Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Làm thế nào để giúp một hữu tình sắp chết?

20/02/201115:46(Xem: 4633)
Làm thế nào để giúp một hữu tình sắp chết?

PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch- Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Thời Đại

PHẦN I. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ THỜI ĐIỂM LÂM CHUNG

Làm thế nào để giúp một hữu tình sắp chết?

Dĩ nhiên là có rất nhiều đáp án cho một câu hỏi như thế. Đối với Phật giáo, nếu chúng ta thành tâm muốn giúp đỡ một người lâm chung, tốt hơn hết là tạo điều kiện tốt nhất để họ có được một trạng thái tâm thức hiền thiện, và hết sức tìm cách tránh những gì có nguy cơ gây cho họ một tâm thức rối loạn hay bất thiện vào giờ phút sắp chết.

Tại sao Phật giáo khuyên nên vận dụng đủ mọi cách thích đáng để khơi dậy những tâm niệm hiền thiện nơi người lâm chung? Đừng quên là Phật giáo chấp nhận thuyết luân hồi, điều này hàm ý rằng, lúc lìa khỏi một kiếp sống, người ta lại hướng về một kiếp khác, rồi một kiếp khác nữa, mãi mãi không ngừng. Điều gì định đoạt kiếp tái sinh tới của ta là tốt hay xấu? Ta có quyền chọn lựa hay không? Khi đi từ kiếp này sang một kiếp khác, người ta có tiến bộ hay không? Phật giáo cho rằng điều này tùy thuộc vào nghiệp lực – hoặc tốt hoặc xấu – mà ta đã tích tập từ truớc đến nay. Trong viễn tượng này, phương cách ta hành xử với người lâm chung sẽ càng quan trọng hơn và cũng tế nhị hơn.

Để tóm lược quan điểm của Phật giáo trên vấn đề này, khi một hữu tình còn ở trong thế giới Ta-bà, nghĩa là khi họ còn tiếp tục luân hồi sinh tử trong phiền não và nghiệp lực, thì tâm họ sẽ vận tải một thể lượng khổng lồ của nhiều nghiệp nhân khác nhau. Nói cách khác, tất cả hữu tình trong cõi Ta-bà đều mang theo một khối nghiệp nhân không thể tưởng tượng, trong đó có rất nhiều nghiệp nhân tốt, có thể rất tốt, nhưng một số khác lại thua xa. Tại sao? Vì nói đến luân hồi, ta không thể chỉ kể đến kiếp sống hiện tại mà thôi. Đã có bao nhiêu kiếp trước đó mà ta đã không cư xử như trong kiếp này.

Hãy tưởng tượng trong kiếp này có một người sống rất tồi tệ, không làm gì ngoài những hành vi gây hại, đầy ác ý, do đó đã tạo một số lớn nghiệp nhân xấu. Trong những kiếp trước, chắc hẳn là họ đã không cư xử như vậy. Nếu tâm họ đã bị thâm nhiễm những nghiệp nhân xấu trong kiếp này, chắc chắn là họ hãy còn giữ nhiều nghiệp nhân tốt của những kiếp trước. Thật may mắn cho họ, nhưng trường hợp trái ngược cũng có thể xảy ra: một người đã tạo những nghiệp nhân rất tốt nhờ những hành vi thiện lành, nhưng kiếp trước họ đã làm những nghiệp nhân gì? Có thể họ cũng đã tạo những nghiệp nhân lành, nhưng không thể tránh được lầm lạc hay tội lỗi, nên tất nhiên họ cũng vận tải những nghiệp nhân xấu. Vì thế Phật giáo cho rằng tất cả những hữu tình sống trong thế giới Ta-bà này đều mang theo một số lớn nghiệp nhân đủ loại.

Nghiệp báo và tái sinh có liên quan gì với nhau? Sơ đồ căn bản rất giản dị: nghiệp nào thành thục ngay trước khi kiếp sống X chấm dứt sẽ định đoạt kiếp tái sinh Y ngay sau đó. Thế nhưng, nếu ta phân tích sâu xa hơn thì sẽ thấy có nhiều biến thể khác trong sơ đồ đó. Đừng nghĩ rằng kiếp tái sanh nào cũng do sự định đoạt của mỗi một nghiệp nhân duy nhất đã thành thục. Kinh sách nói rằng, giữa những hành nghiệp mà chúng ta gây ra có một số mạnh đến nỗi chỉ cần mỗi một nghiệp nhân thôi cũng đủ lôi kéo ta tái sinh vào một cảnh giới liên tục trong nhiều kiếp. Thí dụ, một nghiệp nhân vừa rất mạnh vừa rất tốt có thể đưa ta đi tái sinh trong cõi người suốt một ngàn kiếp không gián đoạn. Đó là nói về trường hợp tốt. Tương tự, một nghiệp nhân xấu rất mạnh cũng có thể khởi động một chuỗi tái sinh bất lợi. Ngược lại, một vài loại nghiệp nhân tuy đã thành thục nhưng không đủ mạnh để tự mình dẫn đến một kiếp tái sanh. Trong trường hợp này, nhiều nghiệp nhân cùng loại sẽ ghép lại với nhau để dẫn đến cùng một quả báo: một kiếp tái sinh tốt hay xấu tùy theo sắc thái chung của chúng. Tuy nói thế nhưng thông thường, nhất là ngay trước khi chết, trong tâm của đương sự, giữa tất cả các nghiệp nhân, sẽ trỗi lên một nghiệp nhân đã đến lúc thành thục. Nếu nghiệp nhân này tốt, đương sự sẽ được đẩy tới một kiếp tái sinh rất lợi lạc, và nếu nó xấu thì họ sẽ đọa xuống cảnh giới bất hạnh.

Chúng ta ai cũng mang theo mình vô số nghiệp nhân đủ loại, vậy những nghiệp nhân nào sẽ có khả năng xuất hiện vào lúc ta trút hơi thở cuối cùng và từ đó định đoạt kiếp sống mới của ta? Theo một đại học giả Ấn Độ là ngài Thế Thân thì trước hết, những nghiệp nhân thành thục đúng vào lúc đó là những nghiệp nhân “gần gũi” với ta nhất, tức là những nghiệp nhân mà chúng ta quen tạo nhất.

Vì thế, nếu muốn có một tái sinh tốt thì ta không được quên rằng để được như thế, vào giây phút cuối của ta, nghiệp nhân trỗi lên trên hết phải là một nghiệp nhân phước đức. Và muốn thế, ta phải dùng tất cả các phương tiện thích hợp nhất để “tưới tẩm” (như người Tây Tạng thường nói) hay là tăng cường trong tâm người lâm chung (dẫu người đó là chính mình hay người khác) một nghiệp nhân thiện. Mục đích là đưa một nghiệp lành nào đó đến mức độ thành thục, để nó có thể định đoạt kiếp tái sinh sau, thích hợp với người lâm chung, và do đó tốt đẹp cho họ.

Trước khi nghĩ đến việc áp dụng điều này cho chính mình, hãy tự hỏi làm sao và bao giờ mới là lúc phải áp dụng cho người lâm chung. Vấn đề là làm sao giúp người này đúng vào lúc nào thì phải có tâm thức nào, nghĩa là tâm thức có lợi cho họ. Nói thế cũng có nghĩa là trạng thái tâm thức đang được đề cập phải đi theo một chiều hướng, trong trường hợp này phải là chiều hướng tốt. Nó không được ở trong một trạng thái vô ký. Và điều kiện là tâm họ còn phải hoạt động ở dạng “thô”, hay nói cách khác, dạng bình thường.

Quý vị hẳn cũng nhớ là khi tâm thức lấy lại dạng vi tế, chưa nói tới dạng cực vi tế, thì nó sẽ tự động trở thành vô ký. Lúc ấy tâm thức không thể theo chiều hướng tốt hay xấu nữa, nên chỉ có thể ở trạng thái trung dung. Lúc ấy thì đã quá muộn. Vì thế, để người hấp hối có được những ý nghĩ thiện lành thì tâm thức người này phải còn hoạt động trong trạng thái bình thường, trước khi các thành phần thô nặng của họ bắt đầu tan rã.

Khi tâm trí người hấp hối còn hoạt động trong trạng thái thô, nếu ta dàn xếp thế nào để họ khởi được một trạng thái tâm thức hiền thiện, hay giản dị hơn, nếu ta khơi dậy trong tâm họ những tư tưởng tốt lành thì điều này có tác dụng tăng cường các tiềm năng tốt trong các nghiệp nhân của họ. Trong một thời gian ngắn sau đó, ngay sau khi các thành phần thô nặng đã tan rã rồi thì trong tâm họ chỉ còn lại các hoạt động ở bình diện vi tế và cực vi tế. Nhưng dẫu cho tâm thức họ đã trở thành vô ký, họ vẫn còn ở dưới ảnh hưởng của trạng thái tâm thức thô nặng cuối cùng, nên chính trạng thái này sẽ “định đoạt” chiều hướng của thời kỳ sau khi chết, lúc người này vào trạng thái trung ấm rồi đến lúc họ thực sự đi tái sinh.

Nói tóm lại, khi tiến trình của sự chết diễn ra thì các thành phần thô nặng của một hữu tình sẽ dần dà suy suyển cho đến lúc không còn hoạt động được nữa. Tâm thức nói riêng cuối cùng cũng không còn có thể hoạt động dưới dạng bình thường, mà ta gọi là dạng “thô”. Từ lúc đó trở đi, trong một khoảng thời gian, tâm thức của người này chỉ còn trụ trong những bình diện vi tế hơn, mà tính chất là vô ký. Do đó, cái mà ta phải cố gắng làm là can thiệp lúc còn thời giờ, lúc tâm thức người hấp hối vẫn còn hoạt động dưới dạng bình thường, làm thế nào cho những tư tưởng cuối cùng dưới dạng thô của họ phải đượm sắc thái hiền thiện. Ngay sau đó, vì các thành phần tan rã nên họ chỉ còn có thể có trạng thái tâm thức vi tế trong suốt một loạt chu kỳ. Nhưng không sao, nếu trạng thái tâm thức cuối cùng là hiền thiện thì điều này rất có lợi cho họ.

Khoảng thời gian này thật sự vô cùng trọng yếu và tế nhị, vì đôi khi có những sự chuyển hướng rất lạ lùng. Hãy lấy thí dụ của một người, trong suốt kiếp người đã sống một cách xấu xa nên phần nhiều các nghiệp đã tạo đều là nghiệp xấu. Nhưng [kết quả cuối cùng] vẫn chưa ngã ngũ. Chỉ cần vào giây phút cuối, nhờ một số tình huống tốt nào đó hoà hợp nên họ trụ được vào trong một trạng thái tâm thức hiền thiện. Đây không phải là một sự ngẫu nhiên, mà có thể nhờ vào những nghiệp tốt nào đó họ đã tích tụ được trong các kiếp trước đã hiện hành.

Nói gì thì nói, trước mắt mọi người thì hiện nay đây là một tên cực kỳ gian ác, nhưng ở giây phút cuối cùng họ lại ở trong một trạng thái tâm thức hiền thiện, nhờ công đức lành kiếp trước và những điều kiện thuận lợi nhất thời. Như thế, thay vì đọa xuống cảnh giới xấu khi chấm dứt kiếp này, họ lại rất có thể tái sinh vào một cảnh giới tốt đẹp.

Trường hợp ngược lại cũng từng xảy ra. Có người suốt cả một đời đã nỗ lực hết sức để sống một cuộc sống hiền thiện, tạo rất nhiều nghiệp tốt. Thế nhưng ngay trước khi chết, vì lý do này hay lý do khác lại phát sinh những tâm như bực bội, chấp thủ hay ganh tỵ v.v... Không may là những tâm này lại làm cho một hay nhiều nghiệp xấu trong tâm họ thành thục, và kết quả là thay vì được tái sinh trong cảnh giới tốt đẹp họ lại bị đẩy xuống cảnh giới xấu.

Có người có thể kinh ngạc hay bất bình, do đó bèn nghi ngờ luật nhân quả và kêu lên rằng: “Thế thì luật nhân quả đâu phải lúc nào cũng đúng! Phải chăng nó cũng có chỗ sơ hở!”

Không, không phải thế. Luật nhân quả rất triệt để, không hề có chỗ sai lầm hay ngoại lệ. Các trường hợp đề cập trên chỉ minh họa cái tác dụng xê xích, dời lại trong thời gian. Tất cả các nghiệp tích tập – dĩ nhiên trừ khi đã được tịnh hóa trước đó – đều đưa đến một quả báo, nhưng không nhất thiết là phải ngay lập tức.

Thật sự ra, trong trường hợp người xấu đã tích tập một số lượng ác nghiệp khổng lồ trong kiếp này nhưng cuối cùng trụ được trong một trạng thái tâm thức tốt ngay trước khi tắt thở, thì quả báo họ đạt được không đến từ các nghiệp lực gần đây – tức là ác nghiệp, mà từ những nghiệp lực xa xưa hơn, những công đức mà họ tích tập được trong những kiếp trước. Có phải vì thế mà họ vĩnh viễn tránh được những quả báo xấu của các nghiệp đã tạo trong kiếp này? Không, không bao giờ. Các quả xấu này chỉ bị hoãn lại. Trừ khi nào từ nay đến lúc nhận lãnh quả báo họ biết vận dụng những phương tiện thích hợp để hóa giải chúng, bằng không thì bất cứ giá nào họ cũng phải lãnh thọ những quả báo ấy. Trong một kiếp tương lai, dẫu cho có một hay nhiều kiếp tái sanh tốt xen vào trước đó, họ vẫn sẽ phải chịu những quả báo khổ đau của những nghiệp ác mà họ đã tạo trong kiếp này. Đó là một định luật không thể lay chuyển.

Hãy lấy giả thuyết có một người sống rất tệ hại trong kiếp này, nhưng kiếp sau lại sinh ra làm người, vì trước khi chết họ đã có những tư tưởng hướng thiện. Trong kiếp người mới này, có thể họ ý thức được và đã sám hối tội lỗi bằng cách dùng đến bốn lực để tịnh hóa những ác nghiệp mà họ đã tích tập từ trước. Nếu người này hành trì miên mật pháp môn nói trên cho đến khi giải thoát ra khỏi thế giới Ta-bà thì đồng thời họ cũng sẽ vĩnh viễn tránh được những quả báo của các ác nghiệp xưa kia mà đáng lẽ họ phải chịu.

Điều này phải chăng có nghĩa là luật nhân quả có chỗ sơ hở và không luôn luôn hiệu nghiệm? Sự thật không phải thế. Luật nhân quả rất máy móc nên không bao giờ sai lệch. Trong trường hợp kể trên, luật nhân quả cũng đã được áp dụng: Đó là vì người ấy đã ra tay hành động, và đã dùng những kỹ thuật tịnh hóa nên mới đình chỉ được sự thành thục của các ác nghiệp lúc trước. Những nghiệp xấu kia không hề tự biến mất một cách không ai biết tại sao và cách nào. Ngược lại, những cơ cấu đưa đến sự hóa giải của chúng có thể được phân tích một cách dễ dàng.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/08/2024(Xem: 917)
Khi thấy Đức A Di Đà Phật xuất hiện, Cụ Ông 80 tuổi, vào hai đêm trước ngày ra đi, mặc dù bị bệnh ung thư đại tràng giai đoạn cuối, vẫn mỉm cười niệm Nam Mô A Di Đà Phật; ngay trước giờ xả bỏ báo thân, Cụ Ông, lại một lần nữa, thấy Đức A Di Đà Phật hiện ra; và sau đó tỉnh táo, sáng suốt ra đi an lành. Tâm Tịnh và Hoa Chí cùng con cháu của Cụ có duyên lành hỗ trợ Cụ Niệm Phật suốt tám ngày và tám đêm, khai thị, khuyến khích, làm cho Cụ phấn chấn, đặc biệt, Tâm Tịnh đã tận mắt chứng kiến sự ra đi nhẹ nhàng của Cụ vào lúc 9.40 sáng ngày 11 tháng 07 Quý Mão (2023). Để kỷ niệm một năm giỗ đầu của Cụ, và như một lời hứa khả với quý đạo hữu Tịnh Độ, Tâm Tịnh xin hân hoan tường thuật lại những gì mắt thấy, tai nghe trong suốt thời gian trợ duyên Niệm Phật cùng với Cụ cho đến thời khắc ra đi, kể cả thời gian ban đầu khi nhập viện và thời gian hộ niệm sau khi tắt thở. Từ những gì diễn ra trong những ngày cùng Cụ Niệm Phật, có thể đúc kết thành 14 chỉ dấu sau đây, làm cơ sở cho niềm tin rằng Th
21/01/2024(Xem: 1644)
Tỉnh Thức Đối Diện với Bệnh tật và Cái Chết_Tỳ Kheo Analayo_Bình Anson dịch
06/06/2023(Xem: 6924)
Bất cứ trong một tôn giáo, một triết học nào, phần nhân sinh quan vẫn là quan trọng. Chúng ta theo một tôn giáo mà không biết quan niệm nhân sinh trong tôn giáo ấy như thế nào, thực là một khuyết điểm lớn lao. Ở đây, chúng ta chỉ riêng bàn về phần nhân sinh quan Phật giáo để tìm hiểu Phật giáo quan niệm về đời sống con người như thế nào ?
21/05/2023(Xem: 1849)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất. Việc giữ gìn, duy trì sự sống là một điều cơ bản mà bất cứ ai sống trên đời này cũng phải làm để mong mình sống lâu, sống thọ chứ không ai mong mình chết sớm, hay nói đúng hơn là ai cũng sợ cái chết bởi không có một loài động vật có máu huyết nào lại không sợ chết, nhưng sợ chết, không muốn chết thì con người vẫn không thể thoát được cái chết, cho nên thay vì sợ hãi thì chúng ta hãy tập đối diện với quy luật sinh tử như thế nào để vừa giữ được tinh thần lạc quan, vừa duy trì được sự sống của mình một cách trọn vẹn nhất.
22/03/2022(Xem: 3537)
Tôi không ngạc nhiên lắm khi biết dù tác phẩm Chết và Tái sinh ( Death & Rebirth ) đó TT Thích Nguyên Tạng soạn dịch ấn bản lần đầu tiên vào năm 2001 và được tái bản đến 9 lần rồi mà vẫn không đủ cung cấp, cho nên sắp tới Tu Viện Quảng Đức cho tái bản lần thứ 10 để cống hiến bạn đọc gần xa. May mắn thay trong thư viện tí hon của tôi có tác phẩm này được tái bản lần thứ bảy vào mùa Vu Lan báo Hiếu 2007 mà lời ngỏ của tác giả đã đánh động đến con tim của người đọc …qua câu chuyện Luật Sư Brendan Keilar sinh sống tại Melbourne / Australia đã bị bắn chết thật kinh hoàng khi tuổi mới 43 để trả giá cho hành động rất ngưỡng phục ( vì đã can thiệp cứu người).
02/12/2021(Xem: 19240)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
01/08/2021(Xem: 12035)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
26/06/2021(Xem: 14705)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
01/11/2020(Xem: 18927)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
09/09/2020(Xem: 7546)
Hỏi: Thưa Thầy, luân hồi thật sự được hiểu thế nào trong Phật Giáo, hay vấn đề này bị nhầm lẫn với thuyết tái sinh trong Bà La Môn Giáo và một số tín ngưỡng Tây Phương, vì từ Hán Việt “tái sinh” tiếng Pháp viết là "réincarnation” là sự lặp lại về đơn vị gốc, ví dụ: Người giàu nghèo sang hèn v.v… cứ thế trở lại nguyên gốc. Còn tiếng Phạn saṃsāra là luân hồi là lang thang, trôi nổi. Nếu dùng bật lửa đốt cháy cây nến, điều kiện tạo lửa từ bật lửa sẽ gồm đá đánh lửa, hộp nhựa đựng khí gas, ống thông nhau, ống dẫn ga, bánh xe tạo lực ma sát vào đá lửa, vô số phân tử hóa học trong khí gas, môi trường xung quanh v.v… Trong khi các duyên bắt lửa của ngọn nến chỉ có 2 yếu tố cơ bản gồm thân đèn làm bằng sáp và tim làm bằng vải… Vậy ngọn lửa từ bật lửa có quan hệ gì với ngọn lửa của cây nến? Như thế luân hồi không phải là sự tái sinh nguyên bản mà là tâm lang thang trôi lăn chìm nổi vì tham sân si, không biết tàm quý để rồi chúng sanh cứ mãi bị cái vòng xoay đó làm cho đau khổ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com