Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

30. Đại sư thứ 30: Kambala - Kẻ lắm lời

05/03/201115:52(Xem: 5635)
30. Đại sư thứ 30: Kambala - Kẻ lắm lời

CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Đại sư thứ 30: Kambala - Kẻ lắm lời

Trong cái sâu rộng của đại dương
Ẩn chứa một kho tàng

Đó là niềm vui,

sự thịnh vượng của các Long vương

Từ khởi thủy

Tất cả ánh sáng và âm thanh

Tự nó là pháp giới

Lành thay! Bậc thánh đã thấy rõ điều này


Truyền thuyết


Quốc vương xứ Kankaramahạ sinh được hai hoàng tử. Khi quốc vương băng hà, triều đình đưa hoàng tử cả lên ngôi.


Vị Hoàng tử này vốn là một con người đức hạnh và thao lược, nên kể từ khi ngài lên ngôi, đất nước luôn sống trong cảnh thái bình, và dân chúng trở nên giàu có sung túc. Họ giàu đến nỗi chỉ dùng toàn chén vàng đĩa bạc trong các bữa ăn.


Tuy nhiên trong suốt năm trị vì đầu tiên, vua không gặp được hoàng thái hậu, vì bà trong thời gian chịu tang. Đến năm sau, hoàng thái hậu mới vào triều, gặp mặt nhà vua.


Nhà vua trẻ thấy mẫu thân khóc lóc có vẻ không vui, bèn hỏi: “Cớ sao mẫu hậu lại khóc?”


“Ta khóc vì thấy con ở trên ngai vàng lúc nào cũng bận bịu việc triều chính.”


“Tâu mẫu hậu! Con hiểu. Con sẽ thoái vị, nhường ngôi lại cho em con và con sẽ xuất gia theo Phật.”


Theo lời hứa, nhà vua trẻ để lại ngai vàng cho em, rồi cùng 300 tùy tùng đến tu tập ở một tu viện.


Nhưng chẳng bao lâu mẹ ngài lại xuất hiện trước mặt, bà lại khóc lóc. Ngài chào hoàng thái hậu và hỏi duyên cớ.


Bà nói: “Ta khóc vì hiện nay con đã là một nhà sư mà vẫn còn kẻ hầu người hạ như một ông vua. Hãy từ bỏ tu viện này và một mình đi ẩn cư nơi rừng sâu để tu tập.”


Vua nghe lời đi vào rừng già tu tập, nhưng do phước báo đời trước dân làng thường đến cúng dường ngài vô số vật thực.


Mẹ ngài lại xuất hiện khóc lóc, và nói: “Một bậc thánh tăng thì cần gì những thứ ấy?”


Nghe mẹ mắng, nhà vua cởi bỏ những trang phục tốt, bình bát bằng bạc và những thứ quí giá khác để chọn lối tu khổ hạnh.


Ngài lang thang đây đó, từ thành phố này sang thành phố khác.


Một hôm ngài thấy mẹ xuất hiện giữa bầu trời, trong thân tướng của một Dakinivà dạy ngài phương pháp thiền định.


Sau 12 năm tu tập, một hôm ngài hoát nhiên chứng đắc thần thông, bay lên hư không, và bất ngờ đối mặt với mẹ. Bà quở trách: “Sao con không lo phổ độ chúng sinh mà hý lộng thần thông để tiêu dao?”


Đức vua lúc này đã trở thành một thánh tăng, vâng lời mẹ đáp xuống đất, đi lần về thành phố Mangalapur, một thành phố có đông cư dân, khoảng chừng hai trăm năm chục ngàn hộ.


Cách đô thị không xa, ngài phát hiện có một hang động vắng vẻ gọi là động Ba Cây Cọ, phù hợp để thiền định.


Đám nữ phù thủy ở chốn ấy nghe tin đại sư đến trú tại xứ sở của chúng liền báo cho mụ phù thủy cầm đầu là Padmadevi. Cả bọn tìm cách quấy phá việc tu tập của sư.


Một ngày nọ, khi ngài đi vào thành, trên mình quấn một chiếc mền bằng len màu đen, thì bọn nữ phù thủy bám theo sau ngài nài nỉ: “Thưa thầy, mong thầy hoan hỷ đến nhà chúng tôi để dùng một bữa cơm.”


Nhưng Sư khiêm tốn chối từ: “Ta không thể dùng cơm ở tư gia.”
Thấy không thể mời sư, bọn chúng nài nỉ giữ hộ chiếc mền cho sư trong khi sư còn ở trong thành. Không tiện từ chối lần nữa, Sư đành phải giao chiếc mền cho chúng rồi ở trần đi vào thành.
Sư đi rồi, bọn phù thủy tụ họp lại và kháo với nhau rằng: “Vật gì sở hữu của một nhà sư đắc đạo đều có thần lực. Chúng ta phải ăn cái mền này.”


Thế là bọn chúng chia nhau ăn mỗi người một mảnh, phần còn lại được ném vào bếp. Khi sư quay lại, bọn phù thủy đưa ngài một cái mền khác mới hơn, nhưng sư vẫn một mực đòi lại chiếc mền cũ của mình.


Nài nỉ mãi không được, bọn phù thủy bèn lấy vàng cúng dường nhưng sư không nhận.


Ngài tức giận đi thẳng đến triều đình, tâu với vua: “Ngài là bậc minh quân, cớ sao lại không thể bảo vệ thần dân của mình tránh khỏi bọn phù thủy trộm cắp kia?”


Sau khi nghe sư giải thích sự việc, nhà vua cho gọi bọn phù thủy đến và ra lệnh cho họ phải hoàn lại chiếc mền cũ. Nhưng bọn chúng thú thật rằng chiếc mền ấy không còn nữa.


Sư đành ở trần quay lại hang động để thiền định.


Sau đó bọn phù thủy dùng phép làm tắt dòng nước nơi hang động của ngài. Sư làm phép Hộ ma(Tonna) triệu thỉnh Thủ thần Herukakhiến cho dòng nước chảy trở lại.


Nhân một dịp, bọn nữ phù thủy từ các nơi về tụ hội tại Oddiyana, sư dùng thần thông biến tất cả bọn chúng thành một bầy cừu đoạn xén lông đầu của chúng, khiến Padmadevinữ chúa phù thủy phải quy phục, cầu sư giải thoát cho chúng.


Và khi được sư cho trở lại hình người, đầu của các phù thủy đều trọc nên chúng khóc lóc thảm thiết.


Chẳng bao lâu, tại động Ba Cây Cọ, các nữ thần nhục cảm cố ám hại sư bằng cách lăn một tảng đá núi khổng lồ xuống đầu ngài, nhưng thất bại.


Cuối cùng đức vua xứ ấy phải can thiệp: “Không ai trong các người có thể hại được nhà sư ấy. Vậy tốt hơn các ngươi nên quay về với chánh pháp.”


Mặc dù nhà vua khuyên lơn, nhưng bọn nữ phù thủy vẫn không thèm để tâm đến. Thấy vậy, Sư bảo: “Kể từ đây ta kiểm soát các ngươi, nếu các ngươi không cải tà qui chánh, ta sẽ bắt giao các ngươi cho Diêm chúa, và nếu các ngươi tái phạm, ta sẽ biến các ngươi thành ngựa.”


Bọn phù thủy kinh hãi, bèn cầu xin sư thu nhận làm đệ tử và tu tập pháp thiền định của ngài.


Sau khi được sư làm phép tịnh nghiệp, bọn phù thủy ói ra tấm mền mà chúng đã nuốt trước đó. Sư gom các mẩu vụn lại thành chiếc mền nhưng nhỏ hơn trước đó. Sư được gọi là Kambala, tức “sư mền”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com