KINH DUY MA CẬTGIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Phần 3
Cái pháp tamchuyển pháp luân tức là pháp Tứ Đế, đó là cái pháp xưa nay thường thanh tịnh. Chư thiên và người nhờ được pháp này mà chứng được đạoquả. Khi đó mới có đầy đủ tam bảo. Phật là Phật bảo. Pháp Tứ Đế là Pháp bảo. Nămanh em ông Kiều Trần Như ngộ đạo thành Tỳ Kheo là Tăng Bảo.
Do cái phápdiệu này, dùng cái này mà cứu tế quần sinh. Một phen nhận không có lui sụt.Thường được yên lặng sáng suốt.
Hai câu nàylà để nói kết quả của cái pháp mà Phật nói. Cái pháp vi diệu của Phật nói đó,dùng cái pháp đó để mà cứu tế quần sinh. Ai mà nghe được cái pháp đó rồi đềubất thối chuyển. Rồi đi đến chỗ thường vắng lặng thanh tịnh.
Độ được già,bịnh, chết. Là bậc thầy thuốc, độ được già, bịnh, chết nên lễ cái pháp hải. Cáiđức nó không có ngằn mé. Bởi vậy cho nên lễ cái pháp rộng lớn như biển, khôngcó ngằn mé.
Hai câu nàyđể tán thán tiếp về pháp đó. Phật dùng pháp này mà độ tất cả những người đã tintươngr được qua khỏi vòng già, bịnh, chết. Cho nên Ngài là một ông thầy thuốc. Vìvậy mà kính lễ cái pháp có đầy đủ công đức vô lượng vô biên đó.
Bây giờ bốncâu này nói:
Khen chêkhông động như Tu Di.
Nơi thiện, chẳngthiện, bình đẳng dùng lòng từ.
Tâm hành bìnhđẳng như hư không.
Ai nghe nhận bảokhông kính vâng.
Khen ngợi đứcPhật, Ngài đối với kẻ khen người chê đều không có động. Giống như hòn núi Tu Divậy. Dầu cho có giông bảo, nó vẫn trơ trơ. Đối với người thiện, bất thiện (làngười ác). Ngài làm sao? Ngài đều bình đẳng do lòng từ bi của Ngài. Tức là Ngàidùng tâm từ bi mà nhìn người thiện, người ác đều thương xót bình đẳng chớ khôngcó riêng khác. Còn mình bây giờ làm sao? Các người mình cho là hiền thì họ khổmình thương phải không. Người mình cho là dữ họ khổ thì mình làm sao? Mìnhcười, đáng kiếp phải không? Đó, luôn luôn mình có cái tâm chỉ thương người hiềnmà không thương người dữ. Còn Phật thì từ bi, Ngài thương cả hai. Người hiềnngười dữ Ngài vẫn thương bình đẳng. Bởi vậy nên nói tâm hành của Ngài bìnhđẳng, giống như hư không vậy. Mà tâm Ngài đã bình đẳng như hư không thì ai ngheđược con người quí báu của Ngài mà không kính không vâng theo.
Nay dâng ThếTôn cái lọng bé này ở trong hiện ra cả tam thiên đại thiên thế giới của con.Nào là chư Thiên, Long, Thần, các Càn Thát Bà... và Dạ Xoa thảy đều thấy cáccái có ở thế gian đều thấy rõ (tức là cái gì có ở thế gian đều thấy rõ). Đấythập lực Ngài thương xót mà hiện ra cái biến hóa này.
Đó là bốn câunhắc lại, khen ngợi thần lực của Phật. Khi Ngài biến các lọng riêng thành mộtcái lọng lớn chung. Rồi các thế giới, đều hiện trong đó. Đó là cái điều rất hyhữu.
Chúng thấycái hy hữu đều tán thán Phật. Nay con cúi đầu đảnh lễ bậc tôn ở trong tamgiới.
Bởi vì chúngthấy việc làm của Phật đó là việc chưa từng có, cho nên họ đều tán thán. Bâygiờ con sẽ đảnh lễ Ngài vì Ngài là bậc tôn trong tam giới.
Ngài là bậcđại thánh, là đấng pháp vương mà mọi người đều qui ngưỡng. Hay mọi người đềuhướng về. Tâm thanh tịnh quán Phật đâu chẳng vui. Người nào đem tâm thanh tịnhmà quán xét nơi Phật đều có cái niềm hân hoan. Mỗi người đều thấy Thế Tôn ởtrước mình. Đây là do thần lực của pháp bất cộng.
Khen ngợiPhật là đấng đại thánh, là đấng pháp vương. Ngài là chỗ mà mọi người đều quihướng. Nếu người nào trong tâm thanh tịnh mà nhìn thấy Phật đều có niềm hoanhỷ. Và mỗi người như thấy Phật ở trước mình. Cái điều đó do thần lực của phápbất cộng mà ra.
Phật dùng mộttiếng diễn nói pháp, chúng sanh tùy theo loại, mỗi người được hiểu. Đều bảo ThếTôn đồng với tiếng nói của mình. Đây ắt là thần lực của pháp bất cộng.
Đây là để tánthán pháp của Phật nói. Khi Phật nói pháp chỉ có một thứ tiếng, mà mỗi ngườimỗi loài, mỗi người nghe đều thấy Phật nói tiếng của mình. Bởi vậy cho nên đềukính ngưỡng, đều hiểu biết. Đó là do thần lực của pháp bất cộng. Mình bây giờquí vị thấy mình nói tiếng mình với với dân của Việt Nam mình đó thì nghe hiểu. Nếu mìnhnói tiếng Việt Namvới một người Hoa, một người Nhật, một người Pháp, họ hiểu không? Như vậy thìtiếng mình chỉ có mình hiểu thôi. Còn qua một nước khác, người khác không hiểu.Còn hội của Phật mà chúng qui tụ lại đó, có bao nhiêu thứ người. Nào là ngườinè, nào là Trời nè, nào là Bồ Tát các nơi đến nè. Nào là Quỉ, Thần, Dạ Xoa, CànThát Bà, A Tu La...Đủ hết. Mà Ngài nói pháp thì ai cũng nghe như tiếng nói của mình.
Bây giờ tôinói gần, thí dụ như mình cùng một nước với nhau, giáp ranh mình với người Miên,mà người Miên nói mình nghe được không, nếu mình không học. Mình nói họ ngheđược không? Nếu họ không học tiếng mình. Như vậy đó người ở cõi Trời với mìnhnói tiếng giống nhau không? Như vậy mà Phật nói pháp ra tất cả loài đều nghetiếng của Phật như nói với mình vậy. Như vậy thì mấy chú mới thấy khỏi cần họcsinh ngữ làm chi cho cực há. Tu thành Phật rồi nói một thứ tiếng rồi họ ngheđều thành tiếng của họ. Sướng hơn không, phải không? Chớ bây giờ nếu mà học hếtcác thứ tiếng để mà nói cho thiên hạ nghe đó thì bao nhiêu, một đời mình họchết chưa. Một đời học cũng chưa rồi nữa. Bây giờ mình chỉ tu thành Phật là mìnhnói một thứ tiếng, mà ai nghe tiếng mình nói là tiếng của họ đó, họ đều hiểu.Sướng biết bao nhiêu. Như vậy thì đi cái nào tắt hơn. Đó là cái chỗ rất là rõràng.
Phật dùng mộttiếng diễn nói pháp,
Chúng sanh mỗimỗi tùy chỗ hiểu,
Khắp được thọhành và được lợi ích.
Cái lợi này, đâylà cái thần lực của pháp bất cộng.
Như vậy Phậtdùng một thứ tiếng thôi mà Ngài nói pháp ra thì mỗi loài đều hiểu, rồi đều đượclợi ích. Thực hành được lợi ích thì đó cũng là do cái pháp thần lực của Phậtpháp bất cộng. Do cái thần lực của pháp bất cộng mà ra.
Phật dùng mộttiếng diễn nói pháp,
Hoặc có sợ hãi,hoặc vui vẻ,
Hoặc tâm nhàmlìa hoặc dứt nghi.
Đây ắt thần lựcpháp bất cộng.
Tại sao vậy?Phật nói có một pháp thôi. Một thứ tiếng thôi. Mà có người nghe thì sợ, cóngười nghe thì vui mừng, có người nghe thì sanh chán, lìa chán, có người nghethì lại dứt nghi.
Bây giờ tôithí dụ như vầy. Thí dụ như Phật nói câu, nói rằng ai làm thập ác thì phải đọađịa ngục, ai tu thập thiện được sanh lên lên cõi trời. Như vậy người nào mà làmthập ác nghe nói vậy thì sao? Đâm ra hoảng sợ. Còn người đã tu thập thiện, nghenói vậy thì sao? Vui mừng. Rồi còn người hồi đó giờ họ cũng có làm lành. Tức làchán lìa. Còn ngưòi mà hồi đó giờ, họ thấy người này làm lành, người kia làmác, mà họ không biết rồi kết quả ra sao? Bây giờ nghe vậy, thì hết nghi phảikhông? Như vậy chỉ một câu nói đó mà có kẻ thì sợ, có kẻ thì mừng, có kẻ thìchán, có kẻ thì hết nghi. Như vậy để thấy rõ cái ý nghĩa đó mà được cũng dothần lực của pháp bất cộng. Bây giờ Ngài kính lễ.
Kính lễ mườiphương thập lực đại tinh tấn.
Kính lễ đã đượcvô sở quí.
Kính lễ trụ nơipháp bất cộng.
Kính lễ tất cảđại đạo sư.
Bây giờ giảngtừng câu cho rõ. Nói rằng kính lễ Phật thập lực đại tinh tấn. Đó là Phật đó,tức là con kính lễ Phật. Ngài là đấng đầy đủ thập lực và đầy đủ đại tinh tấn.Kính lễ đã được vô sở quí. Tức là Phật đã chứng được tứ vô sở quí. Kính lễ trụnơi pháp bất cộng. Ngài được pháp bất cộng pháp đó. Rồi kính lễ nhất thiết đạiđạo sư của tất cả.
Kính lễ hayđoạn các kiết phược.
Tức là Ngàilà một người hay đoạn được tất cả những trói buộc ở trong ngũ dục hày là ởtrong tam giới. Vì vậy mà con kính lễ Ngài.
Kính lễ đãđến bờ kia.
Tức là conkính lễ Ngài vì Ngài là người đã đến được bờ giác ngộ.
Kính lễ hayđộ các thế gian.
Con kính lễNgài, vì Ngài là người độ được tất cả thế gian.
Kính lễ hằnglìa đường sanh tử.
Con kính lễNgài vì Ngài là người đã lìa được con đường sanh tử. Đó là phần kính lễ. Bâygiờ.
Thảy biếtchúng sanh tướng qua lại.
Khéo nơi cácpháp được giải thoát.
Không chấpthế gian như hoa sen,
Thường khéovì hạnh không tịch.
Đây là bốncâu tán thán Phật. Nói rằng Ngài là người khéo biết được các tướng qua lại củachúng sinh. Chúng sinh qua lại trong ngũ đạo lục thú như thế nào, Ngài thấybiết hết. Rồi Ngài không dính mắc ở thế gian, giống cũng như hoa sen, nó rakhỏi bùn không còn một chút hôi hám của bùn. Ngài thường khéo vào được các hạnhkhông tịch. Không tịch là cái hạnh rỗng lặng.
Đạt được cáctướng không có quái ngại.
Tức là không cóbị chướng ngại.
Đảnh lễ như hưkhông vô sở y.
Câu này hơikhó hiểu. Nói rằng Ngài là người đạt được pháp tướng. Thấu suốt không còn cáigì chướng, cái gì ngại nữa hết. Bây giờ con kính lễ Ngài như hư không, khôngchỗ y. Câu cuối này không còn lễ Phật với tính cách hình tướng nữa. Nếu hìnhtướng thì còn chỗ nương chỗ tựa. Mà đã như hư không, không chỗ y thì tức làkhông có hình tướng. Như vậy câu chót là đảnh lễ Phật nào. Phật vô y đó. Thườngthường mình học trong Thiền, có câu gì đạo nhơn đó? Vô y đạo nhơn. Hay đạo nhơnvô y. vô y tức là không chỗ nương. Không chỗ nương tức là không tựa, không dựa vàocái gì hết. Mà không tựa là không có tướng phải không? Còn có chỗ nương, chỗtựa là còn có hình tướng. Mà ở đây cuối cùng Ngài đảnh lễ chỗ không chỗ tựa,không có hình tướng đó, tức là đảnh lễ pháp thân.
Như vậy tấtcả những lời tán thán này là tán thán tam bảo. Rồi cuối cùng là tán thán phápthân. Mà pháp thân thì không phải chỉ có Phật mới có, mà nơi mọi người chúng taau cũng có. Như vậy hai đoạn này mới có phần diễn tả hội của chư Bồ tát tập hợpnghe Phật nói pháp. Trong hội này chư Bồ tát mới tán thán công đức của Phậtthôi. Chớ còn chưa nói gì đến phần giáo lý thâm sâu mà ông Duy Ma Cật đối đápvới các vị Tỳ Kheo. Hay là các vị La Hán, các vị Bồ tát.
Khi ấy ôngTrưởng giả Bảo Tích nói kệ này rồi bạch Phật rằng:
Thế Tôn 500ông Trưởng giả này đều đã phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Mong nghecõi Phật thanh tịnh. Mong được nghe cõi Phật thanh tịnh. Cúi mong Thế Tôn nóicái hạnh cõi Phật thanh tịnh của các vị Bồ tát.
Phật bảo:Lành thay! Bảo Tích, mới hay vì chư Bồ tát mà hỏi cái hạnh thanh tịnh của NhưLai. Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, sẽ vì ông nói.
Khi ấy Bồ tátvà 500 ông Trưởng giả vâng lời Phật dạy lắng nghe.
Đoạn này mởđầu chưa có gì cần nói.
Phật bảo: BảoTích, những loài chúng sinh là cái cõi Phật của Bồ tát. Vì cớ sao Bồ tát tùychỗ hóa độ chúng sinh mà nhận lấy cõi Phật. Vì cái chỗ điều phục chúng sinh mà nhậnlấy cõi Phật. Vì chúng sinh tin dùng cõi Phật như thế nào mà vào được trí huệPhật, mà nhận lấy cõi Phật. Tùy các chúng sinh nên dùng cõi Phật thế nào đểkhởi thiện căn. Ông Bảo Tích hay là gốc của Bồ tát mà nhận lấy cõi Phật. Vì cớsao Bồ tát nhận lấy cõi Tịnh độ đó, đều vì làm lợi ích cho chúng sinh. Ví nhưcó người muốn ở trong chỗ đất trống mà xây dựng nhà cửa hay là nhà cung. Tùy ýkhông trở ngại. Nếu ở chỗ hư không thì trọn không thể xây dựng được. Bồ tátcũng như thế vì thành tựu chúng sinh cho nên nguyện nhận lấy cõi Phật.
Nguyện nhậnlấy cõi Phật, không phải là cái nguyện suông. Đây là đoạn mà chúng ta phải chúý. Đức Phật mới giải thích cho Ngài Bảo Tích và các vị Trưởng giả biết rằng cácloài chúng sinh là cõi tịnh độ của Bồ tát. Tại sao vậy? Bởi vì Bồ tát mà nhậnlấy cõi Phật thanh tịnh là không phải vì mình thụ hưởng mà nhận lấy cõi đó. Mànhận lấy cõi đó là vì làm lợi ích chúng sinh. Rồi tùy chúng sinh được giáo hóahoặc là vì điều phục những chúng sinh đó mà nhận lấy các cõi Phật. Chúng sinnhthích những gì, những cõi nước. Như thế nào để họ tu hành, đạt đến trí tuệPhật, thì các vị Bồ tát sẽ nhận lấy cõi Phật tương xứng như vậy để mà giáo hóahọ. Khiến cho họ phát căn lành tu hành tới cái quả Bồ tát hay quả Phật. Như vậyBồ tát mà nhận lấy cõi tịnh độ đó đều là vì lợi ích cho chúng sinh, chớ khônglà vì riêng mình.
Bây giờ tôinói một thí dụ nhỏ thôi. Giả sử như chúng ta ở đây, có người họ cất chùa. Muốncất chùa được trang trọng thì chỉ vì mình mà cất chùa. Như vậy cất chùa để tạocảnh trí trang trọng. Như vậy đó có phải là Bồ tát vì chúng sinh không? Còn nếubây giờ vì muốn có một chỗ trang nghiêm để giúp cho mọi người tu hành. Cảnhtrang nghiêm đó là vì lợi ích cho nhiều người. Nhắm thẳng vì nhiều người màlàm. Thì cái đó là vì chúng sinh mà tạo cái cảnh tịnh độ. Như vậy tâm của Bồtát là lúc nào cũng nhắm thẳng vào chúng sinh là cái tịnh độ của Bồ tát. Câu đólà câu thật là nghiêm trọng. Nghĩa là nếu Bồ tát làm mà ngoài cái ý muốn, ngoàisự giáo hóa chúng sinh thì đó không phải là Bồ tát rồi, phải không?
Như vâỵ cõiPhật thanh tịnh của chư Bồ tát là vì lợi ích chúng sinh mà lập. Vì lợi íchchúng sinh mà tạo. Chớ không phải vì mình thụ hưởng mà làm tạo. Đó là ý nghĩarõ ràng. Bởi vậy, cho nên nói rằng việc làm của Bồ tát không phải là chuyện làmsuông mà đều vì lợi ích của chúng sinh mà làm. Đó là để hiểu để thấy rằng tâmhạnh của Bồ tát làm cái gì cũng vì lợi ích cho chúng sinh, chớ không phải vìlợi ích cho bản thân, cho cá nhân mình.
Cho nên chúngta bây giờ cúng có khi chúng ta làm Phật sự mà có hai mặt. Có khi thì muốn cónhiều chúng, có đông chúng đặng cho uy tín mình lớn. Như vaaạy là vì chúng sinhhay vì mình. Còn có khi trải thân mình mà lo cho chúng sinh, chỉ cho mọi ngườiđược tu, được học không, mà không nghĩ tới địa vị danh vọng gì cho mình hết.Thì đó là vì cái gì. Như vậy cũng một ciệc làm mà nếu mục tiêu mình nhắm vì chúngsinh, đólà tâm hạnh của Bồ tát. Còn nếu mục tiêu mình nhắm vì mình đso thì tâmhạnh của chúng sinh, phải không?
Bởi vậy chonên mình lớn, tu rồi thì ai cũng có một trọng trách để làm lợi ích cho nhiềungười. Thí dụ mấy chú sau này, ra có khi cũng làm Trụ trì, có khi cũng làm Việnchủ, đủ thứ hết vậy. Nếu mình làm để mà kêu gọi chúng cho đông để mình có chứctước, mình có uy tín thì đó không phải là Bồ tát. Còn nếu mình làm vì thương,muốn giúp cho mọi người trong khi bơ vơ không nơi tu học. Chỉ vì họ mà làm thìđó là tâm hạnh Bồ tát. Như vậy cùng một việc làm mà mình thấy rõ ai là Bồ táttâm, ai không phải là Bồ tát tâm.
Bây giờ tớiđoạn kế Phật bảo:
Bảo Tích nênbiết trực tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Bồ tát khi thành Phật, những chúng sinhkhông có dối trá được sanh về cõi nước kia.
Tức là cõinước của Bồ tát. Như vậy ở đây đi thẳng cái trực tâm là tịnh độ của Bồ tát.Chúng ta tu, quí vị thấy bao nhiêu người ở thế gian họ sống vì danh vì lợi, vì đủthứ hết. Cho nên tâm họ chiều uốn để được những cái gì họ muốn được. Còn chúngta đaay sống bằng các đơn giản. Không có nhà cửa, không có vợ con, không có nhucầu gì quan trọng, thì chúng ta cần cái tâm quanh co chiều uốn không? Vậy màthỉnh thoảng có không. Có quanh co chút chút không? Bởi vậy cho nên cái cửa vàođạo là trực tâm. Đây nói trực tâm là Tịnh độ của Bồ tát.
Rồi như LụcTổ nói làm sao? Với Lục Tổ thì trực tâm là đạo tràng phải không? Như vậy chúngmới thấy Phật Tổ nhắc nhở chúgn ta bước vào đạo phải có cái tâm ngay thẳng, khôngcó dối trá. Dối trá tức là chiều uốn. Hoặc để được lòng người này, được lòng ngườikia. Hoặc là để gạt gẫm người ta thì đó là tâm không ngay thẳng.
Bởi Bồ tátcái nhân trực tâm mà được cõi tịnh độ thì những chúng sinh nòa muốn về với Bồtát ở cõi đó thì phải làm sao? Thì cũng phải trực tâm. Tức là phải bỏ những dốitrá thì mới được về bên kia phải không? Mình mới thấy rõ ràng cái nhân của Bồtát. Như vậy, ai muốn được hưởng của quả của các Ngài đó thì cũng phải có cáinhân giống như vậy phải không? Đó là một điều không thể thiếu.
Thâm tâm làtịnh độ của Bồ tát. Bồ tát khi thành Phật, những chúng sinh nào đầy đủ công đứcđược sanh về cõi nước kia.
Như vậy trựctâm là cửa bước vào đạo. Thâm tâm là những công đức ở trong đạo. Tại sao nóithâm tâm là công đức ở trong đạo? Mình thường thường nói thâm tâm là cái tâm sâu,phải không? Sâu kín. Nhưng mà thực ra cái tâm sâu kín đó là cái tâm đã tạo nhânnhiều mầm, nhiều nhân tốt. Nhân lành nhân tốt tạo đầy đủ thì gọi đó là thâmtâm. Bởi vậy cho nên nói thâm tâm là tịnh độ của Bồ tát. Những người nào muốnsanh về cõi tịnh độ của Bồ tát đó thì phải làm sao? Phải có đầy đủ những côngđức. Cho nên nói rằng khi Bồ tát thành Phật rồi thì chúng sanh nào đầy đủ nhữngcông đức thì được sanh về đó.
Như vậy trựctâm là cái cửa, mà thâm tâm là cái dụng trong khi vào đạo rồi.
Bồ đề tâm làtịnh độ của Bồ tát.
Bồ tát khithành Phật thì những chúng sinh nào mà phát tâm đại thừa thì được sanh vào cõinước đó.
Như vậy bacái tâm này quí vị thấy nó hết sức là thâm thúy. Trực tâm là cửa. Thâm tâm làcông dụng. Bồ đề tâm tức là giác. Như vậy nghĩa là Phật, người tu muốn thànhPhật thì cái nhân ban đầu là trực tâm. Rồi kế đó là thâm tâm. Rồi sau cùng làgiác ngộ.
Bởi vậy chonên những người nào phát tâm đại thừa thì mới được sanh về cõi kia. Phát tâmđại thừa tức là phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác đó, phải không?Bởi vì cõi Phật do nhân giác ngộ mà thành cõi thanh tịnh. Bây giờ mình muốn vềđó mà mình thiếu giác ngộ thì làm sao? Cho nên những chúng sinh phát tâm đạithừa là phát tâm cầu cái quả vô thượng chánh đẳng chánh giác thì mới được sanhvề đó.