- Lời giới thiệu
- 1. Đại sư thứ nhất: Luipa - Nhà sư Du-già ăn lòng cá thối
- 2. Đại sư thứ 2: Lilapa - Đức vua ẩn sĩ
- 3. Đại sư thứ 3: Virupa - Chân sư của các thiên nữ
- 4. Đại sư thứ 4: Dombipa - Người cưỡi cọp
- 5. Đại sư thứ 5: Savaripa - Người thợ săn
- 6. Đại sư thứ 6: Saraha - Đại Bà-la-môn
- 7. Đại sư thứ 7: Kankaripa - Kẻ góa vợ
- 8. Đại sư thứ 8: Minapa - Con người xui xẻo
- 9. Đại sư thứ 9: Goraksa - Kẻ chăn bò bất tử
- 10. Đại sư thứ 10: Caurangipa - Trẻ lạc loài
- 11. Đại sư thứ 11: Vinapa - Nhạc sĩ
- 12. Đại sư thứ 12: Santipa - Nhà truyền giáo
- 13. Đại sư thứ 13: Tantipa - Người thợ dệt già
- 14. Đại sư thứ 14: Camaripa - Người thợ sửa giày
- 15. Đại sư thứ 15: Khadgapa - Tên trộm vô uý
- 16. Đại sư thứ 16: Nagarjuna - Hiền triết và nhà luyện kim
- 17. Đại sư thứ 17: Kanhapa - Vị đạo sư trong màn đêm
- 18. Đại sư thứ 18: Aryadeva - Độc nhãn đại sư
- 19. Đại sư thứ 19: Thaganapa - Kẻ dối trá
- 20. Đại sư thứ 20: Naropa - Con người bất khuất
- 21. Đại sư thứ 21: Syalipa - Linh cẩu đại sư
- 22. Đại sư thứ 22: Tilopa - Kẻ xuất thế
- 23. Đại sư thứ 23: Catrapa - Hành khất gặp may
- 24. Đại sư thứ 24: Bhadrapa - Kẻ độc nhất vô nhị
- 25. Đại sư thứ 25: Dukhandhi - Phu quét đường
- 26. Đại sư thứ 26: Ajogi - Người bị ruồng rẫy
- 27. Đại sư thứ 27: Kalapa - Người điên phong nhã
- 28. Đại sư thứ 28: Dhobipa - Người thợ giặt
- 29. Đại sư thứ 29: Kankana - Nhà vua tu sĩ
- 30. Đại sư thứ 30: Kambala - Kẻ lắm lời
- 31. Đại sư thứ 31: Dengipa - Nô lệ chốn lầu xanh
- 32. Đại sư thứ 32: Bhandepa - Vị thần ghen tị
- 33. Đại sư thứ 33: Tantepa – Kẻ đánh bạc
- 34. Đại sư thứ 34: Kukkuripa - Người yêu chó
- 35. Đại sư thứ 35: Kucipa - Người bị bướu cổ
- 36. Đại sư thứ 36: Dharmapa - Kẻ không ngừng học hỏi
- 37. Đại sư thứ 37: Mahipa - Con người vĩ đại
- 38. Đại sư thứ 38: Acinta - Ẩn sĩ tham lam
- 39. Đại sư thứ 39: Babhaha - Kẻ khao khát tự do
- 40. Đại sư thứ 40: Nalinapa - Kẻ tự lực cánh sinh
- 41. Đại sư thứ 41: Bhusuku - Thầy tu giải đãi
- 42. Đại sư thứ 42: Indrabhuti - Ông hoàng giác ngộ
- 43. Đại sư thứ 43: Mekopa – Người có tia nhìn dữ dội
- 44. Đại sư thứ 44: Kotalipa – Người bán rong
- 45. Đại sư thứ 45: Kamparipa – Người thợ rèn
- 46. Đại sư thứ 46: Jalandhara - Người được chọn
- 47. Đại sư thứ 47: Rahula - Con người lẩn thẩn
- 48. Đại sư thứ 48: Dharmapa - Học giả uyên bác
- 49. Đại sư thứ 49: Dhokaripa - Người mang bình bát
- 50. Đại sư thứ 50: Medhini - Người nông dân mệt mỏi
- 51. Đại sư thứ 51: Pankajapa - Bà-la-môn thác sanh từ hoa sen
- 52. Đại sư thứ 52: Ghantapa - Người rung chuông
- 53. Đại sư thứ 53: Jogipa - Kẻ hành hương
- 54. Đại sư thứ 54: Celukapa - Kẻ biếng nhác
- 55. Đại sư thứ 55: Godhuripa - Người bẫy chim
- 56. Đại sư thứ 56: Lucikapa - Kẻ đào tẩu
- 57. Đại sư thứ 57: Nirgunapa - Trẻ thơ giác ngộ
- 58. Đại sư thứ 58: Jayanada – Vị điểu sư
- 59. Đại sư thứ 59: Pacaripa – Người bán bánh
- 60. Đại sư thứ 60: Campaka - Đức vua yêu hoa
- 61. Đại sư thứ 61: Bhiksanapa - Lưỡng xỉ đạo nhân
- 62. Đại sư thứ 62: Dhilipa - Con người hưởng lạc
- 63. Đại sư thứ 63: Kumbharipa – Người thợ gốm
- 64. Đại sư thứ 64: Carbaripa – Người chết sửng
- 65. Đại sư thứ 65: Manibhad - Bà nội trợ hạnh phúc
- 66. Đại sư thứ 66: Mekhala - Người chị dâng thủ cấp
- 67. Đại sư thứ 67: Kanakhala – Người em dâng thủ cấp
- 68. Đại sư thứ 68: Kilakilapa - Kẻ rộng mồm
- 69. Đại sư thứ 69: Kantalipa - Thợ khâu giẻ vụn
- 70. Đại sư thứ 70 : Dhahulipa – Người bện dây thừng
- 71. Đại sư thứ 71: Udhilipa - Người muốn hóa chim
- 72. Đại sư thứ 72: Kapalapa - Người mang bình bát đầu lâu
- 73. Đại sư thứ 73: Kirapalapa - Kẻ chinh phục
- 74. Đại sư thứ 74: Sakara – Người sinh từ hoa sen
- 75. Đại sư thứ 75: Sarvabhaksa - Kẻ háu ăn
- 76. Đại sư thứ 76: Nagabodhi - Kẻ trộm
- 77. Đại sư thứ 77: Darikapa - Ông vua nô lệ
- 78. Đại sư thứ 78: Putalipa - Kẻ mang ảnh tượng
- 79. Đại sư thứ 79: Upanaha - Thợ đóng giày
- 80. Đại sư thứ 80: Kokilipa - Kẻ sành điệu
- 81. Đại sư thứ 81: Anangapa - Kẻ ngớ ngẩn
- 82. Đại sư thứ 82: Laksminkara - Nàng công chúa điên loạn
- 83. Đại sư thứ 83: Samudra - Thợ mò ngọc trai
- 84. Đại sư thứ 84: Vyalipa - Nhà luyện kim thuật
Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
ĐẠI SƯ THỨ 10
CAURANGIPA, Trẻ lạc loài
Từ thuở hoang sơ khi chưa có sự bắt đầu
Những cái rễ của cái cây vô danh
Được vun tưới Bằng những cơn mưa
Của thói quen vọng tưởng
Chúng lớn mạnh thành những nhánh vô minh
Hôm nay ta đốn cây vô minh ấy
Bằng chiếc rìu Giáo pháp của Chân sư
Bạn ơi! Hãy nghĩ suy, cân nhắc mà tu tập.
Sư Caurangipa nguyên là Hoàng tử, con Vua Devapala. Khi ngài mới lên 12 thì Hoàng Hậu mất vì một chứng bệnh nan y. Trước khi nhắm mắt lìa đời, bà gọi ngài đến để trối trăn:
-Này con! Tất cả niềm vui hay nỗi buồn đều có căn nguyên. Mỗi mỗi đều lưu xuất từ nghiệp thiện, ác. Con hãy nhớ lời mẹ dạy. Cho dù phải gặp nguy nan,con chớ có làm điều xấu, ác.
Nói xong bà trút hơi thở cuối cùng.
Sau lể an táng của Hoàng Hậu, triều đình thúc dục Vua lập Hoàng hậu khác theo tục lệ Bà-la-môn. Nhà Vua vẫn còn thương tiếc người vợ yêu nên ít hôm sau ngày tái giá, nhà vua đi vào rừng sâu để xua đuổi nỗi buồn thầm kín.
Một ngày sau khi nhà vua rời cung thành, bà Hoàng hậu mới đăng quang trèo lên mái cung điện để ngắm cảnh. Trong tầm mắt bà hiện ra hình bóng của một thanh niên khôi ngô tuấn tú.Đó là hoàng tử Caurangipa. Bà Hoàng lập tức say mê hình ảnh của người con chồng. Bà lệnh cho Hoàng tử vào hầu nhưng ngài từ chối. Điều này khiến bà tức giận điên cuồng bèn nhĩ đến chuyện trả thù: ”Hắn khinh thường ta.Hắn là kẻ thù của ta. Ta cần phải loại trừ hắn”.
Bà ra lệnh cho lính canh ám sát Hoàng tử. Họ không đồng tình với bà:
-Tâu lệnh bà! Hoàng tử không đáng tội chết.Ngài vô tư như con trẻ. Chúng tôi không thể ra tay sát hại con trẻ.
Vì vậy, bà hoàng nghĩ ra một mưu kế.Cho đến một hôm vào cái ngày nhàVua trở lại cung điện, ngài bắt gặp vợ mình trần truồng, áo quần tơi tả và thân thể đầy những vết cào xước. Vua kêu lên:
-Chuyện gì đã xảy ra với nàng?
Hoàng Hậu khóc lóc:
-Hoàng tử đã lợi dụng lúc Đại vương đi vắng để làm nhục thiếp.
Nghe qua, Vua thịnh nộ:
-Nếu vậy, nó phải chết để đền tội.
Nhà vua ra lệnh cho thị vệ mang Hoàng tử vào rừng chặt bỏ tay chân để trừng phạt.Nhưng người lính vốn kính trọng và thương yêu Hoàng tử như con đẻ bèn nghĩ cách cứu chàng.Họ quyết định hy sinh một trong những đứa con của họ.Nhưng khi họ đề nghị cách này với Hoàng tử thì ngài quyết liệt từ chối:
-Không thể như thế được. Ta đã hưá với mẫu hậu dù nguy biến đến đâu ta cũng không làm điều xấu, ác. Các ngươi phải thi hành mệnh lệnh của phụ Vương.
Thấy chàng quá cương quyết, họ bèn mang chàng vào rừng chặt bỏ tay chân đem về trình Vua.Ngay lúc ấy, sư Minapa xuất hiện hỏi han. Hoàng tử đem nỗi oan tình kể cho sư nghe. Ngài thương xót chàng nên đem pháp thuật truyền cho phương pháp thở bụng (Pot-bellid breathing).
Sư nói
-Nếu con cố gắng tu luyện, không bao lâu tay, chân của con sẽ trở lại đầy đủ.
Kế đó, Sư tìm đến chổ bọn trẻ chăn trâu nhờ chúng chăm sóc Hoàng tử (một trong bọn trẻ ấy là sư Goraksa trong truyện trước).
Y theo pháp, Hoàng tử theo tập thiền định suốt 12 năm.
Vào một đêm tối, đám thương nhân đi gần đến chỗ Hoàng tử trú ngụ. Để tránh sự dòm ngó của kẻ cướp, họ đem vàng bạc châu báu chôn dấu trong rừng rồi mới ngủ nghỉ. Tình cờ họ ngang qua chỗ của Hoàng tử, chàng nghe tiếng chân đi bèn lên tiếng hỏi:
-Ai đó vậy?
Bọn thương nhân nghe tiếng kêu lớn, ngại rằng gặp phải kẻ cướp, bèn đồng thanh trả lời:
-Vâng! Chúng tôi là dân làm than,đốn củi.
-Than à! Hoàng tử nói.
Bọn thương nhân quay lại chỗ nghỉ của họ, nhưng khi đào lấy của cải cất dấu dưới đất thì thấy tất cả chỉ là than và than. Cả bọn kinh sợ, hỏi nhau:
-Cớ sao lại thế này?
Một người có vẻ thông thái nhất trong bọn đoán rằng:
-Khi nãy có người kêu hỏi bọn ta. Chắc chắn đó là một bậc thánh, nên mỗi lời nói ra đều có khả năng biến thành hiện thực. Tốt nhất, chúng ta nên đến chỗ ấy xem thử.
Họ dọ dẫm từng bước chân trong đêm tối dưới ngọn đuốc bập bùng để đến chổ Hoàng tử. Khi đến nơi,họ nhìn thấy một thân người không có tay, chân đang tựa vào một góc cây to. Bọn họ kể cho Hoàng tử nghe chuyện lạvà khẩn cầu ngài thu lại pháp thuật.
Caurangipa bảo với họ:
- Ta thực tình không biết điều ấy. Nếu quả thực như thế xin than trở lại thành vàng bạc như cũ.
Bọn thương nhân quay về lại thấy vàng bạc như cũ, họ vui mừng nhảy nhót. Sau đó cả bọn quay lại cúng dường cho Caurangipa và tôn thờ ngài như một bậc thánh.
Qua sự kiện này, Caurangipa nhớ lại lời thầy. Ngài chú nguyện cho tay chân lành lại như cũ. Lập tức điều lạ xảy ra.
Và buổi sáng hôm sau, Goraksa chứng kiến sự bình phục của ngài.
Sau khi đắc pháp, sư nói:
-Nếu đất là mẹ của muôn loài thảo mộc, thì hư không là chất làm nên tứ chi của ta.
Đoạn ngài bay lượn giữa hư không.
Tương truyền rằng Đại sư Caurangipa là một nhà sư khó tính và không hề truyền pháp cho ai, nhưng người ta nói rằng cây đại thọ chứng kiến sự tu hành giác ngộ của ngài vẫn còn sống đến hôm nay.
CHÚ GIẢI:
Hư vô và vũ trụ là hai-trong-một.đó là một khía cạnh của Pháp thân (Dharmakaya).một thuật ngữ để chỉ Vô-phân-biệt-trí.Dharmakaya còn là một sự hợp nhất giữa vũ trụ và ánh sáng tâm linh.
Bằng pháp thở bụng, Caurangipa đột nhiên nếm được vị chung của các pháp. Đó là không-giải-thoát.Ngài đã thể nhập vào cảnh giới Hư-vô-không-tịch bằng chính pháp-thân-thanh-tịnh (Apure appritional body).
Một đạo sư Mật tông có khả năng biến hoá hình tướng của đối tượng mà ngài thâm nhập. Phép tu căn bản ấy củaCaurangipa là quán một thân người với đầy đủ tứ chi, cái thân biến hoá của Caurangipa chính là pháp thân. Thân ấy không thể hư hoại được vì đólà tướng của trí huệ và thanh tịnh thức. Tướng này (Pháp thân) bất khả phân ly với các tướng từ tâm của hành giả. Sắc thân ấy được hình thành bằng ý tâm hay Niệm Tưởng (mental concept).
Cảnh giới bên ngoài chỉ là ảnh chiếu của tâm. Hư không dung chứa tất cả các pháp,vì vậy một khi tâm tương ứng với hư không thì các pháp chịu sự chia phối của tâm hành giả.
Âm thanh và Độ rung là phần chung của Tưởng và sắc (The plane of sound and vibration is the interface between thought and Appearances). Vì vậy, chơn ngôn là âm thanh vi diệu rốt ráo tạo nên cái không gian ba chiều. Một hành giả Du-già chứng đắc không thể nói dối,vì ngay một niệm mống khởi trong tâm của ngài đều tự nhiên biến thành hiện thực.
Nói rõ hơn,thế giới này được tạo nên bởi vọng tưởng của tất cả chúng sanh,mà trí lực cuả một hành giả tu chứng chỉ có khả năng biến đổi một phần trong tổng thể vọng tưởng ấy. Vì lý do đó mà chư Phật, Bồ Tát phát nguyện cứu độ tất cả chúng sanh.