ, như mình chẳng có đủ đức hạnh mà xưng là có đức hạnh, coi thường Thánh hiền, khinh chê kinh sách...
Người có nhiều ngã mạn, giàu lòng tự ái, luôn làm khổ cho mình và người khác. Ý niệm về cái tôi quá lớn, cản trở con đường Thánh đạo, cuộc đời trở nên nặng nề, có những biểu hiện rõ rệt về mạn, và cũng có những biểu hiện vi tế rất khó diệt trừ. Cho nên, kinh nói là A La Hán mới đoạn trừ được hoàn toàn ngã mạn. Tục ngữ Ấn Độ nói: "Tỏ ra mình hơn người khác chưa phải là hay, cái chân giá trị là có thể nhận ra rằng: "Hôm nay mình đã hơn chính mình ngày hôm qua". Vậy nên gọi diệt trừ ngã mạn là khó.
13) Không coi thường người chưa học là khó: cái bệnh của người có học là coi thường người chưa học hay người ít học. Có học là có tri thức, có địa vị trong xã hội, hay ít nhất cũng được mọi người kính nể, nên thông thường người có học thì có tâm cao ngạo là lẽ thường. Tuy nhiên nếu không nhận ra sai lầm của mình, khinh khi kẻ chưa học thì tai hại lớn lao vô cùng. Một là chấp thủ vào tri thức học vấn của mình, cho đó là cao rồi, thỏa mãn rồi thì tức khắc kiến thức của mình sẽ dừng lại, vì không có tâm cầu học tiếp tục. "Sự học như thuyền chèo ngược nước, không tiến ắt sẽ lùi". Hai là mình không tiếp nhận được những cái hay, những cái đẹp, cái mới ; những điều hay đó ở chung quanh ta, chỉ cần ta tỉnh táo, mở rộng lòng thì sẽ tiếp nhận được. Người xưa thường nói: "Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư", 3 người cùng đi, chắc hẳn có người là Thầy mình, nghĩa là có cái hay cho mình học. Sự học là vô tận, học hoài vẫn chưa thấy đủ, càng học càng thấy mình dốt, có như vậy mới cầu tiến được. Nhưng do bản ngã luôn cho mình là trung tâm vũ trụ, ta đúng mọi người sai, đưa đến tâm lý coi thường người chưa học. Cái khó là ở chỗ đó.
14) Thực hành tâm bình đẳng là khó: tâm bình đẳng là tâm không thiên vị trong đối xử, coi trọng người này, coi khinh kẻ kia, thương người này hơn người kia... Người thân của ta, ta thương hơn, dành ưu tiên cho họ hơn. Người không thân với ta, ta không có gì phải thương, đối xử bình thường. Người thù của ta, ta phải cảnh giác đề phòng, nếu được thì cho nó "một bài học"... Đó là lẽ thường tình của đời sống con người. Người thực hành tâm bình đẳng là người có trí tuệ, thấy được cái tánh bình đẳng của mọi người như: "Ai ai cũng có Phật tánh, ai ai cũng có khả năng thành Phật", cũng thấy cái tướng bình đẳng của mọi người là: "Ai ai cũng có đau khổ, cũng mang nặng nỗi sầu bi" (Cuộc đời là khổ mà !).
Người thực hành tâm bình đẳng phải thấy tự tánh của vạn pháp là vô ngã, an trú tam giãi thoát môn Không, Vô tướng, Vô tác, cho nên tự tại trên con đường cứu độ chúng sinh. Tâm không bình đẳng thì khóù mà cứu độ được chúng sinh nào ; ngược lại, họ bị chúng sinh lôi kéo phân thây ra trăm ngàn mảnh và đau khổ vô cùng. Thấy có chúng sinh để hóa độ thì họ chỉ độ một mình họ còn chưa xong.
Về mặt xã hội, nếu ở địa vị cao, chức quyền lớn mà không bình đẳng thì họ sẽ thất bại chua cay. Trong phạm vi gia đình, bạn bè mà không bình đẳng thì gia đình xáo trộn, bạn bè phản bội. Nhưng, mấy ai thấy rõ điều này, lúc nào cũng bị cái ta, cái của ta, cái đẹp, cái xấu ... chi phối làm cho tâm trí mê mờ, không thấy được chân lý. Thật khó vô cùng.
15) Không nói chuyện phải trái là khó: bao nhiêu điều xảy ra xung quanh ta, chuyện này phải, người này hay, chuyện kia sai, người nọ dở... cuộc đời rối ren như cuộn chỉ.
Người hay quan tâm đến chuyện người khác, tìm cho được cái hay cái dở của người, họ chẳng được lợi ích gì. Phải là gì? Trái là thế nào? Tề vật luận của Trang tử chép: "Người ta ở dưới bùn thì đau ốm, cá trạch có vậy không?... Cho nên, phải cũng là một lẽ vô cùng, quấy cũng là một lẽ vô cùng. Vậy thì phải quấy không thể tranh biện được. Ta với người tranh luận có sự thắng bại sao? Ta cùng người có người phải, có người quấy, hay là cả hai cùng phải, cả hai cùng quấy? Ta với người không hiểu biết được nhau thì người ngoài cuộc làm sao biết được? Ta mượn ai làm chứng việc này? Mượn người cùng đồng với ta làm sao chứng được, mượn người cùng đồng với người làm sao chứng được? Mượn người khác người với ta, đã khác làm sao chứng được? Vậy ta với người là người ngoại cuộc đều không biết nhau làm sao phân định phải trái?".
Chấp thủ phải trái, luôn nói chuyện phải trái làm cho mình bị đóng khung trong lồng kính ngột ngạt và làm cho cuộc đời thêm rối. Không nói chuyện phải trái là điều khó.
16) Gặp được Thiện tri thức là khó: trong Cảnh sách, ngài Quy Sơn có dạy: "Sinh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu". Nghĩa là sinh ta ra là cha mẹ, tác thành ta là bạn bè. Con người nên hay hư, phần lớn do bạn bè. Thiện tri thức là bạn lành, bạn tốt, những người bạn giúp đỡ ta làm điều lành tránh điều dữ, chỉ cho ta con đường đạo đức và hạnh phúc. Có những người bạn như vậy, cuộc đời ta sẽ ổn định, tương lai sẽ rạng rỡ. Không may gặp phải bạn bè xấu thì gọi là ác tri thức. Phần nhiều bạn bè đến với ta thường muốn thuận theo lòng ta, chiều chuộng ta khi ta ước muốn những thú vui thấp kém; hoặc họ thường xúi giục khích lệ ta vào con đường thấp kém đó. Nếu ta là người giàu có, đủ phương tiện để thực hiện cái thú vui đó thì bạn bè càng đông càng chí thiết, cuộc đời ta lún sâu vào tội lỗi mà không hay. Người bạn Thiện tri thức thì ngược lại, họ mong cho ta được hạnh phúc và giúp ta thành công ở đời.
Người Thiện tri thức còn có nghĩa là vị thầy dẫn dắt ta trên con đường giác ngộ. Gặp được minh sư thì con đường ta đi mới sáng sủa, mục đích dễ thành đạt. Gặp người dẫn dắt ta là người mù thì chắc chắn là đi con đường tối tăm nguy hiểm. Ở đời, thầy hay bạn tốt dễ gì gặp, và gặp làm sao phân biệt được. Một hôm, vua Pasenadi hỏi Đức Phật khi thấy 7 vị du sĩ đi ngang qua, rằng trong 7 vị đó, ai là người đã đắc đạo. Đức Phật dạy: "Phải thân cận lâu ngày với 1 người, sống với người ấy trong những hoàn cảnh khó khăn, nghe người ấy đàm luận, ta mới thấy được trí tuệ, đức hạnh và sự chứng đắc của người ấy". Vì vậy, chúng ta phải sáng suốt chọn thầy lành bạn tốt thì công trình tu tập của ta mới thành tựu được, cuộc đời tu hành mới vững chắc.
17) Kiến tánh học Đạo là khó: người học Đạo thường giữ gìn hình thức, chiếc áo hoặc thời khóa kinh kệ hoặc học tập kinh điển, hoặc tu tập niệm Phật, ngồi thiền ... Gọi chung là học đạo, mục đích là đạt được cứu cánh của Đạo. Nhưng chỉ câu nệ vào hình thức, chú trọng thời khóa, nghi thức thì khó mà đắc Đạo. Mục đích không đạt thì chỉ mệt công phí sức mà thôi. Như đã giải thích ở phần chú thích, kiến tánh là từ ngữ của Thiền, bắt nguồn từ Bồ Đề Đạt Ma. Ám chỉ cho trí tuệ soi thấu bản chất của sự vật, là không sinh, không diệt, không sạch, không dơ, không thiện, không ác, vượt ra ngoài mọi đối đãi, mọi hình thức. Khi tâm đã thể nghiệm thực tánh của vạn pháp thì vạn pháp tự thông, mọi tướng trạng đều rõ ràng không cần phải cố công vất vả nữa. Kiến tánh mà học đạo thì đạo đó là đạo cao tột. Cao tột mà như thấp vì ở đâu cũng là đạo, tâm đạo, vật đạo. Học đạo như vậy là khó.
18) Tùy duyên hóa độ người là khó: tùy theo điều kiện nhân duyên, căn cơ trình độ của mỗi người mà giúp đỡ để họ cải hóa tự tâm, thực hành đạo lý giác ngộ. Điều này không phải dễ, thường thì bản thân của vị thầy được giáo dục ở chừng mực nhất định, Kiến giải hạn chế, hoặc có thành kiến, thói quen nếp nghĩ của mình, bị chấp thủ hay dính mắc vào đó, yên trí rằng những kiến thức hiện có là chân lý, nên áp đặt lên quan điểm và trình độ của kẻ khác, trở thành không phù hợp, quên đi mục đích chính là độ người chứ không phải phổ biến quan niệm hay truyền đạt lối tu của mình. Có đủ trí tuệ và khả năng để tùy duyên là rất khó. Bồ Tát Quan Thế Âm có 32 tướng hóa thân để độ chúng sinh, có thể hóa độ cho mọi chúng sinh, sử dụng Tứ nhiếp pháp: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự làm phương tiện hướng chúng sinh vào nghiệp thiện.
Tùy duyên mà không bị duyên làm thay đổi bản chất và chí nguyện của mình, thường gọi là tùy duyên bất biến. Có người nội lực non kém tùy duyên để rồi bị duyên trần lôi cuốn đánh mất bản thân của mình, không trở lại được. Cho nên, tùy duyên hóa độ là khó.
19) Thấy cảnh không động tâm là khó: Hư Vân Thiền Sư nói: "Kiến vật tiện kiến tâm, vô vật tâm bất hiện" nghĩa là thấy vật liền thấy tâm, không có vật thì tâm không xuất hiện Điều này xác định tâm và vật là một. Cảnh bên ngoài và tâm nhận thức bên trong là một, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Do đó, đừng nghĩ rằng khi gặp cảnh đừng khởi tâm thấy cảnh, vì nghĩa của động tâm là khởi tâm phân biệt tâm – vật chủ thể – đối tượng để rồi tham ái chấp thủ đối tượng và bị nô lệ trói buộc bởi chúng. Ngài Huệ Năng khi đến chùa Pháp Tánh, lúc ấy Ấn Tôn Pháp Sư giảng Kinh Niết Bàn, có 2 vị Tăng đang bàn với nhau về sự lay động của cái phướn. Một người nói gió động, một người nói phướn động; không ai chịu nhường ai. Huệ Năng nói: "Không phải gió động, cũng không phải phướn động mà do tâm các ngài động".
Kinh căn tu tập ở Trung Bộ Kinh, Bà la môn Pàsàriya chủ trương tu tập các giác quan rằng, muốn cho các giác quan được tu tập thanh tịnh thì mắt không nên thấy sắc, tai không nên nghe tiếng... Đức Phật cho rằng như vậy thì người mù, người điếc lại đắc Đạo hay sao? Chủ trương của Phật về tu tập giác quan là: "Mắt thấy sắc đẹp dễ thương hay không đẹp không dễ thương, người ấy biết rõ điều ấy. Biết rõ đối tượng ấy là vô thường biến hoại, không thật nên người ấy xả bỏ mau chóng tâm lý chấp thủ đẹp, xấu, dễ thương hay không dễ thương". Thấy cảnh mà không động tâm là như vậy.
20) Khéo biết phương tiện là khó: phương tiện là phương cách tốt đẹp để thực hiện mục đích. Phương tiện là tương đối. Cứu cánh là tuyệt đối. Như vậy, biết phương tiện có hai mặt: một là biết phương tiện để sử dụng cho bản thân của mình, hai là biết phương tiện để hóa độ cho mọi người. Cứu cánh chỉ có một, phuơng tiện thì có nhiều (phương tiện hữu đa môn). Như người phương Tây thường nói: "Con đường nào cũng về La Mã". Nhưng biết chọn con đường dễ đi mau đến, đòi hỏi phải có trí tuệ cao. Đối với bản thân, thái độ chủ quan, thành kiến, tự mãn thì rất khó mà có trí tuệ, có điều kiện đủ để tìm cho mình một con đường sáng suốt chỉ tìm kiếm theo những dấu mòn xưa cũ. Đối với tha nhân không thấy được nhu cầu của con người, của thời đại. Nhìn tha nhân qua lăng kính của bản thân mình nên luôn áp đặt quan điểm, nhận thức của mình lên tâm tư của thiên hạ, làm sao có thể thành công được. Phương tiện thì nhiều, nhưng nhận ra được phương tiện nào có thể sử dụng được cho mình và cho tha nhân rất là khó. Phải cần có nhãn quan toàn diện và khách quan thấy được quá trình vận động của cá nhân hay xã hội thì mới tìm ra được phương tiện phù hợp.
Giữa tùy duyên và phương tiện có khác nhau ở chỗ là tùy duyên là thuận theo hoàn cảnh mà chuyển hóa mê thành ngộ, xấu thành tốt. Phương tiện là phương pháp để đạt được cứu cánh của sự giác ngộ chân lý.
Tùy duyên mà bất biến. Phương tiện mà không rời mục đích. Có người cứ vận dụng phương tiện, nhưng không biết rằng phương tiện là tương đối, không phải là biện pháp muôn đời. Nó có tính cách giai đoạn. Vận dụng phương tiện mà quên mục đích thì phương tiện ấy không thể gọi là phương tiện đúng nghĩa.
IV. Nhận Xét Và Kết Luận
1) Chương 12 nói về 20 điều khó được, khó làm. Những điều khó này có lẽ đúc kết qua lời dạy của Đức Phật trong kinh tạng, chưa hẳn là lời Phật dạy trong một kinh. Xét các điều khó xuyên suốt tư tưởng nguyên thủy cho đến Đại thừa, có tư tưởng thiền tông. Ta có thể xác định rằng những điều khó này được tập hợp từ các kinh và kinh nghiệm của những Tổ sư.
2) 20 điều khó được sắp xếp thứ tự từ thấp cho đến cao, từ quan điểm Nguyên thuỷ cho đến Đại thừa (theo quan điểm của tác giả).
3) Nói lên 20 điều khó là nói đến hướng đi của một người tu tập, cần phải vươn tới và vượt qua. Hai mươi điều khó này cũng là phương thức xử thế, là nguyên tắc đạo đức, người tu tập có thể lấy đó soi mình, như những cách ngôn mà ta thường gặp.
Chương 13
I. Chánh Văn
Có vị Sa môn hỏi Phật: "Bởi lý do gì mà biết được đời trước? Mà hội nhập được Đạo chí thượng?".
Đức Phật dạy: "Tâm thanh tịnh, chí vững bền thì hội nhập Đạo chí thượng, như lau kính hết dơ thì trong sáng hiển lộ.(cũng vậy) đoạn tận ái dục, tâm không mong cầu thì sẽ biết được đời trước".
II. Đại Ý
Đức Phật dạy con đường tu tập để biết được đời trước và đạt đến chỗ chí thượng của Đạo.
III. Giảng Nghĩa
Chương này Đức Phật dạy 2 vấn đề:
- Cách tu tập để có khả năng biết được đời sống trong quá khứ, cách ấy là đoạn trừ tham dục, không có mong cầu.
- Cách tu tập để đạt được chỗ chí thượng của Đạo là thanh tịnh tâm tư và giữ vững ý chí.
Đối với vấn đề thứ nhất, đoạn dục và không mong cầu có nghĩa là đoạn trừ tham dục vị kỷ, những dục lạc tiêu biểu như sắc, thanh, hương, vị, xúc ; Không mong cầu là không cầu được các đối tượng tế nhị hơn, như cầu thần thông, quyền lực tâm linh hay đắc đạo. Mong cầu là biểu tượng của lòng tham dục, có tác dụng là làm khuấy động tâm trí, bất an nội tâm, không thể nào có khả năng biết được đời trước, giống như ly nước bị khuấy động không thể nào trong được. Ly nước phải lắng đọng mới trong, tâm trí phải yên lặng mới "trong" và có thể thấy được tiền kiếp. Túc mạng chính là túc mạng minh, 1 trong 3 minh mà 1 bậc giác ngộ chứng được. Ngoại đạo và bậc hữu học vẫn chứng được Túc mạng minh hay là Túc mạng thông, nhưng khả năng hiểu biết còn hạn chế. Như đã biết ở phần tổng khởi, đoạn dục hay ly dục mới có sự sáng và thấy được đời trước. Vô cầu vi tế hơn đoạn dục, nhưng cùng một gốc với vô dục và tác dụng cũng như nhau. Con người hữu cầu là con người sống cho tương lai, luôn hướng vọng về tương lai, đánh mất hiện tại. Tương lai thì chưa tới, do đó không sống thực được. Chân lý không nằm ở tương lai, mà ngay bây giờ và ở đây. Có triết gia nói: "Chúng ta chỉ chuẩn bị sống chứ không sống" là ý này vậy.
Vấn đề thứ hai, đến chỗ chí thượng của Đạo, Chánh Văn chữ Hán là chí đạo, ở đây muốn nói là thành Phật. Muốn thành tựu được quả vị Phật Đà thì phải làm cho tâm thanh tịnh và giữ vững ý chí. Làm cho tâm được thanh tịnh tức là đoạn dục. Tâm thanh tịnh là nhờ ly dục, ly bất thiện pháp, nhờ tu tập an trú các trạng thái thiền định, lắng đọng bụi trần làm cho tâm trở nên trong sạch, trí tuệ hiển lộ. Con đường tu tập này đã được khái quát trong bài kệ: "
Giữ vững ý chí, ở chương 9 đã nói rõ vấn đề: "Người hành đạo phải giữ ý chí thì Đạo rất lớn". Có ý chí mới giữ được tiến trình tu tập của mình. Tâm thanh tịnh mà không có ý chí, sự thanh tịnh đó không bền và không đi đến tận cùng của sự thanh tịnh, sẽ là "Đầu voi đuôi chuột". Cho nên muốn thành tựu Phật Đạo phải có ý chí lớn. Điều đó cũng cho biết rằng trong ý chí có chứa sẵn cái trí tuệ. Ý chí và trí tuệ có liên quan mật thiết với nhau. Do có trí tuệ mà các lậu hoặc được đoạn trừ, đạt đến chỗ chí thượng của Đạo, cũng gọi là Lậu tận minh, mà ở thí dụ của chương nói là "Lau kính hết dơ thì trong sáng hiển lộ".
III. Nhận Xét Và Kết Luận
1) Chương này bắt đầu bằng sự thắc mắc của một vị Sa môn về 2 vấn đề: làm sao để đạt được Túc mạng minh và làm sao để đạt được Đạo.
2) Đức Phật dạy con đường để được Túc mạng minh là đoạn trừ tham dục, lòng không mong cầu. Con đường để đắc Đạo là thanh tịnh tâm thức và giữ vững ý chí.
3) Qua nội dung trên, vị Sa môn đã thắc mắc về con đường tu tập để đạt được quả vị tối thượng (bao gồm tam minh), Đức Phật đã chỉ cho con đường để thành tựu quả vị tối thượng ấy là con đường giới, định, tuệ.