KINH DUY MA CẬTGIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Phần 6
Như vậy đoạnnày chỉ cho chúng ta thấy cái thân rõ ràng rồi. Bây giờ đứng về mặt này là cáimặt Ngài chỉ cho chúng ta chán chê cái thân. Nhưng mà chán chê cái thân này rồiphải làm gì. Rồi tới đó bó tay than thở hay sao? Đây là phải chuyển qua.
Này các nhângiả, cái thân này là cái bệnh hoạn, là cái tai họa đáng chán. Phải thích cáithân của Phật.
Cái thân củamình là tai họa đáng chán. Bây giờ mình phải thích cái thân Phật.
Vì cớ sao?Thân Phật là pháp thân.
Nói thíchthân Phật là cái pháp thân đó.
Từ vô lượngcông đức trí tuệ mà sanh. Từ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiếnmà sanh. Từ từ bi hỷ xả mà sanh. Từ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, nhu hòa, cầnhành tinh tấn, thiền định, giải thoát tam muộc, đa văn, trí tuệ, các Ba la mậtmà sanh.
Ở đây nói tớiThập Ba la mật.
Từ phươngtiện mà sanh. Từ lục thông mà sanh. Từ tam minh mà sanh. Từ 37 phẩm trợ đạo màsanh. Từ chỉ quán mà sanh. Từ thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp mà sanh.Từ đoạn tất cả pháp bất thiện nhóm họp tất cả các pháp bất thiện mà sanh. Từcái không phóng dật mà sanh. Từ cái vô lượng. Cái pháp thanh tịnh như thế màsanh thân Như Lai. Như nhân giả muốn được cái thân Phật phải đoạn tất cả bệnhcủa chúng sanh. Phải phát tâm vô lượng chánh đẳng chánh giác. Ông Trưởng giảDuy Ma nói như thế vì các người đến thăm bệnh nên ông như thế mà thuyết pháp.Khiến cho vô số ngàn người đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Như vậy ôngDuy Ma Cật ổng tùy theo trình độ của những người đến thăm bệnh ông, mà ông vìhọ nói pháp thích hợp với sở nguyện. Hay là với cái nghiệp duyên của họ mà nóipháp. Khiến cho vô số những người đó đều được phát tâm vô thượng chánh đẳngchánh giác. Đó là phần của ông Duy Ma Cật, ông đã có cái khả năng, phương tiệngiáo hóa như vậy.
Như vậy chúngta học qua đoạn này mới thấy tinh thần của Bồ Tát mỗi một hành động, mỗi một cữchỉ nào phát ra cũng là vì chúng sanh mà phát ra phải không? Như đoạn trước cácNgài muốn có tịnh độ thì cũng vì độ chúng sanh mà có tịnh độ. Ở đâytrường hợp các Ngài bệnh, bệnh cũng vì chúng sanh mà bệnh. Chớ không phải vìcái nghiệp duyên riêng của mình. Như vậy thấy tất cả hành động của các vị Bồtát, trường hợp nào cũng là vì người, vì chúng sanh. Phần này nếu giảng cho kỹthì rất là dài. Nhưng tôi nghĩ đây cũng là quen rồi. Ngôn ngữ này chúng ta từngnghe, chỉ giảng sơ quí vị cũng lãnh hội được.
Tới phẩm thứba, phẩm đệ tử. Hai chữ đệ tử, chúng ta đã quen quá rồi, khỏi cần phải giảithích.
PHẨM ĐỆTỬ
Khi ấy ôngTrưởng giả Duy Ma Cật tự nghĩ, nằm bệnh trên giường, Thế Tôn là đấng đại bi đâuchẳng có thương xót.
Đó là lời ôngcó vẻ như sao mình bệnh nằm lâu quá, Phật đại bi mà Ngài không đến thăm viếngmình.
Phật biết ýông cư sĩ Duy Ma Cật, liền bảo Xá Lợi Phất:
Ông đi đếnthăm bệnh ông Duy Ma Cật.
Xá Lợi Phấtbạch Phật:
Bạch Thế Tôn!Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ lại thuở xưa từng ởtrong rừng ngồi yên dưới cội cây. Khi ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng:“Vâng! Xá Lợi Phất, không hẳn ngồi ấy là ngồi yên. Phàm ngồi yên thì không cóhiện thân ý ở tam giới, ấy là ngồi yên. Không khởi diệt tận định mà hiện cácoai nghi, ấy mới gọi là ngồi yên. Không bỏ đạo pháp mà hay hiện cái việc phàmphu, ấy mới là ngồi yên. Tâm không trụ ở trong, cũng không ở ngoài, ấy mới làngồi yên. Đối với kiến chấp không động mà hay tu 37 phẩm trợ đạo, ấy mới làngồi yên. Không đoạn phiền não mà vào Niết bàn, ấy mới là ngồi yên. Nếu hay nhưthế mà ngồi thì Phật sẽ ấn chứng cho. Khi ấy! Bạch Thế Tôn con nghe những lờinói này lặng thinh mà thôi. Không thể nào đáp được. Cho nên con không có khamđến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.
Đây là mộthình ảnh, bởi thường chúng ta hay nghĩ, mình đến dưới cội cây, ngồi trong rừngvắng một mình. Đó là ngồi yên, phải vậy không? Hoặc giả không như vậy thì khuyamình ngồi yên trên Thiền đường hoặc ngồi trong một cái thất hoặc ngồi ngoàihành lang chẳng hạn. Có một mình lặng lẽ, đó là ngồi yên phải không? Quan niệmmình ngồi như vậy là ngồi yên. Nhưng với ông Duy Ma Cật, ông không nói như vậy.Ông không thấy mình ngồi một mình lặng lẽ là ngồi yên. Mà ông bảo muốnngồi thì phải làm sao? Muốn ngồi yên là ở trong tam giới mà không hiện thân ýđó mới là ngồi yên. Tại sao trong tam giới mà không hiện thân ý. Tức là ngaymình đang sống trong tam giới. Cõi mình là cõi dục giới. Còn sắc và vô sắc nữa.Nhưng hiện sống trong tam giới này mà tâm mình ý mình nó không có duyên theotam giới. Hay là thân mình không hiện trong tam giới. Ấy mới là ngồi yên. Nóimột cách khác cho dễ hiểu hơn, nghĩa là ngay trong tam giới mà không thấy tâmmình động. Thì đó mới thật là ngồi yên.
Như vậy cáingồi yên này dễ hay khó. Như mấy chú thấy mình ngồi trong Thiền đường thấy yênlặng tốt quá. Nhưng mà lúc đó yên không? Thân thì nghiêm chỉnh, tạm yên đó nhưngcái tâm làm sao? Nếu không phải ngủ gục thì nó hay chạy. Mà chạy là động hayyên. Như vậy Ngài không nói cái chạy lên cõi trời sắc giới, vô sắc giới cũngchưa phải là ngồi yên nữa. Huống nữa là những cái chạy lăng xăng, xóm làng gầngần, cái đó thật là thông thường. Như vậy khi nào thân tâm không động, lúc đómới gọi là ngồi yên.
Rồi một câukế Ngài liền nói rằng:
Không có khởitức là không có xã là dậy trong diệt tận định mà hiện các oai nghi. Đó mới làngồi yên.
Bởi thườngcác vị tu theo Nhị Thừa, khi nhập Diệt tận định, lúc đó thân thường như chếtvậy. Chỉ còn có chút hơi ấm mà không còn hơi thở. Chỉ còn ấm mà không có hơithở. Thường thường nói không thở thì chết, phải không? Như vậy mà ngồi lặng lẽnhư chết, thì gọi đó là nhập diệt tận định. Nhưng ở đây ông nói rằng chưa có xãdiệt tận định mà hiện các oai nghi. Ấy mới là ngồi yên. Nếu mà đứng dậy đi, đólà xả Diệt tận định rồi. Các oai nghi là đi, đứng, nằm, ngồi phải không? Bâygiờ không xả Diệt tận định làm sao đi, đứng, nằm, ngồi, mọi hoạt động bìnhthường mà tâm giống như người nhập diệt tận định vậy. Vậy mới gọi là ngồi yên.Chớ còn nhập Diệt tận định mới là yên, mà ngồi yên đó, yên mà như chết, không hoạtđộng. Cái yên đó không phải là yên thật.
Bởi vậy chonên trong nhà Thiền hay là Lục Tổ, Ngài hay nói rằng, nếu thấy có nhập có xuấtthì chưa phải là đại định đó phải không? Còn có nhập, còn có xuất tức là còn cóđộng. Bởi vậy nên ở đây nói rằng tâm mình làm sao mà đi, đứng, nằm, ngồi hoạtđộng mà vẫn lặng lẽ như người ở trong Diệt tận định. Đó mới là thật ngồiyên.
Không xả đạopháp mà hiện việc phàm phu, ấy mới là ngồi yên.
Không xã đạopháp tức là sống đúng với tinh thần đạo pháp, mà làm các việc phàm phu. Đó mớilà ngồi yên. Như chuyện gì? Như làm sao? Tôi thí dụ.
Thí dụ: như việcphàm phu là việc gì? Việc cuốc rẫy, phải không? Việc làm ruộng. Đó là việc phàmphu chớ gì? Làm ruộng, cuốc rẫy đó là việc phàm phu. Khi làm việc phàm phu nhưvậy mà tâm hồn mình không rời đạo pháp, đó mới là ngồi yên. Chớ còn làm việcphàm phu rồi tính theo phàm phu. Tính lúa trúng, lúa thất. Rồi tính cái này,tính cái kia. Cuốc đất mà không cuốc đất. Cuốc đất mà nhớ chuyện ở xứ này, xứnọ... cái đó là chư phải ngồi yên. Cho nên trong khi mình làm những việc phàmphu đó mà tâm mình không rời đạo pháp. Như vậy mới thật là ngồi yên.
Tâm không ởtrong cũng không ở ngoài, ấy mới là ngồi yên.
Thường chúngta có hai trạng thái. Một là thấy tâm ở trong. Hai là thấy tâm chạy ra ngoài,phải không? Khi nào nó không chạy, lúc đó ở trong hay ở ngoài? Lúc không chạymấy chú thấy ở trong hay ở ngoài? Thường thường nó không chạy, tâm tôi ở trongđó, nó đang yên ở trong. Còn nếu nó phóng ra thì nói tâm ra ngoài. Nhưng sựthật tâm chạy ra hoặc là tâm trụ ở trong, cái đó nó không thật, phải không? Nólà bóng dáng. Đã là bóng dáng thì đâu có thật. Không thật thì nói gìtrong, nó gì ngoài. Còn nếu tâm thật thì nó trùm hết. Nó không ở trong, không ởngoài. Còn mình sống với cái tâm chạy đó, khi nó chạy ra, thấy ở ngoài. Khikhông chạy ra thấy nó ở trong. Đó là sống với cái tâm bóng dáng, không thật.Chừng nào mình thấy được cái tâm thật, không phải trong, không phảingoài, đó mới thật là ngồi yên.
Đối với cáckiến (kiến tức là kiến chấp. Kiến chấp của ngoại đạo đó). Không động mà tu 37phẩm trợ đạo, ấy mới là ngồi yên.
Tức là thườngthường mình muốn tu theo chánh pháp, mình phải diệt những tà kiến, phải không?Diệt tà kiến thì mới theo chánh pháp. Đây là tà kiến không cần diệt mà vẫn hànhđược chánh kiến. 37 phẩm trợ đạo đó. Thuộc về chánh kiến. Như vậy mới là ngồiyên. Câu này và cây sau là chỉ cho mình không còn thấy có hai. Không còn thấyđây là tà. Kia là chánh. Như vậy mới thật là ngồi yên. Bởi vậy nên câukế:
Không có đoạnphiền não mà vào niết bàn, ấy mới là ngồi yên.
Mình còn thấyphiền não nên đoạn. Niết bàn nên chứng. Như vậy vẫn còn thấy có hai. Phiền nãokhông cần đoạn. Niết bàn không cần vào. Bởi vì phiền não, Niết bàn không hai.Bởi thấy không hai đó mới là ngồi yên. Nếu được như vậy mới gọi là được Phật ấnchứng.
Như vậy đoạnnày ý của ông Duy Ma Cật muốn chỉ cho Ngài Xá Lợi Phất cũng như nhiều ngườikhác biết rằng, muốn được yên, thì không phải chỉ cái thân tướng ở chỗ vắng vẻ làyên. Mà chính tâm mình không còn thấy có hai bên, cái đó mới thật là yên. Chớnếu tâm mình còn thấy hai bên, thì đó chưa phải là ngồi yên.
Đó là đoạnthứ nhất. Đoạn kế
Phật bảo:
Đại Mục KiềuLiên, ông đi đến thăm bệnh Duy Ma Cật.
Mục Kiều Liênbạch Phật:
Thế Tôn! Conkhông kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ lại thuở xưa vào trong đạithành Tỳ Da Ly, ở trong đường hẻm, vì các người cư sĩ nói pháp. Khi ấy ông Duy MaCật đến bảo con rằng:
Vâng! Ông ĐạiMục Kiều Liên, vì bạch y cư sĩ nói pháp không phải như nhân giả đã nói. Phàmnói pháp phải ‘nghi?’ pháp mà nói. Pháp không có chúng sanh vì lìa chúng sanhcấu. (Chữ cấu là một lý luận, chữ cấu là quan trọng). Pháp không có chúng sanh.Tại sao? Vì nó đã lìa chúng sanh cấu. Pháp không có ngã vì lìa cái ngã cấu.Pháp không có người vì mé trước mé sau dứt. Pháp thường lặng lẽ vì diệt cáctướng. Pháp lìa hư tướng vì không có sở duyên. Pháp không có văn tự vì ngô ngữđoạn. Pháp không có thuyết vì lìa giác quán. Pháp không có hình tướng vì như hưkhông. Pháp không có hý luận vì cứu cánh không. Pháp không có ngã sở vì lìa ngãsở. Pháp không phân biệt vì lìa các thức. Pháp không có so sánh vì lìa đối đãi(chữ “tương đối” chớ không phải “tướng đối”). Pháp chẳng thuộc nhân vì không ởduyên. Pháp đồng với pháp tánh vì vào các pháp. Pháp tùy nơi nghi vì không cóchỗ tùy. Pháp trụ thật tế vì các bên không động. Pháp không có đến đi vì thườngtrụ. Pháp thuận với không. Pháp tùy vô tướng. Pháp ứng vô tác.
Câu đó nhưvậy mới rõ. Pháp thuận với không. Nó tùy vô tướng, nó ứng với vô tác. Ứng hợpvới vô tác.
Pháp lìa đẹpxấu. Pháp không có tăng giảm. Pháp không có sanh diệt. Pháp không có chỗ trởvề. Pháp vượt ra ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm. Pháp không có cao thấp.Pháp thường trụ chẳng động. Pháp lìa tất cả quán hạnh.
Vâng! Đại MụcKiều Liên, pháp tướng nó như thế. Há có thể nói ư! Phàm người nói pháp khôngnói không bày. Người nghe pháp kia không nghe không được. Ví như là người huyễnmà nói pháp. Phải dựng lập ý như vậy mà vì nói pháp. Phải rõ chúng sinh, căn cơchúng sinh có lợi độn. Khéo nơi tri kiến không có sự chướng ngại. Dùng tâm đạibi mà tán thán đại thừa. Nhớ đền ơn Phật. Không có dứt tam bảo. Nhiên hậu mớinói pháp.
Ông Duy MaCật khi nói lời ấy, 800 cư sĩ phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Conkhông có cái biện tài này. Thế nên không thể đến thăm bệnh ông được.
Như vậy đâylà trường hợp Ngài Mục Kiều Liên. Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiều Liên là hai vịthượng thủ ở trong giáo đoàn của Phật. Mở đầu Ngài Xá Lợi Phất đã lui rồi, bâygiờ tới Ngài Mục Kiều Liên. Câu chuyện Ngài Xá Lợi Phất dễ hiểu hơn Ngài MụcKiều Liên, phải không? Ngài Mục Kiều Liên ở trong đường hẻm nói pháp cho cư sĩnghe, ông Duy Ma Cật mới bảo rằng:
Vì bạch y cưsĩ mà nói pháp, không phải như nhơn giả nói. Vì bạch y cư sĩ không phải nóikiểu đó đâu. Phải nói làm sao? Phải như pháp mà nói. Như pháp mà nói là làmsao? Tức là thường thì các vị đệ tử của Phật cũng như chúng ta bây giờ nói pháplà đứng trên tướng của pháp mà phân biệt giảng nói. Thành ra nói là nói cáipháp. Còn ông Duy Ma Cật bảo như pháp mà nói, tức là đi thẳng vào pháp tánh mànói. Chớ không phải nói theo pháp tướng nữa.
Ví dụ: nhưmình nói 37 phẩm Trợ Đạo. Rồi mình nói nào Tứ đế, nào Thập Nhị Nhân Duyên... Đólà trên tướng. Còn như pháp tánh mà nói thì thế nào. Pháp tánh là pháp không cóchúng sinh. Vì sao? Vì lìa chúng sanh vì không còn cấu nhơ của chúng sanh. Rồipháp tánh đó không có ngã vì lìa ngã cấu...
Như vậy đứngvề mặt pháp tánh thì nó không có tất cả cái này. Vì sao? Vì nó lìa tất cả cáiđó. Hiểu một câu thì mấy câu sau hiểu, phải không? Rồi tới đoạn sau như ông nóirằng Phật tùy nơi như: Tức là pháp tánh, Như là Như Như. Pháp tánh kà bất sanhbất diệt, bất dao động. Cho nên nó không có chỗ tùy. Nói tùy mà không có chỗtùy. Pháp trụ thật tế. Pháp tánh chọn nét chân thật cho nên nó không có mé nàymé nọ, không động. Cho tới đoạn sau nói rằng, pháp thuận không tùy vô tướng ứngvô tác. Bởi vì pháp tánh nó không tướng nên gọi là thuận không. Mà đã khôngtướng nên gọi là tùy vô tướng ứng vô tác.
Bởi vì pháptánh nó không tướng nên gọi là thuận không. Mà đã không tướng nên không có tạotác. Cho nên gọi là vô tác. Bởi vì pháp tánh nên đâu nói đẹp, nói xấu. Mình nóiđẹp xấu, nói thêm bớt, nói sanh diệt, là đứng trên pháp tướng mà nói. Pháp tánhkhông có tất cả cái đó. Bởi vậy ta mới nói rằng pháp tánh vượt ra ngoài cả mắt,tai, mũi, lưỡi, tâm. Tâm tức ý đó.
Như vậy ở đâycâu kết thúc của ông, người nói pháp không nói không bày. Còn người nghe pháp,không nghe không được. Bởi vì pháp tánh, mà pháp tánh làm sao nói được. Mởmiệng nói thì trên cái đối đãi. Mà đối đãi là tướng chớ không phải tánh nữa.Cho nên pháp tánh thì không nói, không bày. Còn vì pháp tánh thì lấy gì nghe.Nếu nghe, ngôn ngữ thì cái nghe đó nằm trong đối đãi. Ngôn ngữ thuộc về đốiđãi. Vì vậy mà nói người nghe không nghe không được. Như vậy pháp tánh là tự mìnhkhế hợp. Còn nghe pháp tánh là cũng tự mình nhận ra chớ không phải có nói cónghe. Có nói có nghe là không thật. Cho nên câu ông muốn nhắc cho chúng ta biếtrõ, ví như người huyễn vì người huyễn nói pháp phải kiến lập ý đó, thì nói phápmới được. Như vậy người huyễn là gì, người huyễn nói pháp làm sao? Mình nói phápthì thường thường mình nói đây là cái pháp thiện, đây là cái pháp ác. Thiện thìmình ráng tu. Cái này ác mình ráng bỏ, phải không? Thường chúng ta nói pháp lànhư vậy.
Nhưng nếu nóivậy là pháp tướng hay pháp tánh? Đó là pháp tướng. Pháp tướng thì nằm trongsinh diệt. Nếu mình nói như vậy mình đừng thấy đây là thiện thật, đây là ácthật. Mình nói đó mình phải thấy rằng, chuyện giảng dạy của mình bây giờ giốngnhư người huyễn nói pháp cho người huyễn nghe vậy thôi. Người nói cũng làhuyễn, người nghe cũng là huyễn, người nghe cũng là huyễn. Thấy như vậy đừng cóchấp thật thì mới đúng là tinh thần nói pháp mà mình thấy nói ra là pháp đốiđãi, mà đối đãi là không thật, mà mình thấy mình nói thật thì pháp thật đó làđã không đúng tinh thần nói pháp rồi, phải không? Nên ông nhắc lại câu đó. Phảinhớ rõ ràng như vâỵ. Đó là một ý nghĩa thứ nhất.
Rồi ý nghĩathứ hai là ông bảo mình nói pháp thì phải biết căn cơ chúng sanh lợi độn. Khéođối với cái thấy biết không bị chướng ngại. Dùng đại bi tán thán đại thừarồi để đền ơn Phật, không có dứt tam bảo thì mới nên nói pháp. Đó là ý thứhai.
Thường thườngmình chưa được tha tâm thông thì làm sao mình biết căn cơ chúng sanh lợi độn mànói pháp. Bây giờ mấy chú làm sao biết. Bây giờ có người tới mình, họ muốn hỏi đạo.Khi tới mình kêu ngồi đây rồi giảng ào ào một hồi, rồi thôi đi. Như vậy đó đượckhông? Hay phải làm sao? Đó là cái tôi chỉ cho phải biết. Phần nhiều người ta tới,tức là những người có tánh cách như là khao khát tìm hiểu. Tới có khi nào tôinói, tôi hỏi: “Đạo hữu muốn hỏi cái gì? Đạo hữu tu làm sao? Ở nhà đọc kinh sáchgì?” Mình chưa có tha tâm thông thì đâu biết trình độ họ cao thấp. Chính cái họtrình bày cho mình đó. Nói ở nhà đã tu thế này. Hoặc tu thế kia. Hoặc đọc kinhsách nào, thì mình mới biết người đó trình độ tới đâu. Nhân đó mình nói sẽ dễgần với họ hơn. Chớ mà tới, có nhiều sư mình vì thấy đạo lý hay quá, thích, gặpai cũng muốn xổ cho họ nghe. Cho nên ở đây bảo, trước phải biết căn cơ họ lợiđộn. Rồi kế đó mình phải làm sao? Mình khéo đối với cái thấy biết đừng bịchướng ngại và khởi tâm đại bi đề cao pháp đại thừa.
Như vậy làcốt đền ơn Phật, mới đáng là người nói pháp. Nói pháp là cốt đền ơn Phật, chớikhông phải nói pháp là tỏ mình hay.
Như vậy đoạnnày kết luận lại là Ngài Mục Kiều Liên, Ngài nói pháp cho cư sĩ là đứng về mặtpháp tướng, chia chẻ, phân tích cho họ hiểu. Ông Duy Ma Cật, ông nhìn bằng pháptánh. Cho nên ông chê nói như vậy không hợp, phải nói nói thẳng nơi pháp tánh.Nhưng mà pháp tánh rốt cùng không có người hay nói và cũng không có người nghe.Đó là cái chỗ chân thật.
Bây giờ tớiNgài Đại Ca Diếp.
Phật bảo NgàiCa Diếp:
Ông đến thămbệnh ông Duy Ma Cật.
Ngài Ca Diếpbạch Phật rằng:
Thế Tôn, conkhông kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ lại thuở xưa ở trong xómnghèo mà đi khất thực. Khi ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng: Vâng! Đại CaDiếp có lòng từ bi, mà không thể khắp hết. Bỏ nhà giàu có để đi đến những nhànghèo khất thực. Vì không ăn nên hành khất thực. Vì phá hoại cái hòa hợp tướngnên nhận thức ăn từng nắm, từng muỗng. Vì không thọ nên nhận thức ăn kia. Vìdùng cái tươngr không tụ (không tụ tức là họp lại). Từ cái chỗ không mà vàotrong xóm làng. Chỗ thấy có sắc cùng với người mù đồng. Chỗ nghe tiếng cùng vớivang đồng. Được ngửi mà không phân biệt các xúc như trí chứng. Biết các phápnhư tướng huyễn. Không tự tánh, không tha tánh. Vốn tự xưa không sanh, nay cũngkhông diệt (Bản tự tất nhiên tức là xưa tự không sanh, nay cũng không diệt).Này Ca Diếp, nếu nay không xả 8 cái tà, vào 8 giải thoát. Dùng tướng tà mà vàocái pháp chánh. Dùng 1 thức ăn mà thí tất cả. Cúng dường chư Phật và các bậchiền thánh, nhiên hậu mới có thể ăn. Người ăn như thế không có phiền não, khôngcó lìa phiền não. Không có vào định ý, cũng không có khởi định ý. Không trụ thếgian cũng không trụ Niết Bàn. Cái người thí cho họ không có phước lớn, không cóphước nhỏ, không có thêm, không có bớt. Ấy mới gọi là chánh vào Phật đạo. Khôngy nơi hàng Thanh Văn. Ngài Ca Diếp nếu ăn như thế là không uổng của người thíchủ.