Dẫn Nhập
Thích Như Thạch
(Trần Ngọc Giao)
Nhập
Bồ Tát Hạnh
Đạo
Luận
Nói một cách tổng quát , nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa : Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh . Toàn bộ luận phân làm mười chương .
Chương
thứ nhất :
Những
lợi lạc của tâm Bồ Ðề ,
Khuyến
khích chúng sinh phát tâm Bồ Ðề chân thực .
Chương
thứ hai :
Sám
hối tội nghiệp ,
Kế
đó tu tùy hỉ ,
Khuyến
thỉnh và hồi hướng phúc đức rộng lớn .
Chương
thứ ba :
Gìn
giữ tâm Bồ Ðề ,
Phát
khởi tâm Bồ Ðề nguyện ;
Cùng
thọ giới Bồ Tát .
Chương
thứ tư :
Không
buông lung ,
Tu
tập hạnh không buông lung ;
Hầu
tránh vi phạm Bồ Tát học xứ .
Chương
thứ năm :
Giữ
gìn chánh tri ,
Cho
biết làm thế nào để giữ gìn Bồ Tát học xứ .
Chương
thứ sáu :
Nhẫn
nhục ,
Dạy
tu nhẫn nhục trừ khử tâm chướng ngại
trong
sự tu tập Bồ Tát hạnh .
Chương
thứ bảy :
Tinh
tấn ,
Vì
muốn được tăng trưởng Bồ Tát hạnh ,
Phải
tinh cần tu tập .
Chương
thứ tám :
Thiền
định ,
Trước
tiên tu tĩnh lự để đối trị hôn trầm , tán loạn
(
Đặc biệt quở trách sự tham dục ) .
Sau
đó tiến thêm một bước tu tập pháp môn tự tha hoán
(
Trao đổi mình và người ) ,
Để
tăng trưởng tâm Bồ Ðề thế tục .
Chương
thứ chín :
Trí
Huệ ,
Vì
muốn thông đạt thực tướng của chư pháp ,
Dẫn
đến tâm Bồ Ðề thắng nghĩa .
Hầu
có thể đoạn trừ phiền não ,
Nên
phải có trí huệ .
Chương
thứ mười :
Hồi
hướng ,
Đem
tất cả công đức của nghiệp lành ;
Hồi
hướng đến tất cả chúng sinh .
Phần
trên là đại ý nội dung của bộ luận này .
Nếu
qui nạp lại , có thể chia làm bốn phần :
Phần 1 :
Ba chương đầu là tông chỉ chủ yếu , đối với chúng sinh chưa phát tâm . Dẫn phát thế tục tâm nguyện Bồ Ðề và tâm hạnh Bồ Ðề .
Phần 2 :
Ba chương Không buông lung , Giữ gìn chánh tri , Nhẫn nhục . Chỉ dẫn , khuyến khích thế nào giữ gìn tâm Bồ Ðề . cùng nghiêm trì giới luật Bồ Tát . Không để ngoại duyên làm ô nhiễm , thoái thất .
Phần 3 :
Ba chương Tinh tiến , Thiền định , Trí tuệ . Một mặt giúp hành giả tăng tiến tâm Bồ Ðề thế tục , một mặt đem hành giả đến sự phát sinh tâm Bồ Ðề thắng nghĩa , thuần tịnh không nhiễm . Cùng y vào đây thực hành xuất thế gian Ba la mật , tăng trưởng phúc tuệ tư lương , tăng tiến cho đến lúc thành Phật .
Phần 4 :
Cuối cùng là chương Hồi hướng . Hồi hướng phát nguyện , đây cũng là một phương cách tăng trưởng vô tận phúc đức .
Nếu từ khía cạnh khác , theo quan điểm chính ngài Tịch Thiên trong quyển Học Xứ Tập Yếu, có thể giải thích như sau :
1
Tông
chỉ chủ yếu ba chương đầu : Muốn dẫn phát một loại
ý nguyện tối thù thắng . Nguyện đem thân thể , tài sản
, thiện căn của mình . Hoàn toàn bố thí cho tất cả chúng
sinh . Hơn nữa , bắt đầu chân thành tu tập hạnh Bồ Tát
.
2
Ba
chương Không buông lung , v . v . . . Chủ yếu muốn nói đến
quá trình tu học . Làm thế nào để giữ gìn thân thể , tài
sản , thiện căn để thuận tiện cho việc lợi ích chúng
sinh .
3
Bốn
chương cuối : Muốn chỉ đạo hành giả , sau khi giữ gìn
thân thể, tài sản v . v . . . Làm thế nào tiến thêm một
bước trong công việc tịnh hóa cùng tăng trưởng .
Nói một cách tổng quát, nội dung chủ yếu của bộ Nhập Bồ Tát Hạnh dùng để chỉ dẫn hành giả trong quá trình tu học hạnh Bồ Tát . Làm sao tu tập lục độ vạn hạnh, để thuận tiện dùng những phương thức bố thí , giữ gìn , tịnh hóa cùng tăng trưởng thân thể , tài sản , thiện căn v . V . . . Trong việc lợi tế quần sinh .
Tịch Thiên trong quyển Học Xứ Tập Yếu . Chương Học tập bố thí nói : “ Ðem thân thể , tài vật cùng thiện căn hoàn toàn bố thí cho tất cả hữu tình . Hơn nữa , phải giữ gìn , tịnh hoá cùng tăng trưởng chúng. Ðây là yếu lĩnh của Bồ Tát học xứ ” .
Tại cuối chương , Tịch Thiên dẫn kinh Bảo Vân để kết luận như sau : “ Thí xả là Bồ Ðề của Bồ Tát ” . Nhập Bồ Tát Hạnh , chương thứ ba, bài kệ 10 - 11 cũng nói :
“
Vì muốn thành tựu sự lợi ích của tất cả hữu tình .
Con
bố thí thân mệnh mình không chút luyến tiếc .
Bố
thí tất cả tài sản cùng thiện căn phúc đức .
Nếu
có thể từ đáy lòng thí xả tất cả thân thể , tài sản
, thiện căn .
Con
sẽ vượt qua tất cả khổ, thành tựu Niết Bàn ” .
Do đây , có thể thấy được Tịch Thiên rất chú trọng đến sự tu tập bố thí . Từ cái nhìn của ngài , chữ Xả là tổng trì trong sự hành trì của cả Ðại thừa lẫn Tiểu thừa . Hành giả Tiểu thừa , do vì xả ly tất cả sự tham luyến đối với tam giới mà chứng được sự diệu lạc của Niết Bàn .
Hành giả Ðại thừa , tiến thêm một bước. Xả bỏ luôn sự diệu lạc của Niết Bàn , đạt tới cái gọi là : “ Trí không trụ ba cõi . Bi không trụ Niết Bàn ” . Chính là cảnh giới vô trụ của vô thượng Bồ Ðề .
Chính Tịch Thiên nghĩ rằng :
Tu tập bố thí là trọng yếu nhất trong quá trình tu học Bồ Tát hạnh . Vì thế ngài không lập riêng chương Bố thí , mà đem quan niệm “ Thí xả tất cả ” vào trong tất cả các chương . Nhân đây , trong mỗi chương của quyển Nhập Bồ Tát Hạnh . Chúng ta có thể thấy rõ ý nghĩa của sự “ Thí xả tất cả ” này .
Thuật Ngữ
Tara: Là một hóa thân nữ của Quán Thế Âm . Trong Phật giáo
Ấn độvà Tây tạng nói đến rất nhiều . Quán Thế Âm,
khi nhìn thấy chúng sinh đau khổ , ngài nhỏ lệ từ bi và
giọt lệ này rơi xuống hóa thành Tara .
Văn
Thù Bồ tát :Thường
hiện thân , tay phải cầm kiềm trí huệ , tay trái cầm kinh
Bát Nhã .
Mahasiddha: Người tu hành đắc đạo có thần thông.
Simhasana: Tòa ngồi chỉ dành cho những hàng Tỳ kheo Trưởng lão Pháp
sư.
Hai
tập Siksàsamuccaya ( Giáo Tập Yếu ) ;
Và
Bodhicaryàvatàra ( Bồ TátHạnh ) :
Chắc chắn tác giả là ngài Sàntideva , riêng tập Sùtrasamuccaya đa số các học giả đều công nhận tác giả là ngài Long Thọ ( Nàgàrjuna ) .
Tiểu sử này tôi rút từ 2 tài liệu History of Buddhism in India của Taranatha và La Légende de Sàntideva trong Indo-Iranian Journal Volume XVI . Trong tạng Luận của Tây tạng có nói đến bộ Mdo.sde.sna.tshogs.kyi.mdo.btus.pa ; được học giả Marcelle Lalou chuyển sang lại Sanskrit là Visvasùtrasamuccaya . Tập này ngày nay đã bị mất tích .
Theo học giả J.W.De Jong có lẽ 2 tập này tương tự nhau nên các sử gia Tây tạng và luận gia Ấn độ cùng cho tác giả của Kinh Tập Yếu ( Sùtrasamuccaya) là ngài Sàntideva . Kinh Tập Yếu đã được Hòa thượng Linh Sơn thượng Huyền hạ Vi dịch từ Hán văn ra Việt văn năm 1985 với tựa đề là Yếu Nghĩa Phật Pháp .
Lời Giới Thiệu
Bộ luận Nhập Bồ Tát Hạnh là một kiệt tác của Phật giáo Ấn Ðộ . Không những trên phương diện tư tưởng , tu chứng mà còn cả trên phương diện văn học . Nó đã đem lại niềm vui cho biết bao nhiêu thế hệ .
Tương truyền ở Ấn Ðộ đã có hơn một trăm bộ chú thích cho bộ luận này và ở Tây Tạng nó đã trở thành một trong sáu bộ luận “ gối đầu ” cho những kẻ học Phật . Bộ luận này được truyền đến Trung Hoa vào đời Triệu Tống .
Lúc ấy Phật giáo vừa trải qua cơn pháp nạn khốc liệt thời Ðường Vũ Tông . Kế tiếp lại bị nhiều nạn đao binh phá hoại trong thời Ngũ đại . Cho nên sinh khí của Phật giáo lúc bấy giờ gần như bị kiệt quệ , ngoài Thiền Tông và Tịnh Ðộ Tông , các tông phái khác gần như tuyệt tích .
Hơn nữa , vào thời đó . Các vị tăng sĩ ít “ hứng thú ” trong việc khảo cứu các tác phẩm mới được phiên dịch từ Ấn Ðộ . Vì lý do này , hầu hết các dịch phẩm mới dưới thời Triệu Tống ít được các nhà học Phật để ý đến và “ Nạn nhân chính ” trong đó là bộ Nhập Bồ Tát Hạnh .
Điều tệ hại nữa là bản dịch của ngài Thiên Tức Tai , một cao tăng Ấn Ðộ . Không những thiếu sót nhiều chỗ , văn chương lại tối tăm khó hiểu . Thành thử số phận nó lại càng hẩm hiu . Kết quả là bộ luận này đã bị bỏ quên trong bộ Ðại Tạng Kinh của Trung Hoa hơn một ngàn năm mà không ai biết đến .
Trái lại , ở Tây Tạng lưu truyền rất thịnh hành và gần đây Âu Tây phong trào nghiên cứu bộ luận này càng lúc càng trở nên rầm rộ . Theo như sự hiểu biết của tôi , đã có hơn mười bộ : phiên dịch , chú giải , luận án nghiên cứu bằng tiếng Anh đã được xuất bản . Chưa kể đến các ngôn ngữ khác như Nhật, Ðức , Pháp , Ý . . .
Ðiều này chứng tỏ nó phải có một giá trị nào đó mới có thể thu hút được sự chú ý của nhiều người như thế . Sự đặc sắc của bộ luận này có thể được nhìn từ hai phương diện :
1- Phương diện tư tưởng :
Ngài Tịch Thiên trên phương diện trước tác để lại vỏn vẹn hai ( có chỗ nói ba ) . Tác phẩm chính tức bộ luận này cùng bộ Học Xứ Tập Yếu . Tuy số lượng ít oi như thế . Nhưng chỉ cần nhìn vào , chúng ta có thể quả quyết rằng không những ngài là một học giả uyên bác mà còn là một nhà tư tưởng cao siêu .
Trong chiếc áo nhà tu , Tịch Thiên biểu hiện cho chúng ta biết ; ngài không những là bậc trí tuệ siêu phàm mà còn là một kẻ rạt rào tình cảm . Lý trí và tình cảm không bắt buộc phải bị tách đôi như các nhà triết học Tây phương quan niệm mà lý có thể hợp nhất với tình .
Vì lý do này , Phật giáo Ðại thừa chú trọng nhiều đến phương diện tình cảm , Vì nếu tình cảm được đặt đúng vị trí , sẽ trở thành một động lực căn nguyên của tâm Ðại Từ Bi . Muốn thành Phật , tất nhiên phải có đủ cả hai đức tính từ bi và trí tuệ . Thiếu một không thể được ! .
Phát Bồ Ðề Tâm ! . Tu Bồ Tát Hạnh ! . Nghe qua có vẻ đơn giản . Nhưng chắc chắn không phải là công việc của một kẻ tầm thường . Ðây là khung trời của những kẻ mà ý chí cao vượt đến những dãy ngân hà xa tít .
Phương tiện của những kẻ mà tâm nguyện kiên cường vững chãi hơn trăm ngàn thành lũy . Của những kẻ mà trăm ngàn lưỡi đao bén nhọn không làm nao núng và trăm ngàn sự vui cõi trời không làm họ xao động ! .
Ai là kẻ có thể nắm giữ được gia nghiệp của Ðức Như Lai ? . Ai là kẻ có thể làm xán lạn cho gia tộc Phật ? . Những kẻ chí nguyện vững chắc hơn trăm ngàn kim cương . Chỉ có thể là những kẻ vì chúng sinh chảy dòng lệ nhạt nhòa như người mẹ hiền nức nỡ trước nỗi khổ của đứa con mình . Từ những dòng tư tưởng trong bộ luận này chúng ta có thể thấy một cách mông lung tầm kích vĩ đại của ngài Tịch Thiên ! .
2- Phương diện thực tiễn tu hành :
Ðiều trọng đại nhất cho hành giả bắt đầu dấn bước trên con đường Bồ Tát là phát tâm Bồ Ðề . Phát tâm Bồ Ðề là sự chuyển mình của hành giả từ thân phận tầm thường của một phàm phu vào đến tầm kích của vũ trụ .
Ðây là sự biểu hiện của một nhân cách vĩ đại không có một hệ thống triết học hay tôn giáo nào có thể tự hào . Khi hành giả lột bỏ được bộ quần áo tâm linh cũ nát để thay vào đó bằng bộ quần áo lộng lẫy - Bồ Ðề Tâm . Trên phương diện người ” , hành giả trở nên cao quí hơn tất cả muôn loài trong thế giới :
Kẻ
tù ngục sinh tử ,
Nếu
phát Bồ Ðề tâm .
Tức
khắc tên Phật tử ,
Trời
người nên cung kính ! .
Trong kinh Hoa Nghiêm , Bồ tát Di Lặc đã mô tả cho Thiện Tài một cách tỉ mỉ về hành trạng của tâm Bồ Ðề như sau :
Bồ
đề tâm như hạt giống ,
Vì
từ đó sinh ra tất cả Phật pháp .
Bồ
đề tâm như ruộng tốt ,
Vì
nơi đây sản xuất ;
Các
thứ thuần tịnh cho thế gian .
Bồ
đề tâm như cõi đất ,
Vì
gìn giữ tất cả thế gian .
Bồ
đề tâm như dòng nước ,
Vì
rửa sạch tất cả cáu bẩn của tham dục .
Bồ
đề tâm như ngọn gió ,
Vì
thổi khắp thế gian ;
Không
gì làm ngăn ngại .
Bồ
đề tâm như ngọn lửa ,
Vì
đốt cháy tất cả củi hý luận . . .
Bồ
đề tâm như cha lành ,
Vì
bảo hộ hết thảy các Bồ tát .
Bồ
đề tâm như mẹ hiền ,
Vì
dưỡng dục hết thảy Bồ tát .
Bồ
đề tâm như nhũ mẫu ,
Vì
chăm sóc hết thảy Bồ tát . . .
Bồ
đề tâm như người tỉnh thức ,
Vì
đẩy lui tất cả các xấu xa .
Bồ
đề tâm như lưới trời Ðế thích ,
Vì
khuất phục những quỷ phiền não A tu la .
Bồ
đề tâm như lửa trời Ðế thích ,
Vì
đốt cháy tất cả tập quán ;
Tham
dục và phiền não bất tịnh .
Bồ
đề tâm như tháp thờ xá lợi ,
Vì
hết thảy thế gian ;
Loài
người và A tu la đồng kính ngưỡng .
Rồi Bồ tát Di Lặc kết luận :
“ Này thiện nam tử , Bồ đề tâm thành tựu vô lượng công đức tuyệt diệu như vậy . Tóm lại Bồ đề tâm cũng đồng như Phật pháp và các công đức của quả Phật . Tại sao thế ? . Bởi vì , chính từ Bồ đề tâm mà hạnh Bồ tát bắt đầu khởi hành và cũng chính từ đó hết thảy Như Lai trong quá khứ , hiện tại và vị lai xuất hiện ở thế gian .
Vì vậy , này thiện nam tử . Một khi ước vọng giác ngộ tối thượng được phát khởi , vô số công đức cũng được phát sinh và cả đến ý thức ẩn áo nhất của Nhất thiết trí cũng phát sinh từ đó ” .
( Trích từ Thiền Luận của Suzuki , bản dịch Tuệ Sỹ ) .
Thế nhưng , trong quá trình trui luyện chí nguyện Bồ tát , các công hạnh tuy đa dạng và nhiều đến vô lượng . Song mục đích không ngoài cốt yếu là buông bỏ tự ngã ” . Suzuki trong quyển “ Khai Ngộ Ðệ Nhất ” có nói : “ Lúc buông bỏ tự ngã cũng chính là lúc tha lực hiển hiện ” .
Khi hành giả tìm đến bờ vực của tâm linh trong sự thành khẩn tha thiết đến cực độ , ngay phút giây bàng hoàng đó , hành giả có thể tạm thời quên mất tự ngã . Và chính trong giây phút huyền diệu này . Lạ lùng thay , tha lực hiển hiện như một luồng ánh sáng chan hòa ! .
Trong giây phút tuyệt vời này không còn sự phân biệt tự và tha . Mình và đối tượng đã trở thành một ! . Và ngay chính trong sự tha thiết cùng độ đó ; lại chính là giây phút hành giả thể nghiệm được chân lý , và đây chính là thể ngộ về Tính Không ! .
Dịch bản tiếng Việt bộ Nhập Bồ Tát Hạnh là một công trình kiệt xuất của Ni sư Trí Hải . Ni sư không những dịch thành văn xuôi mà lại còn dịch thành văn vần . Cả hai đều có thể gọi là những dịch phẩm quan yếu cho Phật giáo Việt Nam . Ðây là một sự đóng góp lớn lao , không những cho nền văn hóa Phật giáo Việt Nam nói riêng mà còn cho cả nền văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung .
Tôi may mắn được nghiên cứu qua tác phẩm vĩ đại của ngài Tịch Thiên và đã phiên dịch bộ luận này theo thể tài kệ tụng bốn câu năm chữ . Đồng thời cũng viết xong một quyển chú giải . Song nhận thấy chúng chỉ là những viên sỏi vụn không có chút giá trị nào . Nay có nhân duyên gặp được “ trân châu bảo ngọc ” nên không ngần ngại , vội vàng vứt đi những viên sỏi vụn “ sần sùi ” .
Chắp tay kính cẩn dâng hai dịch phẩm quý giá đến quý vị độc giả . Đồng thời phát tâm “ hợp đính ” để tiện cho người đọc . Nếu không thể lãnh hội phần văn vần , có thể tham khảo thêm phần văn xuôi để lãnh hội thêm ý chỉ uyên thâm của bộ luận .
Hai phần văn xuôi và văn vần có được là nhờ sư huynh tôi , thầy Thích Pháp Quang trụ trì chùa Tịnh Luật ở Texas , liên lạc với Ni sư Trí Hải ở Việt Nam gửi qua cho thầy bằng “ email ” .
Khi nhận được hai phần từ thầy Pháp Quang , tôi cảm thấy vui mừng như “ kẻ khát được cam lộ , kẻ nghèo gặp ngọc quý ” . Bèn không quản tài học thô thiển viết lên vài hàng giới thiệu hầu kết duyên với tất cả những hành giả “ Đã , đang , hoặc sẽ phát tâm học tập Bồ tát hạnh ” .
Cũng nhân đây “ phát lộ ” với tất cả đại chúng rằng mình được “ diễm phúc ” tắm gội trong hào quang của Tam Bảo cùng ánh sáng chói ngời của con người vĩ đại Tịch Thiên ! .
Nguyện đem công đức truyền bá “ áo nghĩa ” Ðại thừa hồi hướng đến thân mẫu , Sư cô Thích Nữ Chúc Phước , đàn na tín chủ . Cùng tất cả chúng sinh .
Nguyện tất cả những ai thấy nghe tin hoặc không tin , hiểu hay không hiểu , khen , chê , kính hoặc hủy . Đời đời đều trở thành Pháp quyến của nhau , dìu dắt nâng đở cho đến ngày tất cả đều thành Chánh Giác .
Xin tất cả hãy cùng nhau phát lên lời thệ nguyện vĩ đại của Tịch Thiên :
Cho
đến tận hư không ,
Nơi
nào có chúng sinh .
Nguyện
sẽ đến nơi đó ,
Diệt
khổ đau cho họ ! .
Mùa
Phật Ðản 2547, tháng 5-2003
Tường
Quang Tự,
Tỳ
kheo Thích Pháp Chánh cẩn thức