KINH DUY MA CẬTGIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Phần 8
Như vậy cáikhông sanh diệt đó, đâu rời cái tướng sanh diệt, phải không? Cho nên nói cácpháp cứu cánh không sanh, không diệt là nghĩa vô thường. Ngũ thọ ấm rỗng suốtkhông. Không có khởi, ấy là cái nghĩa khổ. Mình bây giờ nói khổ là vì năm ấmnày. Năm ấm này là sinh, già, bệnh, chết là khổ. Bây giờ nói năm ấm này là rỗngsuốt, là không. Không tại sao nói nghĩa khổ. Bởi vì tự tánh của năm ấm làkhông, phải không? Tự tánh của năm ấm là không. Không tức là rỗng suốt. Nhưngmà duyên hợp thì nó có năm ấm. Bởi có năm ấm nên bị sanh, già, bệnh, chết làkhổ. Như vậy nói năm ấm là rỗng suốt, là không đó, là chỉ cho tánh của năm ấm.Từ cái tánh đó duyên hợp thành tướng, cho nên nói năm ấm rỗng không đó không cóchỗ khởi, ấy là nghĩa khổ.
Các pháp cứucánh không có. Không có ấy là nghĩa không. Các pháp cứu cánh không là vì sao?Bởi vì các pháp không có một pháp nào tự có, mà đợi duyên hợp mới có. Khôngpháp nào tự có thì cứu cánh là không chớ gì. Như vậy mới gọi là nghĩakhông.
Còn nơi ngãvà vô ngã không hai, ấy nghĩa vô ngã. Đó, nếu mình thấy cái ngã này là thật.Rồi vô ngã cũng là thật. Tức là thấy hai phải không? Vì vậy cho nên thấy ngã vàvô ngã, hai cái đều là giả dối. Bởi cái vô ngã có rời cái ngã không? Như bâygiờ mấy chú đang thấy mình thật, đó là gì? Đó là hữu ngã. Rồi một ngày nào tuthấy thân này nó không thật, không có chủ, thì lúc đó là gì? Như vậy hữu ngã,vô ngã cũng căn cứ trên thân này mà thôi. Như vậy cùng một thân này mà mìnhkhông mắc kẹt bên hữu ngã, bên vô ngã tức là một niệm bình đẳng. Niệm bình đẳngấy là nghĩa vô ngã.
Rồi nói rằngpháp xưa không sanh, nay không diệt, đó là nghĩa tịch diệt. Tịch diệt tức làNiết bàn. Bây giờ mình thấy được pháp tánh xưa nay không sanh, không diệt. Thấyđược như vậy đó là nghĩa tịch diệt. Còn nếu thấy tướng của pháp là sanh làdiệt, là đẹp, là xấu là có, là không, đó là chưa đi tới chỗ tịch diệt được. Nhưvậy muốn đạt được tới chỗ tịch diệt, đạt đến chỗ Niết bàn thì thấy các phápnguyên thể là không sanh là không diệt.
Như vậy ở đâyNgài Ca Chiên Diên căn cứ trên pháp tướng mà nói nghĩa vô thường, khổ, không,vô ngã và Niết bàn. Còn ngược lại với ông Duy Ma Cật đứng trên pháp tánh đểnói, cho nên vô thường, khổ, không, vô ngã và tịch diệt đó, nó ngược lại vớicái thấy, cái hiểu theo nghĩa tương đối mà mình đang học. Tới phiên Ngài A NaLuật.
Phật bảo NgàiA Na Luật:
Ông đi đếnthăm bệnh ông Duy Ma Cật.
A Na Luậtbạch Phật rằng:
( Thế Tôn!Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ lại ngày xưa, ở một chỗđi kinh hành. Khi đó có Phạm Vương tên là Nghiêm Tịnh cùng với các vị PhạmVương đồng đến (hay là chung đến chữ “Câu” là chung). Phóng hào quang sáng suốtđến chỗ của con cúi đầu làm lễ, hỏi con rằng:
( A Na Luật,thiên nhãn của Ngài thấy được bao nhiêu? (hay là thấy được đến đâu)
Con liền đápvới họ rằng:
( Này Nhơngiả! Tôi thấy được thế giới tam thiên, đại thiên. Cõi của đức Phật Thích Ca MâuNi này như là xem trái A Ma Lặc ở trong lòng bàn tay.
Khi đó ôngDuy Ma Cật đến hỏi con rằng:
( Vâng! NgàiA Na Luật, thiên nhãn của Ngài thấy, đó là làm ra tướng thấy, hay không làm ratướng mà thấy? Giả sử làm ra tướng thì cùng với ngoại đạo ngũ thông không khác.Nếu không làm ra tướng ấy là vô vi. Vô vi thì không nên có thấy.
Bạch Thế Tônkhi ấy con lặng thinh. Những vị Phạm Vương kia nghe lời nói ngyà rồi thì đượcchưa từng có. Liền làm lễ mà hỏi rằng:
( Ở trên đờinày ai có được chân thiên nhãn?
Ông Duy MaCật đáp:
( Có Phật ThếTôn có được chân thiên nhãn. Thường ở trong chánh định, phải thấy cõi các chưPhật không do hai tướng.
Khi ấy đứcPhạm Vương Nghiêm Tịnh và quyến thuộc, 500 vị Phạm Thiên đều được pháp tâm vôthượng chánh đẳng chánh giác. Lễ dưới chân ông Duy Ma Cật. Bỗng nhiên khônghiện, cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.
Đoạn nàychúng ta thấy cũng hơi đơi giản. Ở ông Duy Ma Cật thì ông nhìn khác với Ngài ANa Luật. Ngài A Na Luật được thiên nhãn, thấy thế giới tam thiên, đại thiên củaPhật Thích Ca giống như nhìn trái ổi hay trái xoài ở trong lòng bàn tay. Bâygiờ chúng ta cầm một trái ổi, trái xoài để trong lòng bàn tay, nhìn thấy rõkhông? Không có nghi tí nào hết. Thế giới đức Phật Thích Ca giáo hóa, khôngphải chỉ cái thế giới Ta Bà này thôi mà nói cả thế giới tam thiên đại thiên. Cóthể theo mình hiểu bây giờ là cả một thái dương hệ vậy. Chớ không phải chỉtrong thế giới riêng của mình. Thấy thế giới nhiều đó bằng thấy thấy đó mộttrái cây trong lòng bàn tay. Mình thấy cái thấy đó quá mức phải không? Quá sứctưởng tượng của mọi người. Nhưng bị ông Duy Ma Cật hỏi một cái rồi bí. Ông hỏinhư vậy, Ngài thấy đó là do có tướng mà thấy hay không tướng mà thấy. Nếu cótướng thì giống như hàng ngũ thông của ngoại đạo. Ngoại đạo được ngũ thông.Trong đó có Thiên Nhãn Thông thì cũng thấy được rộng như là ông A Na Luật. Cònnếu không tạo ra tướng mà thấy đó, đã không tướng thì đó là vô vi. Vô vi làmsao có thấy. Như vậy có tướng thấy thì ông đồng với ngoại đạo. Còn nếu khôngtạo ra tướng mà thấy đó, đã không tướng thì đó là vô vi. Vô vi làm sao có thấy.Như vậy có tướng thấy thì ông đồng với ngoại đạo. Còn nếu không tướng mà thấythì không tướng thì không thấy, thì như vậy là sai. Ngang đó ông bí, ông đápkhông được.
Như vậy ThiênNhãn đó đối với ông Duy Ma Cật là Thiên nhãn còn nằm ở trên đối đãi. Chưa phảilà Thiên nhãn chân thật. Con nên sau này chư Thiên mới hỏi ông: “Thế nào làchân Thiên nhãn? Ở trên đời này ai có chân Thiên nhãn?” Ông đáp: “Chỉ có Phậtmới có chân Thiên nhãn đó thôi”. Chân thiên nhãn của Phật thế nào? Ở ngay trongchánh định mà thấy cái cõi nước của chư Phật, mà không bị hai tướng có và không.Như vậy đức Phật đi tới chỗ hằng được chánh định, không còn kẹt ở hai bên. Chonên Ngài thấy tất cả cõi nước chư Phật.
Lời nói nàymấy chú thấy có quá hay không? Bởi vì như Ngài A Na Luật chỉ thấy thế giớitrong phạm vi giáo hóa của đức Phật Thích Ca. Chớ chưa thấy vị A La Hán nàonói: Tôi thấy cõi Phật này, cõi Phật kia, phải không? Còn đức Phật, Ngài thấyđó chính là cái thấy của Ngài. Thí dụ như bây giờ tụng kinh Di Đà thì thấy đứcPhật thấy được cõi Phật Di Đà không? Rồi thấy cõi Phật Đông phương không? Rồithấy cõi Phật Dược Sư. Thấy bao nhiêu cõi Phật. Như vậy cái thấy của đức Phậtvượt hẳn cái thấy của A Na Luật xa. Quá xa phải không? Bởi vậy Ngài nói ở đâuđó có cõi Phật đó, đức Phật tên gì đang nói Pháp... còn các vị A La Hán đâuthấy cái đó. Như vậy chúng ta mới thấy rằng trên phương diện tu hành phươngdiện tu hành còn ở trong đối đãi mà tâm được thanh tịnh thì cái thấy cũng rộnglắm rồi. Nhưng khi vượt khỏi đối đãi mà tâm hoàn toàn thanh tịnh. Ở trong chánhđịnh tức là hoàn toàn thanh tịnh. Không có bao giờ động, thì chẳng những nhìn ởmột cõi Phật mà thấy vô số cõi Phật nữa. Như vậy mới thấy giá trị của sựtu.
Như bây giờchúng ta tu, mấy chú có lúc nào tâm an một chút thì lúc đó trí mình sáng mộtchút. Còn khi tâm mình bất an thì trí mình rối loạn. Cho nên tu thiền là cốtcho tâm yên định. Mà tâm yên định thì trí sáng. Trí sáng đó không phải sángbằng trí thôi mà sáng cả ra sáu căn. Bởi ra sáu căn nên mới gọi là lục thôngđó. Chính nhờ yên tịnh mà phát ra, chớ không phải nhờ cái thuật luyện tập màcó. Những người nào luyện tập mới có thần thông thì thần thông do luyện tậpđược. Mà luyện tập được thì nó còn hoài hay mất. Đã luyện tập được thì lúc nàokhông luyện tập nó không công hiệu. Còn ở đây do tâm mình an định mà trí tựsáng. Cho nên an định được tâm mình thì đó là thần thông chân thật. Chớ khôngphải thần thông do công phu luyện tập mà được. Cho nên đức Phật, tâm Ngài hoàntoàn an định thì gọi là thường ở trong chánh định mà thấy cõi chư Phật. Đó làchỗ tu hành, không phải mình nói huyền bí mà đây là nói một lẽ thật. Bởi vì cóvị A La Hán nào mà nói thấy thế giới nhiều đâu, phải không? Nói chỉ thấy trongphạm vi thế giới này. Còn đức Phật, Ngài thấy thế giới chừng bao nhiêu? Ngàithấy trong bầu hư không này thế giới nhiều như cát sông Hằng. Con sông Hằngchảy từ núi tuyết ra tới biển đông. Tính ra trên 1000 cây số. Chừng bao nhiêucát? Bây giờ mình nói sông Đồng Nai thôi, chừng hơn 100 cây số đó, mấy chú thấychừng bao nhiêu cát? Không thể nào mình đếm được số cát số cát sông đồng nai ĐồngNai. Huống nữa là sông Hằng, nó dài lê thê như vậy. Phật ví dụ Ngài thấy thếgiới trong bầu hư không này nhiều như số cát sông Hằng. Lời nói như vậy đó,không phải tự Phật ước thuyết mà nói. Chính là do trí tuệ sáng suốt của Ngàithấy được. Những điều đó có bằng chứng trong kinh nói rõ ràng chớ không phải làước thuyết hay tưởng tượng. Những điều đó chúng ta mới thấy công phu tu đem lạilợi ích. Và lợi ích đó vượt ra ngoài thường tình cái hiểu biết củ con người.Cho nên những điều Phật nói mà chúng ta bây giờ khó hiểu là tại vì cái thấy củaNgài vượt quá tầm vóc của chúng ta có thể biết. Vậy mà Ngài còn nói làm sao?Ngài nói vô trong rừng Ngài thấy lá cây trong rừng, Ngài mới lấy một nắm lá,Ngài nắm trong tay, Ngài hỏi:
( Nắm lá tanắm trong tay đây là nhiều, hay là lá cây trong rừng nhiều đó?
Chư Tỳ Kheotrả lời rằng:
( Lá cây màPhật nắm trong tay quá ít. Còn lá cây trong rừng thì vô số kể.
Phậtnói:
( Cũng vậy,cái biết của ta mà đem dạy các ngươi đó, cái số đem ra dạy giống như làlá cây trong tay ta nắm vậy. Còn cái ta biết không dạy, không nói được đónhiều như lá cây trong rừng.
Mấy chú nghĩcái thấy, cái biết của Phật đối với mình cỡ nào. Nó quá tầm vóc tưởng tượng củamình. Đó để thấy rằng những cái mà Phật thấy chưa cần thiết, Ngài cũng không,Ngài cũng không nói cho mình biết. Mà chính Ngài đã thấy, Ngài đã biết. Cho nêncái tu đến chỗ tâm thanh tịnh bình đẳng thì hiệu quả nó không thể nào lườngđược. Không thể nào dùng trí phàm tục mình mà có thể biết đến được. Kế đây làông Ưu Bà Ly.
Phật bảo NgàiƯu Ba Ly:
( Ông đi đếnthăm bệnh ông Duy Ma Cật.
Ngài Ưu Ba Lybạch Phật rằng:
( Thế Tôn!Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ lại thuở xưa có hai vịTỳ Kheo phạm về luật hạnh (tức là phạm giới) cho là hổ thẹn (hay cho là xấu hổ)không dám đến hỏi Phật. Đến hỏi con rằng:
( Vâng! NgàiƯu Ba Ly. Chúng tôi phạm giới luật, thật là xấu hổ. Không dám đến hỏi Phật. Cúimong Ngài Ưu Ba Ly giải quyết cái nghi ngờ cho chúng tôi để được thoát khỏinhững lỗi này.
Con liền đúngnhư pháp mà giải nói cho những vị này. Khi ấy ông Duy Ma Cật đến bảo conrằng:
( Vâng! NgàiƯu Ba Ly. Không nên thêm tội cho hai vị Tỳ Kheo này. Phải thẳng trừ diệt. Chớcó làm nhiểu loạn cái tâm của hai vị ấy. Vì cớ sao? Vì tánh tội nó không ở trong,không ở ngoài, không ở chặng giữa. Như lời Phật nói vì tâm cấu cho nên chúngsanh cấu. Vì tâm tịnh cho nên chúng sanh tịnh. Tâm không ở trong, không ởngoài,không ở chặng giữa. Như cái tâm này, cái tội cấu cũng vậy, các pháp cũngvậy, không ra ngoài cái như. Như Ngài Ưu Ba Ly khi do cái tâm tướng mà đượcgiải thoát thì thật có cấu chăng?
Con trả lờirằng:
( Khôngvậy.
Ông Duy MaCật mới nói:
( Tất cảchúng sanh tâm tướng không có cấu. Cũng lại như vậy. Vâng! Ông Ưu Ba Ly, vọngtưởng là cấu, không vọng tưởng là tịnh. Điên đảo là cấu, không điên đảo làtịnh. Chấp ngã là cấu, không chấp ngã là tịnh. Này Ngài Ưu Ba Ly, tất cả phápsanh diệt không trụ, không dừng, như huyễn, như điện. Các pháp không có đối đãicho đến một niệm cũng không dừng. Các pháp đều là vọng kiến như mộng, như dươngđiện, như mặt trăng trong nước, như bóng trong gương, do vọng tưởng sanh. Ngườimà biết được như thế đó, đó mới gọi là giữ giới luật. Người biết được như thếđó, ấy mới gọi là khéo hiểu.
Khi ấy haithầy Tỳ Kheo nói:
( Thật làthượng trí thay. Ngài Ưu Bà Ly không có thể nào bì kịp Ngài là người giữ giớibậc trên đó, Ngài là người giữ giới hơn hết mà cũng không thể nói được.
Con liền đáprằng:
( Nếu mà từbỏ đức Như Lai hay là ngoài đức Như Lai ra, chưa có hàng Thanh Văn, Bồ Tát nàohay chế phục được nhạo thuyết biện tài của ông Duy Ma Cật. Trí tuệ minh đạt củaông là như thế vậy.
Khi ấy haithầy Tỳ Kheo mới dứt hết nghi ngờ. Phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.Liền phát nguyện rằng khiến cho tất cả chúng sanh đều được biện tài như thế.Cho nên con không thể đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.
Như vậy đoạnnày chúng ta thấy Ngài Ưu Ba Ly đứng trên phương diện nào mà kết tội, mà giảinghi cho mấy vị đó? Tức là đứng trên mặt giới tướng. Đứng trên mặt giới tướngmà giải nghi. Mà đã đứng trên mặt giới tướng thì thí dụ người phạm giới uốngrượu hay là phạm giới dâm dục chẳng hạn, thì giới tướng có tha được không? Khikết tội thì đó là tội không thể chối được, không thể bỏ được, không thể thoátđược. Cho nên đứng về mặt giới tướng thì khi đã làm tội rồi, tội đó là tộithật, chớ không thể nào giảm chế được.
Còn ông DuyMa Cật ông đứng về phương diện nào mà ông nói về tội? Tức là về cái tánh. Bênkia đứng về tướng thì bên đây đứng về tánh. Như mỗi đêm chúng ta sám hối thì cócâu sau, nói gì đó. nguyên chữ Hán là:
Tội tánh bổnkhông do tâm tạo.
Tâm nhượcdiệt thời tội diệt vong.
Tội vong tâmdiệt lưỡng câu không.
Thị tắc danhvi chơn sám hối.
Tánh tộivốn là không.Mà tánh tội vốn là không đó, làm sau mà kết được rằng tội đó cốđịnh, phải không? Bây giờ tôi nói từ từ cho mấy chú thấy. Như chúng ta làm tội,thì trước từ cái gì mà có. Cái gì mà khởi ra tạo tội? Trước là do ý thức nónhiễm, phải không? Nhiễm trước mà khởi ra tạo tội. Từ ý thức khởi, rồi thân, miệngmới bắt đầu thực hành. Thân, miệng thực hành thì thành ra cái nghiệp, thành ratội. Như vậy cái động cơ chủ yếu tạo tội là ý thức. Nhưng bây giờ hỏi ý thức nóở đâu, nó thật hay không thật? Cho nên ở đây mới nói những câu, cái tội đó,tánh nó không phải ở trong, không phải ở ngoài, không phải ở chặng giữa. Bâygiờ tìm coi ý thức mình khởi tạo đó, nó ở đâu. Nó ở trong, hay nó ở ngoài, haynó ở chặng giữa. Ý thức tìm lại là mất phải không? Ý thức chỉ là một mới vọngtưởng nó liên tục tạm gọi là ý thức. Như vậy vọng tưởng liên tục đó nó khôngthật, bản chất nó là không? Khi biết cái gốc tạo tội nó là không, thì cáinghiệp do tội tạo ra nó thật được không? Được không? Cái nghiệp không thật thìtướng của tội thật được không?
Bây giờ tôithí dụ: Như có người cất nhà lầu ba từng. Tầng số một, tầng số hai, tầng số ba.Bây giờ tầng số một đó lại là tầng dở. Hỏng, hư, không bền, không chắc. Tầng số2, số 3 bền chắc được không? Tất cả 2 tầng kia từ tầng số 1 mà thành, nếu tầngsố 1 mà hư, hoại, 2 tầng kia thì sao? Cũng theo đó mà hư mà hoại. Cũng như vậy,từ cái tâm khởi tội, tức là khởi cái niệm tạo tội lỗi. Tạo thành nghiệp tội lỗicho nên có kết quả thọ tội lỗi phải không.
Như vậy 3giai đoạn tâm, rồi thân, khẩu tạo thành tội, gọi là nghiệp tạo. Hay là tạo thànhnghiệp tội. Rồi mới chịu quả báo của tội. Nhưng ngay tâm là cái gốc đó, nó lạikhông thật. Nó không thật thì hai phần kia thật được không. Như vậy nếu đứngtrên tướng tội mà luận thì nó chưa có cứu cánh. Phải đi thẳng về tánh tội thìthấy nó không thật. Nếu nó không thật thì tôị còn hay hết.
Như vậy đểtrở lại bài sám hối hằng đêm chúng ta đó “Tội tánh bổn không”, tánh tội vốn làkhông. Do cái gì tạo? Do tâm tạo. Mà tâm đó lại không thật nữa. Không thật nênkhi nhìn lại nó mất thì tâm nó diệt. Tâm diệt thì tội theo đó cũng không còn.Như vậy gọi là chơn sám hối, về tánh tội đó. còn như Ngài Ưu Ba Ly nói đây làvề tướng tội.
Như vậy đoạnsố một này, Ngài Duy Ma Cật muốn chỉ cho chúng ta thấy tánh tội nó là khôngtướng. Vì nó không phải trong, không phải ngoài, không phải chặng giữa. Nókhông tướng. Mà không tướng tức là nó không thật. Nếu chúng ta trở về tự tánhtìm ra không có, như vậy ngay đó tội sẽ thanh tịnh.
Cho nên đâyông dẫn đoạn sau để thấy. Phật nói vì tâm cấu cho nên chúng sanh cấu, tâm tịnhcho nên chúng sanh tịnh. Hồi nãy dẫn về tánh tội. Bây giờ nói tánh của tâm phảikhông? Chúng sanh thành cấu là do tâm cấu. Chúng sanh thành tịnh là do tâmtịnh. Có phải vậy không? Như mình bây giờ thành người xấu là do cái gì? Do cáitâm nghĩ xấu cho nên mới thành người xấu phải không. Do tâm nghĩ tốt mới thànhngười tốt. Như vậy thành tốt, thành xấu, gốc từ tâm. Tốt, xấu gốc từ tâm, màbây giờ tâm ở đâu? Tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa.Cái tâm như thế, tội cũng vậy. Như vậy thì các pháp cũng vậy. Nó không ra ngoàicác duyên. Tức là xét cho kỹ thì tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ởchặng giữa, để thấy rằng tâm không thật có, phải không? mà nếu tâm không thậtcó, tìm cho cuối cùng thì trở về lặng lẽ, như như. Tâm đã như như thì các tộicũng như. Các tôi như thì chúng sanh cũng như. Chung ta tu nếu biết phản quanglại cái tâm thì thấy nó không thật. Thấy nó không thật thì theo đó tội lỗi dứt.Thấy được như vậy mới là thấy tột cùng của tội lỗi. Chớ còn trên giả tướng mà nóithì tội lỗi là tướng hư dối. Bởi vì thân này và nghiệp, hai cái đó đều là tướngbiến dịch, không có thật. Như vậy trở lại sự tu hành là phải tìm tận cái tánhtội và tìm tận cái tánh của tâm.
Đây mới dẫnchứng cho Ngài Ưu Ba Ly dễ hiểu. Như là Ngài Ưu Ba Ly do tâm tướng mà khi đượcgiải thoát thì thật có cái cấu chăng? Vậy thì cái tâm tướng của Ngài do tu hànhđược thanh tịnh mà được giải thoát. Khi giải thoát nó còn có cấu hay không?Ngài Ưu Ba Ly đáp rằng “không”. Ngài Duy Ma Cật mới kết luận rằng tất cả tâmchúng sanh, tâm tướng chúng sanh không cấu. Cũng lại giống như vậy, nghĩa lànếu tâm chúng sanh cố định là cấu thì mình có bỏ cái cấu được cái tịnh không?Nếu nó cố định thì đâu bỏ được, phải không? Như vậy cấu chỉ là lớp vỏ bề ngoài.Chớ khi mình phá được lớp vỏ bề ngoài đó thì tâm cấu đều trở thành thanh tịnh.Cho nên mới nói ai tu cũng có thể trở thành Phật được. Hay là ai tu cũng có thểgiải thoát được. Bởi vì có thể giải thoát hay là cái thể của Phật đã sẵn ở mọingười. Chỉ bị những phiền não cấu nó phủ che bên ngoài. Khi chúng ta phá vởđược lớp phiền não cấu đó thì tự mình giải thoát, tự mình giác ngộ, chớ khôngcó gì lạ hết. Như vậy mới thấy rằng trên đường tu không phải mình làm chuyệnkhông thể làm được. Bởi vì nó đã có sẵn, mà đã có sẵn thì tất nhiên khéo tìm.Khéo kêu bằng gạt bỏ nhơ nhớp phiền não đó thì nó sẽ sạch. Cũng như tôi thườngdụ, như mình có của báu. Như hòn ngọc hay số vàng, mình để trong hủ mình chôn.Giả sử người cha chôn rồi bảo con rằng: “Ba có chôn hủ vàng hay hủ ngọc ở đâuđó, bây giờ ba có chết thì con đào lên, con lấy xài”. Khi người cha chết, ngườicon biết rõ chỗ cha chôn, chỉ đó biết rành rẽ. Khi biết mình có hủ ngọc ngay ởchỗ đó, đào lên liền lấy được và xài được. Người đó có ngán đào không? Ngán đàokhông? Ngán quá! Sao mà đất không, không thấy, tôi không muốn đào chút nào hết.Có nghĩ vậy không? Mà sao? Cha chết rồi liền lấy cuốc, lấy xuổng ra đào liền,phải không? Bởi vì mình đã có mà dại gì không lấy ra xài.
Bây giờ cũngvậy, tất cả chúng ta Phật đã chỉ mình có tâm giác ngộ, mình có được cái giảithoát ngay nơi mình chớ không thiếu. Phật chỉ cho mình rõ ràng. Mình nghe kinhPhật, mình hiểu được điều đó rõ ràng. Bây giờ mình có ngán tu không? Ngánkhông? Nó có rồi, mà không chịu khơi ra xài để cầu giác ngộ giải thoát nhưPhật. Chẳng lẽ ngồi lúc lắc hoài, ngán quá! Nếu mà lúc lắc hoài, ngán quá! Thậtlà người biết có của mà không chịu tìm xài. Người ta khen là sáng suốt khônngoan hay là ngu dại. Đó thật là dại khờ, phải không? Cho nên chúng ta la ngườivinh hạnh nhất trong bao nhiêu chúng sanh, biết được mình có của báu, giác ngộ,giải thoát đó. Biết rõ rồi thì mỗi người cố gắng, nỗ lực mà khơi dậy nó. Dẹphết những nhơ cấu chung quanh để cái đó nó hiện ra. Chớ đừng chần chờ, đừngnhút nhát, uổng một đời của mình. Đó là nói để cho thấy rõ tinh thần ởđây.