Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Pháp Ấn

13/10/201101:46(Xem: 8310)
Kinh Pháp Ấn

KINH PHÁP ẤN
Thi Hộ đời Tống dịch từ Phạn ra Hán
Thích Nhất Hạnh dịch từ Hán ra Việt và chú giải
Lá Bối Xuất Bản

I.
Hồi đó Phật đang ở nước Xá Vệ với đầy đủ quývị trong cộng đồng khất sĩ. Một hôm ngài nói với đại chúng: “Có pháp ấn mầunhiệm, quý vị có biết không? Hôm nay tôi muốn phân tích và diễn giải pháp ấnnày cho quý vị nghe. Quý vị hãy đem nhận thức thanh tịnh ra để nghe cho kỹ,tiếp nhận cho thấu đáo, khéo léo xử dụng tâm ý đề ghi nhớ mà hành trì.”

Các vị khất sĩ bạch Phật: Hay quá, thưađức Thế Tôn! Xin người chỉ dạy cho, chúng tôi muốn được nghe.”

II.
Phật dạy:
Tự tính của Không là không nằm trên bình diện cókhông, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không cótướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến. Tại sao thế? Vì tự tính của Khôngkhông có vị trí trong không gian, không có hình tướng, không thể khái niệmđược, chưa bao giờ từng sinh khởi, tri kiến không nắm bắt được và thoát ly mọisự nắm bắt. Vì thoát ly đượcmọi sự nắm bắt nên nó bao hàm được tất cả các phápvà an trú nơi cái thấy bình đẳng không phân biệt.

Cái thấy ấy là cái thấy chân chính và xácthực. Quý vị khất sĩ! Quý vị nên biết rằng không những tự tính của Không nhưthế mà tất cả các pháp cũng đều như thế. Đó gọi là pháp ấn.

“Quý vị khất sĩ! Pháp ấn này chính là bacánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chưPhật, là chỗ đi về của chư Phật. Vì vậy quý vị nên nghe cho kỹ, tiếp nhận chothấu đáo, để ghi nhớ mà tư duy và quán chiếu ngay trong lòng thực tại.

III.
“Quý vị khất sĩ! Người tu hành nên tìm nơitĩnh mịch như vào rừng, ngồi dưới gốc cây để thực tập quán chiếu về tự thânthực tại. Phải thấy mọi sắc là khổ, là không và là vô thường để thoát ly chođược sự bám víu vào hình sắc và trở về an trú trong cái thấy bình đẳng không phânbiệt đối với hình sắc. Đối với cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức cũngthế: người ấy nên quán chiếu rằng chúng là khổ, là không và là vô thường đề cóthể thoát ly cho được cái thấy có tính cách sai lạc về cảm giác, tri giác, tâmtư và nhận thức để đại tới cái thấy bình đẳng không phân biệt về chúng. Này quývị khất sĩ, các uẩn vốn là không, vốn được sinh khởi từ tâm, khi tâm không cònhiện hành thì uẩn cũng không còn tác dụng. Thấy biết được như thể tức là đạtđược giải thoát chân chính. Giải thoát chân chính rồi thì thoát được mọi trikiến. Phép quán sát này được gọi là KHÔNG, cánh cửa giải thoát thứ nhất.

IV.
“Lại nữa, an trú trong định mà quán sát cácđối tượng thì hành giả thấy các đối tượng hình sắc đều tan biến hết và người ấythoát ly được tính cách hư ảo của tri giác về hình sắc. Các đối tượng khác làthanh, hương, vị, xúc và pháp cũng đều tan biến hết và hành giả thoát ly được tínhcách hư ảo của mọi tri giác về thanh, hương, vị, xúc và pháp. Pháp quán sát nàygọi là VÔ TƯỚNG, cửa giải thoát thứ hai. Vào được cánh cửa giải thoát này rồithì tri kiến sẽ được thanh tịnh; và vì tri kiến đã thanh tịnh nên hành giả diệttrừ được hết các phiền não tham, sân, si. Tham, sân, và si đã tận diệt thì hànhgiả an trú được trong cái thấy bình đẳng. An trú được trong cái thấy này thìlìa được những cái thấy về TA và về CỦA TA, nghĩa là chấm dứt được mọi cái thấysai lằm. Cái thấy này không còn cơ hội và căn cứ đề sinh khởi nữa.

V.
Lại nữa, các vị khất sĩ! Thoát ly được cáithấy về ta rồi thì không còn cho rằng những sự vật mà ta thấy, nghe, cảm vàbiết là những sự vật có thật ngoài nhận thức nữa. Vì sao thế? Vì nhận thức cũngchính là do nhân duyên mà phát sinh. Nhận thức và các nhân duyên làm phátkhởi ra nhận thức đều biến chuyển vô thường, mà vì thức vô thường cho nên tacũng không nắm bắt được. Thức uẩn đã không như bất cứ hiện tượng nào khácthì còn có gì cần được tạo tác nữa đâu? Pháp quán sát này được gọi là VÔ TÁC,cửa giải thoát thứ ba. Vào được cửa giải thoát này rồi thì thấy được chân tướngcác pháp một cách triệt để, không còn bị kẹt vào một pháp nào nữa và thể nghiệmđược tính cách tịch diệt của các pháp.”

VI.
Phật bảo quý vị khất sĩ: “Pháp ấn mầu nhiệmlà như thế. Đó là ba cánh cửa đi vào giải thoát. Quý vị khất sĩ, nếu quý vị tuhọc theo pháp ấn này thì chắc chắn là sẽ đạt được tri kiến thanh tịnh.”

Toàn thể các vị khất sĩ nghe pháp nãy đều tỏ rasung sướng. Họ làm lễ Phật sau khi đã tiếp nhận giáo pháp này để hành trì.

PHẦN CHÚ GIẢI

I.
KINH PHÁP ẤN (Phật thuyết Pháp Ấn Kinh) thuộc vềKinh bộ A Hàm, là kinh số 104 của Đại Tạng Tân Tu. Trong Đại Tạng còn có haikinh cũng nói về đề tài Pháp ấn; đó là Kinh Phật Thuyết Thánh Pháp Ấn (kinh sốl03) và kinh thứ 80 của bộ Tạp A Hàm (kinh số 99 của Đại Tạng Tân Tu. Kinh nàydo thiền sư Câu Na Bạt Đà La dịch, cũng vào đời Tống). Trong kinh tạng Pali, đề tài Pháp ấn được nói đến trong kinh số 43 của Trung Bộ (NajjihimaNikaya) và trong bộ Patisambhidă Magga. Nội dung của ba kinh đại khái tươngđồng, nhưng đứng về phương diện mạch lạc và ý tứ thì Phật Thuyết Pháp ấn Kinhkhúc chiết và súc tích hơn. Kinh văn ngắn, gọn và hàm súc. Kinh nói về thậttướng của các Pháp và của nhận thức, và về những phương pháp thiền quán để đạttới giải thoát. Kinh này do thiền sư Thi Hộ đời Tống dịch từ Phạn ra Hán văn.

II.
Đề tài của kinh là ba cánh cửa giải thoát (tam giảithoát môn): không, vô tướng và vô tác. Ba phép quán này, được xem như là những nétđặc thù căn bản nhất của đạo Phật cho nên cũng được gọi là pháp ấn. Ấn tức làkhuôn dấu, nghĩa là những dấu hiệu có thể chứng minh được tính cách đích thựccủa giáo lý đạo Phật. Những giáo lý nào không mang khuôn dấu pháp ấn thì khôngphải là giáo lý Phật giáo.

Trong luận tạng của Phật Giáo Tiểu Thừa, tampháp ấn (ti-lakkhana) thường được cho là VÔ thường, VÔ ngã và Khổ. VÔ thường,VÔ ngã và Khổ thường lại được nhận thức như đồng nhất với tam giải thoát môn làKhông, VÔ tướng và VÔ tác. Thật ra VÔ Thường, VÔ ngã và Khổ tuy có liên hệ mậtthiết với Không, VÔ tướng và VÔ tác nhưng phạm vi và tác dụng của tam giảithoát môn rộng lớn hơn nhiều. Các luận gia Tiểu Thừa thường nói vì các pháp vôthường cho nên cửa giải thoát là vô tướng, vì các pháp vô ngã cho nên cửa giải thoátlà không và vì các pháp là khổ cho nên cửa giải thoát là vô tác. Nói như thế làgiới hạn tam giải thoát môn lại trong phạm vi luân lý học, trong khi bản chấtcủa tam giải thoát môn là nhận thức học. Đạo Phật là con đường giải thoát bằngtrí tuệ chứ không phải bằng đạo đức luân lý. Đọc kinh Pháp ấn ta sẽ thấy đượcđiều đó. Trong mười tám phép quán để đạt tới giải thoát (mahã-vipassanã) củaPhật Giáo Nguyên Thỉ, VÔ thường, Khổ và VÔ ngã được kể là ba phép quán đầu. VÔtướng, VÔ tác và Không được kể là ba phép quán thứ mười một, mười hai và mườiba. Như vậy VÔ thường, VÔ ngã và Khổ đáng lẽ đã không thể được đồng nhất với VÔtướng, VÔ tác và Không. Tam giải thoát môn vì vậy mới đích thật là Phápấn.

Có khi trong luận tạng, tam pháp ấn lại được cholà VÔ thường, VÔ ngã và Niết bàn. VÔ thường và VÔ ngã là đặc tính của các phápđứng về phương diện hiện tượng mà nói. Niết bàn cũng là đặc tính của vạn phápnhưng đứng về phương diện bản thể mà nói. Cái thấy này đã vượt lên trên cái thấycủa tiểu thừa nhưng vẫn còn bị kẹt. Đại thừa về sau đi xa hơn, có thiết lậpNhất Thật Tướng ấn, nhưng căn bản vẫn không được vững chãi bằng Tam Giải Thoát Môn.Thật ra pháp ấn phải là Tam Giải Thoát Môn, như kinh Pháp ấn cho ta thấy, vàcác đặc tính VÔ thường, VÔ ngã và Khổ của vạn pháp tuy rất quan trọng nhưng chỉlà những chiếc chìa khóa ớ mở cửa Tam Pháp ấn mà thôi.

III.
Kinh văn có thể được chia làm sáu đoạn. Đoạn thứnhất nói về trường hợp mà kinh được nói ra. Đoạn thứ nhì, nói về Không như tự tính của các pháp và của nhận thức, và cũng là nềntảng trên đó được thiết lập ba phép quán đưa vào giải thoát.

Đoạn thứ ba nói về không giải thoát môn,phép quán thứ nhất. Đoạn thứ tư nói về vôtướng giải thoát môn, phép quán thứ hai.Đoạn thứ năm nói về vô tác giải thoát môn, phép quán thứ ba. Đoạn thứ sáu là đoạn khép của kinhtrong đó có câu kết luận của Phật về ba cánh cửa đi vào giải thoát.

IV.
1) Kinh Pháp ấn thuộc về thể tài vô vấn tựthuyết, nghĩa là kinh do Phật tự ý nói ra chứ không phải do có người hỏi. Đềtài pháp ấn là một đề tài rất quan trọng cho nên trước khi nói Phật đã dặn dòkỹ lưỡng là đại chúng phải “đem nhậnthức thanh tịnhra để nghe cho kỹ, tiếpnhận cho thấu đáo, khéo léo xử dụng tâm ý để ghi nhớ mà hành trì”. Điều nàythật quan trọng, bởi vì nếu không cẩn trọng và tinh tế thì người nghe kinh cóthể hiểu sai lạc lời kinh, và do đó đánh mất một cơ hội quý báu để tiếp nhậnpháp bảo. Quý vị hãy đem nhận thức thanh tịnh ra mà nghe cho kỹ.Nhận thức thanh tịnh (hán văn: thanh tịnh tri kiến) là nhận thức không bị che lấpbởi thành kiến và bởi sự cố chấp vào những kiến thức đã thu lượm được. Ngườinói bắt buộc phải xử dụng ngôn từ và ý niệm, người nghe cũng phải tiếp nhận quangôn từ và ý niệm. Dầu người nói khéo léo đến đâu trong việc xử dụng ngôn từ vàý niệm mà người nghe không khéo léo sử dụng tâm ýđể tiếp nhậnthì vẫn bị kẹt vào ngôn từ và ý niệm như thường, và do đó sự tiếp nhận sẽ khôngthành công. Điều dặn dò này, Phật còn lặp lại một lần nữa trong đoạn thứ nhìcủa kinh văn.

2) Trước khi trình bày ba phép quán đưa đến giảithoát tức là Không, vô tướng và vô tác. Phật nói về khôngnhư tự tính củavạn pháp và của nhận thức. Không ở đây không còn là khái niệm “không”đối chiếu với khái niệm “có” mà là thực tại của vạn hữu vượt thoát mọi kháiniệm của nhận thức thông thường. Ta không thể đem cái nhận thức thông thườngcủa ta ra mà hiểu không, bởi vì Không không nằm trên bình diệncó, không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, khôngcó tuớng diệt và vượt thoát mọi tri kiến. Khônglà tiếng gọi của tựthân thực tại, tri kiến của ta là các khuôn khổ ý niệm không thể chứa đựng đượctự thân thực tại. Tự thân thực tại không có tướng sinh, không có tướng diệt,vượt thoát có và không; vì vậy muốn đạt tới thế giới của tự thân thực tại, takhông thể xử dụng các khuôn khổ của vọng tưởngnhư sinh và diệt, có vàkhông, một và nhiều, trên và dưới, v.v.... Những khuôn khổ này không chứa đựngđược tự thân thực tại, không nắm bắt được tự thân thực tại. Kinh văn rấtrõ ràng: Vì tự tánh của Không là không có vị trí trong không gian, không cóhình tướng, không thể khái niệm được chưa bao giờ từng sinh khởi, tri kiếnkhông nắm bắt được và thoát ly mọi sự nắm bắt. Vì không bị kẹt trongnhận thức khái mềm nên tự tánh của không bao hàm được vạn pháp; takhông bị kẹt trong những khuôn khổ nắm bắt và vượt thoát ra được thế giới củakhái niệm thì ta đạt được cái thấy chân thật về tự thân thực tại, nghĩalà về không. Cái thấy này được gọi là cái thấy bình đẳng.Cái thấythông thường hàng ngày của ta là cái thấy qua khuôn khổ ý niệm: ta thấyvạn vật là những thực tại riêng biệt, núi là núi, sông là sông, núi có ngoàisông, sông có ngoài núi, ta không phải là người, người không phải là ta... cáithấy ấy là cái thấy phân biệt, cắt xén thực tại thành những mảnh vụn rời rạc cósinh có diệt, có lớn có nhỏ, có trong có ngoài. Trong thế giới của tự thân thựctại, vạn vật không có thực thể riêng biệt, cái này nằm trong cái kia, cái nàycó mặt vì cái kia có mặt. Chỉ có cái thấy bình đẳng mới nhận thức được tự thânthực tại. Không tức là thể tính bình đẳng không phân biệt của thực tại. Bìnhđẳng tính (Phạn ngữ: samatã) là thể tính chân thực của thực tại. Đó là thế giớinhư thật ythă bhutam). Phật giáo đại thừa gọi thế giới đó là thế giới chân như(bhutatathată), và gọi cái thấy bình đẳng không phân biệt ấy là bình đẳng tínhtrí (samatăjnàna). Cũng vì vậy mà phép quán về không trong tông phái Thiên Thaicũng được gọi là bình đẳng quán.

Ta phải chú ý đến câu kinh sau đây: Vì thoái lyđược mọi nắm bắt cho nên nó (tự tính của Không) bao hàm đuợc tất cả các pháp vàan trú nơi cái thấy bình đẳng không phân biệt: cái thấy ấy là cái thấy chânthực. Điểm đặc biệt của câu kinh này là tự tánh của Không được xem như vừa làđối tượng vừa là chủ thể của nhận thức.

Đứng về phương diện văn pháp, ta thấy cả haiđộng từ bao hàm và an trúđều có cùng một chủ từ (tự tánh củakhông). Nhưng động từ bao hàm chỉ về đối tượng nhận thức và động từ an trú chỉvề chủ thể nhận thức. Điều này cho thấy đối tượng nhận thức và chủ thể nhận thứckhông rời nhau mà có, đối tượng nhận thức và chủ thể nhận thức đều là nhậnthức. Đây là căn bản và là khởi điểm của giáo lý Duy Thức sau này.

Tuy nhiên, ta đừng vội đối lập Không vớicác phápnhư ta đối lập bản thể với hiện tượng, đối lập thể và tướng. Khôngchính là các pháp, tự tính của Không là tự tính của vạn pháp. Kinh vănrất rõ ràng: Quý vị Khất sĩ. Quý vị nên biết rằng tự tmh của Không như thếmà tất cả các pháp cũng như thế. Sự thực về tự tính Không là sự thực cănbản trên đó được thiết lập ba phép quán giải thoát, vì vậy cho nên Phật gọi cáithấy về tự tính không là pháp ấn.Pháp ấn này là điểm đặc trưng của đạoPhật, vì vậy Phật đã nhấn mạnh rằng nó là giáo pháp căn bản của chư Phật, làcon mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật. Pháp ngữ con mắt củachư Phật sau này đã trở nên pháp ngữ “chánh pháp nhãn tạng” (kho tàng của cáithấy chánh pháp) của thiền tông. Tới đây, Phật nhắc lại một lần nữa: Quý vịnên nghe cho kỹ, tiếp nhận cho thấu đáo, để ghi nhớ mà tư duy và quán chiếutrong lòng thục tại. Ta hãy để ý tới sáu chữ: quán chiếu trong lòng thựctại. Quán chiếu trong lòng thực tại là phải đi thẳng vào thực tại mà chiêmnghiệm trực tiếp chứ không phải là đứng bên ngoài và quán sát thực tại như mộtđối tượng khách quan. Đây là điểm chính yếu của thiền quán.

3) Cánh cửa giải thoát thứ nhất là sự quán chiếuvề tính cách khổ, không và vô thường của năm uẩn, tức là năm yếu tố kết hợp nênsinh mạng: vật chất, cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức.

Những yếu tố này đều có tính cách vô thường,nghĩa là luôn luôn chuyển biến và vì vậy, không có một bản chất thường tại,hoặc một đồng nhất tính (identité fixe). Năm yếu tố này nương vào nhau màcó mặt, cái này có trong cái kia, cái kia có trong cái này, cái này là cái kia, cái kia là cái này. Vật chất chẳng hạn không thể có ngoài tri giác và trigiác không thể có ngoài vật chất, vì vậy không có cái gì có được thực thể riêngbiệt của nó. Cái thực thể riêng biệt ấy không có, cho nên các pháp được gọi là không.Không ở đây trước hết là không có thực thể (thực thể: thể tính chân thực). Tuynhiên không có thực thể không có nghĩa là hư vô. Cái bàn không có thực thểriêng biệt, nhưng cái bàn không phải là hư vô. Thấy được cái bàn trong tính cách“không có thực thể” của nó tức là thấy được chân tướng của cái bàn. Trái lại,thấy cái bàn là một vật thường tại và có thực thể riêng biệt tức là thấy bằngthứ tri kiến sai lầm. Nhận thức vạn vật bằng thứ tri kiến này thì sẽ khôngtránh được đau khổ. Vì vậy cho nên kinh nói năm uẩn là vô thường, là không, vàcó tác dụng gây đau khổ. Quán chiếu về năm uẩn là quán chiếu thẳng vàotự thân của thực tại. Kinh văn dùng từ ngữ “như thật quán sát” là vì thế.Như thật (yathãbhutam) là tự thân thực tại. Kinh văn rất rõ ràng: Phảithấy được mọi hình sắc vật chất là khổ, là không và vô thường để thoát ly chodược sự bám víu vào hình sắc vật chất và trở về an trú trong cái thấy bình đẳngkhông phân biệt đối với hình sắc vật chất. Đối với cảm giác, tri giác, tâm tưvà nhận thức cũng vậy:người ấy nên quán chiếu rằng chúng là khổ, làkhông và là vô thường để có thể thoát ly cho đuợc ái thấy có tinh cách sai lạcvề cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức để đạt tới cái thấy bình đẳng khôngphân biệt về chúng.

Trong nhận thức phân biệt, năm uẩn trở thànhnhững vật thường tại và có thực thể riêng biệt. Nếu ta vượt lên khỏi nhận thứcphân biệt ấy thì năm uẩn sẽ hiển lộ trong tự thân của nó và chúng không còn tácdụng ràng buộc và gây khổ đau nữa. Khi ấy ta thoát được những khuôn khổ trikiến hẹp hòi và sai lạc, và đạt được giải thoát. Ta hãy đọc lại kinh văn: Cácuẩn vốn là không, vốn được sinh khởi từ tâm; khi tâm không còøn hiện hành thìuẩn cũng không còn tác dụng.Chữ tâm ở đây là chỉ cho nhận thức phân biệt.Phép quán về không này được gọi là cánh cửa giải thoát thứ nhất, tức không giảithoái môn.

Không giải thoát mônlà nền tảng trên đó cả nền văn học Bát Nhã đồ sộ đượcthành lập. Bát Nhã nghĩa là trí tuệ, thứ tri kiến bình đẳng không phânbiệt mà kinh Pháp ấn nói đến. Tâm Kinh Bát Nhã là một kinh được trì tụnghàng ngày tại các thiền viện. Kinh này cũng nói về tính Khôngcủa nămuẩn. “Bồ Tát Quán Tự Tại khi quán chiếu thâm sâu về Bát Nhã thì phát kiến rađược là năm uẩn đều không, và do đó thoát ra khỏi mọi khổ nạn”. Đó là câu đầucủa Tâm Kinh.

4) Thế giới hàng ngày trong đó chúng ta sinh hoạtlà một thế giới được tạo dựng do tri giác (perceptions) của chúng ta. Tathấytrời, đất, núi, sông, nhà cửa, chợ búa, sinh vật, cây cỏ. Ta nghe nhiềuloại âm thanh, như tiếng sấm nổ, tiếng mưa rào, tiếng chim hót, tiếng khóc la.Ta ngửi thấy các mùi, ta nếmthấy các vị, ta xúc chạm sự vật,ta dựng xây các tư tưởng. Tri giác có năm loại: sắc (hình sắc), thanh (âmthanh), hương (mùi hương), vị (vị nếm), xúc (xúc chạm) và pháp (tư tưởng và kýức). Giác quan của chúng ta cung cấp cho ta những dừ kiện của tri giác, và có nhiềukhi ta lầm lạc vì những dữ kiện ấy, như khi thấy sợi dây ta tưởng là con rắn,nhìn bạn tưởng là kẻ thù. Khoa học giúp ta thấy được một số những sai lầm của trigiác. Thiền quán giúp ta cởi bỏ những sai lầm căn bản của tri giác và củanhận thức. Phương pháp được đưa ra trong đoạn kinh văn này là phép quán vôtướng, tức là vô tướng giải thoát môn. Các kinh Phật Thuyết Thánh Phápấn kinh do Trúc Pháp Hộ dịch và kinh Phật Thuyết Pháp ấn Kinh của Thi Hộ dịchđều dùng danh từ vô tưởng để dịch danh từ animitta của Phạn ngữ. Kinh 80của Tạp A Hàm do Cầu Na Bạt Đà La dịch thì dùng danh từ vô tướng, vàdanh từ vô tướng về sau này đã trở thành phổ thông hơn.

Người đã thành công trong phép quán khôngthì có thể thành công dễ dàng trong phép quánvô tướng. Các kinh ThánhPháp ấn và Tạp A Hàm đều nhấn mạnh rằng phải thấy được khôngthì mớithấy được vô tướng. Điều này thật quan trọng. Vô tướngcó liên hệmật thiết tới không: tri giác của ta cho ta cái cảm tưởng là mọi sự vật đều cóvị trí riêng, hình tướng riêng và bản chất riêng của chúng, trong khi đó vạnvật nương nhau mà sinh khởi, cái này có vì cái kia có, cái này nằm trong cáikia và không có vật gì có tự thể hay bản ngã riêng biệt.
Ví dụ cái bàn không phải là một thực thể riêngbiệt; sự có mặt của cái bàn tùy thuộc vào sự có mặt của gỗ, của cưa, của bào,của người thợ mộc và của ngàn vạn hiện tượng khác, nếu ta rút gỗ, cưa, bào,đinh, thợ mộc v.v.. ra, thì cái bàn không có mặt và ta tìm không ra hình tướngcủa cái bàn. Đã không có bản chất riêng biệt thì hình tướng cũng chỉ là giảtạo, không hiện thực. Ta thử lấy một ví dụ: nước. Trong ngôn ngữ hóa học, nướclà H2O. Ta tạm cho H2O là tự tính của nước, như ta gọi Khônglà tự tính củavạn hữu. Nước đồng thể với tuyết, với sương, với mây, với băng; nước có mặttrong không khí, trong cây lá, trong sinh vật. Những hình tướng của nước, củaH2O, loãng, đặc, nhẹ, nặng, lớn, nhỏ, mỏng, dày và những hình thái của các bìnhđựng mà nước chấp thuận theo như vuông, tròn, bầu, dài v.v... đều là những tướngcủa nước. Kẹt vào một trong những hình tướng này thì không thấy được tự thể củanước, tức là của H2O. Phép quán vô tướng là phép quán giúp ta không bị kẹt vàonhững dữ kiện của tri giác để đi được vào trong lòng thực tại

Trong kinh Anuràdhasutta (Samyutta-Nikaya),A Nậu Lâu Đà đã cùng Phật đi tìm bản chất riêng biệt của Phật.Phật hỏi A Nậu Lâu Đà xem có thể tìm thấy Phật nơi năm uẩn không, A Nậu Lâu Đànói không. Ngài hỏi có thể tìm thấy Phật ngoài năm uẩn không, A Nậu Lâu Đà cũngtrả lời không. Không thể tìm thấy Phật vì Phật là vô tướng. Nhận Phật qua hìnhtướng, dù là tướng hữu hay tướng vô, đều là sai lầm. Kinh Kim Cương Bát Nhã củỪại Thừa cũng lấy đề tài này. Phật hỏi Tu Bồ Đề rằng có thể nhận ra Phật quasắc tướng không, Tu Bồ Đề nói không. Phật nói: “Bất cứ cái gì có tướng đều làhư vọng. Nếu thấy được rằng các tướng không phải là tướng, thì thấy được NhưLai.”

Tướng tức là đối tượng của tri giác và là nộidung của tri giác vậy. Nếu kẹt vào tướng thì không thể thấy được thực tại, vìvậy phép quán vô tướng là phép quán giúp người hành giả vượt thoát được tínhcách hư ảo của đối tượng tri giác. Ta hãy đọc kinh văn: “Lại nữa, an trútrong định mà quán sát các đối tượng hình sắc thì hành giả thấy hình sắc đềutan biến hết và người ấy thoát ly được tính cách hư ảo của tri giác về hìnhsắc. Các đối tượng khác là thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng đều tan biếnhết và hành giả thoát ly được tính cách hư ảo của tri giác về thanh, hương, vị,xúc và pháp. Phép quán sát này gọi là vô tướng, cửa giải thoát thứ hai.”

Vô tướng cũng là vô tưởng: vô tướng làđứng về phương diện đối tượng nhận thức mà nói, còn vô tưởng là đứng về phương diệnchủ thể nhận thức mà nói. Khi đối tượng nhận thức hiển lộ tính cách vô tướngcủa nó thì chủ thể nhận thức là vô tưởng. Tưởng là uẩn thứ ba của năm uẩn, đólà tri giác. Tri giác, một khi không còn bị kẹt vào tính cách hư vọng của đốitượng thì được gọi là vô tưởng. Vô tưởng không có nghĩa là vô tri vô giác, màvẫn là một cái thấy, một thứ tri kiến. Thứ tri kiến không bị hình tướng dẫn dắtvà bó buộc được gọi là tri kiến thanh tịnh. Với tri kiến này, không cònsự phân biệt chia cắt nữa, cho nên những cái thấy sai lạc như ta và của ta đượcphá đổ tận gốc. Ý niệm về ta và của ta không còn, thì gốc rễ của tham lam, hờngiận và si mê cũng được đào bỏ. Ta đọc lại kinh văn: Vào được cánh cửa giảithoát này rồi thì tri kiến sẽ được thanh tịnh, và vì tri kiến đã thanh tịnh nênhành giả diệt trừ được hết các phiền não tham, sân, và si. Tham sân si đã tậndiệt thì lìa được những cái thấy về ta và về của ta, nghĩa là chấm dứt được mọicái thấy sai lầm. Các cái thấy này không còn cơ hội và căn cứ để sinhkhởi nữa.

Tiếng nimitta (tướng) có nghĩa là hìnhảnh, tướng mạo, đối tượng của nhận thức. Phạn ngữ còn tiếng laksana cũngcó nghĩa là tướng trạng, cũng có nghĩa là đối tượng của nhận thức. Ngành pháptướng học của đạo Phật nghiên cứu về tướng trạng của vạn pháp để từ đó đi vào tựthể của vạn pháp. Con đường đó gọi là “từ tướng trạng của vạn pháp đi vào thểtính của vạn pháp” (tùng tướng nhập tánh). Học phái tân duy thức củaDinnaga (Trần na) phân biệt hai loại tướng: tự tướng và cọng tướng. Tự tướng(svalaksana) bản thân của thực tại, còn cọng tướng (samànya) là những khuôn khổmà nhận thức mang vào cho tự tướng. Theo nghĩa đó thì vô tướng của kinh Pháp ấntức là sự vắng mặt của cọng tướng vậy.

Tông Thiên Thai có ba phép quán: không, giả vàtrung. Phép quán thứ hai, giả quán, nhằm mục đích khai thị tính cách hư ảo,không thật và giả tạm của các pháp. Phép quán này cũng nằm trong truyền thốngphép quán vô tướng.

Phép quán vô tướng mà thành công cũng giúpcho hành giả thấy được tính cách bất sinh bất diệt của vạn pháp.

5) Cánh cửa giải thoát thứ ba là vô tác.Danhtừ vô tác (apranihita) có nghĩa là không đặt một đối tượng nào phía trước mình.Trước hết nó có nghĩa rằng đối tượng nhận thức không phải là một vật độc lậpvới nhận thức, nằm ở ngoài nhận thức. Nhận thức bao hàm chủ thể nhận thức vàđối tượng nhận thức. Thấy bao giờ cũng là thấy một cái gì, nghe bao giờcũng là nghe một cái gì. Không có thể có một cái thấy và một cái nghe thuần túychủ thể không có đối tượng. Không có đối tượng thì không phải thấy, không phảinghe. Vô tác là cái nhìn siêu việt được tính cách nhị nguyên đối với chủ thể vàđối tượng. Duy thức học sau này phân biệt kiến phần (chủ thể nhận thức -darsana-bhàga) với tướng phần (mmittabhàga) và nhấn mạnh hai phần này nươngnhau mà sinh khởi, cái này có thì cái kia mới có. Ta đọc câu này trong kinhPháp ấn:thoát ly được cái thấy về Ta rồi thì không còn cho rằng những sụvật mà ta thấy, nghe, cảm và biết là nhũng sựï vật có thật ngoài nhận thức nũa.Vì sao thế? Vì nhận thúc cũng chính là do nhân duyên mà phát sinh. Nhữngnhân duyên ấy tức là kiến phần (chủ thể nhận thức) và tướng phần (đổi tượngnhận thức) vậy. Nhân duyêncó nghĩa là nhân và duyên. Chữ nhân (hetu)thường được gọi là nguyên nhân chính và duyên là những điều kiện phối hợp đểcho nhân trưởng thành. Nhân cũng là một duyên. Ngoài ra còn có tăng thượngduyên, tức là những điều kiện giúp rập, sở duyên duyên, tức là đốitượng nhận thức, và đẳng vô gián duyên, tức là sự nối tiếp không gián đoạncủa dòng nhân quả. Nhận thức cần đến tất cả bốn duyên để sinh khởi, biến chuyểnvà hoại diệt; nhận thức cũng biến chuyển và sinh diệt như các nhân duyên làm phátkhởi ra nó.

Ta hãy đọc tiếp: Nhận thức và các nhânduyên làm phát khởi ra nhận thức đều biến chuyển vô thường mà vì thức vô thườngcho nên ta cũng không nắm bắt được. Thứùc uẩn đã không như bất cứ hiện tượngnào khác thì còn có gì cần được tạo tác thêm nữa đâu? “Thức uẩn đã không”,ta phải nhớ rằng không ở đây là không có thực thể riêng biệt, không nắm bắtđược chứ không phải là không đối với có.Khôngở đây không phải là nềntảng của có, mà cũng không phải là nền tảng của không, mà là nền tảng của cả cóvà không. Nó siêu việt có và không, nó thu nhiếp vạn pháp, vì vậy ta không thểlàm cho nó giàu thêm hoặc nghèo thêm. Đó là ý nghĩa của bốn chữ “bất tăng bấtgiảm” trong Tâm Kinh Bát Nhã. Vô tácvì vậy còn có nghĩa là không có gìcần được tạo tác nữa, không có gì cần được thực hiện nữa, kể cả sự giác ngộ,đạt đạo, chứng quả hay đắc đạo. Đi tìm cầu một sự giác ngộ ngoài tự tâm là mộtđiều sai lầm. Hướng tới một tương lai trong đó giác tính của mình sẽ tròn đầyhơn là một điều sai lầm. Tự tính giác ngộ đã có đầy đủ nơi mọi người; đi tìmgiác ngộ ngoài tâm cũng như hạt muối đi tìm chất mặn. Trong bài thơ “Bướm bayvườn cải hoa vàng” có một câu nói về việc này. “Công trình xây dựng ngàn đời,nhưng công trình, em ơi, đã được ngàn đời hoàn tất”. Vô tác sau này sẽ lànền tảng cho vô đắc vậy. Tâm Kinh Bát Nhã nói: “Không có đắc vì không cósở đắc vậy.”

Thấy được các pháp không có mặt riêng biệtngoài nhận thức, thấy được nhận thức không có mặt riêng biệt ngoài các pháp, đólà đạt được cái thấy thực sự bình đẳng không phân chia, trong đó các pháp hiệnrõ tính cách niết bàn của chúng. Niết bàn có nghĩa là tịch diệt; chữ tịch diệtđây có nghĩa là sự vắng mặt của những ý niệm ta và của ta, ta và người, sinh vàdiệt, thường và đoạn, một và nhiều. Thấy được các pháp như vậy mới thật sự làthấy được các pháp một cách cứu cánh. Ta hãy đọc kinh văn: Phép quán sát nàyđược gọi là vô tác, của giải thoát thứ ba. Vào được cửa giải thoát này rồi thìthấy đựơc chân tướng các pháp một cách triệt để, không còn bị kẹt vào một phápnào nữa và thể nghiệm được tính cách niết bàn của các pháp.

Kinh Tạp A Hàm do Cầu Na Bạt Đà La dịch đãdùng danh từ “vô sở hữu" (không có) để dịch danh từ apramhita, thay vì dùng danhtừ vô tác Sau này có người lại dùng danh từ vô nguyện. Tự điển Phật học củaNyanetiloka (Buddhist Dictionary, manual of Buddhist Terms and Doctrines) đãdùng danh từ desireless. Nhà học giả Anh Edward Conze trong các tác phẩm nghiêncứu của ông đã dùng danh từ wishlessness.

6) Đoạn khép của kinh gọi ba cánh cửa giải thoátlà pháp ấn, và nhắc lại rằng mục tiêu của ba phép quán này là đi đến tri kiếnthanh tịnh.

V.
Đạo Phật trước hết là con đường đưa đến giải thoátbằng trí huệ chứ không phải bằng đức tin và bằng sự cấm đoán luân lý. Những khai thị của đạo Phật về vô thường, vô ngã, không, vô tướng, vô tácv.v... là để hướng dẫn hành giả đạt tới nhận thức về thực tại chứ không phải lànhững tiền đề để đi tới các kết luận luân lý, như cách nói: đời là vô thườngcho nên ta không nêntham đắm, sự vật là không cho nên ta phải chán bỏv.v. . . Nhiều nhà kết tập kinh điển và nhiều luận gia A Tỳ Đạt Mathường hay quên đi nguyên tắc căn bản của đạo Phật là giải thoát bằng trí tuệcho nên cứ có khuynh hướng diễn tả đạo Phật trước hết như là một nềnluân lý, do đó đã có thể gây ấn tượng sai lầm cho một số người học Phật đờisau. Vô tác được hiểu là vô dục (desirelessness) cũng vì lý do đó. Vô tác phảiđược hiểu trên bình diện nhận thức luận, cũng như không và vô tướng vậy.

Ta biết đoạn thứ ba của kinh văn nói về không,đoạn thứ tư nói về vô tướngvà đoạn thứ năm nói về vô tác. Tahãytrở lại đoạn thứ hai của kinh văn; đoạn này nói về khôngnhư tự tính củacác pháp và của nhận thức. Trong đoạn này, ý niệm về ba cánh cửa giải thoátcũng đã được đề cập tới. Kinh văn như sau: Tự tính của không là không nằmtrên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không cótướng sinh, không có tướng diệt và vượt thoát mọi tri kiến. “Không nằm trênbình diện các pháp hữu vi (vô sở hữu)” đó là Không“không nằm trongkhuôn khổ các vọng tưởng (vô vọng tưởng)” đó là vô tướng; “không cótướng sinh, không có tướng diệt và vượt thoát mọi tri kiến (vô sở sinh, vô sởdiệt, ly chư tri kiến)” là vô tácvậy. Đoạn kinh văn này như vậy đã baohàm ý niệm ba cánh cửa giải thoát, vì vậy cho nên Phật đã nói “đó là Pháp ấn”. Ba đoạn kinh văn tiếp sau chỉ là để chỉ bày rõ ràng thêm ba phép quán giảithoát mà thôi.

Kinh Pháp ấn tuy thuộc về kinh bộ A Hàm của Phậtgiáo nguyên thỉ, nhưng trong kinh đã chứa sẵn hạt giống của các tư tưởng hệ bátnhã, duy thức và viên giác. Đây là một trong những kinh căn bản nhất của đạoPhật. Đọc kinh bằng con mắt của Phật giáo đại thừa, hành giả sẽ thấy được nhữngý tứ sâu xa hàm chứa trong kinh và có thể hiểu được những câu kinh mà người kếttập hoặc người dịch đã thiếu ít nhiều khéo léo khi diễn tả. Trong kinh Pháp ấncó một câu như thế. Đó là câu: “Phục thứ, ly ngã kiến dĩ, tức vô kiến vô văn vôgiác vô tri.”
Nếu dịch từng chữ ta sẽ có: Lại nữa, lìa ngãkiến rồi thì không (còn) thấy, không (còn) nghe, không (còn) cảm, không (còn)biết. Người học giả sơ cơ sẽ có thể hoang mang trước một câu kinh như thế.Tại sao lìa được ngã kiến mà không còn thấy, nghe, cảm biết? Lìa ngã kiến thìbiến thành vô tri hay sao? Do đó, căn cứ trên văn mạch và trình tự tư tưởng, chúngtôi đã dịch câu kinh đó như sau: “Thoát ly được cái thấy về ta rồi thì khôngcòn cho rằng những sự vật mà ta thấy, nghe, cảm và biết là những sự vật có thậtngoài nhận thức
nữa?" Xinkèm theo bản Hán dịch của Thi Hộ để các bậc cao minh cứu xét.

VI.
Từ ngữ

Pháp ấn:Chữ pháp ở đây có nghĩa là giáo pháp của Phật. Chữ ấn có nghĩa là khuôn dấu,tức là phương tiện chứng minh cho tính cách chân xác và chính thống của đạoPhật.

Xá Vệ:Sràvasti, một vương quốc nhỏ cácCa Tỳ La Vệ (Kapilavastu) chừng năm trăm dặm vềphía Đông Bắc. Bây giờ là thành Rapetmapet ở phía Nam sông Rapti. Ngày xưa Phật vàgiáo đoàn ưa lưu trú tại đây, vì ở đây có vườn Kỳ Thọ (Jetavana).

Khất sĩ.dịch từ chữ bhiksu, những vị xuất gia thời Phật còn tại thế, mỗi ngày đi khấtthực một lần để nuôi thân và để có dịp gặp gỡ và giảng dạy đạo lý cho người cư sĩ.Dịch âm là tỳ khưu hay bí-sô. Kinh Pháp ấn dùng danh từ bí-sô.

Thế Tôn:một trong mười danh hiệu thường được dùng để gọi Phật. Thế Tôn (Bhagavàn) cónghĩa là bậc tôn quý ở đời.

Không:Phạn ngữ là sùnyatà, có nghĩa là trống rỗng. Không ở đây có nghĩa là không cótự thể riêng biệt, không thể nhận thức bằng các phạm trù tri giác và tư tưởng,chứ không có nghĩa là hư vô, không có nghĩa là không đối với có

nắm bắt:dịch chữ upàdàna, danh từ hán việt là thủ hay trước, có nghĩa là bị kẹt vào,mắc vào, không buông thả được.

cái thấy bình đẳng: dịch chữ bình đẳng kiến, cái thấy không chia cắt thựctại thành từng mảnh nhỏ riêng biệt và rời rạc, cái thấy trong đó các ý niệm vềta và người, sinh và diệt, một và nhiều v.v.. . đã được phá bỏ. Cái thấy này làmột thứ trí tuệ giác ngộ, gọi là bình-đẳng-tánh-trí (samatàjnàna).

Ba cánh cửa đi vào giải thoát: tam giải thoátmôn, Phạn ngữ gọi là trivimoksha-dvara,tức là Không (sùnyatà), Vô tướng (animitta) và Vô tác (apranihita).

quán chiếu trong lòng thực tại:dịch từ bốn chữ “như thật quán sát”. Như thật ở đây cónghĩa là đi thẳng vào thực tại chứ không đứng bên ngoài thực tại mà quán sátthực tại như một đối tượng khách quan. Đây là điểm khác biệt giữa Phật học vàKhoa học xưa nay.

uẩn: cókhi gọi là ấm, dịch từ chữ skandha của Phạn ngữ, có nghĩa là nhóm họp và ngănche. Năm uẩn kết hợp thành sinh mệnh và cũng có tác dụng ngăn che cái thấy vềthực tại. Năm uẩn là sắc (vật chất, rùpa), thọ (cảm giác. vedanà), tưởng(tri giác, sanjnà), hành (tâm tư. samskàra) và thức (nhận thức,vijnàna).

Cái thấy(sai lầm) : dịch từ Phạn ngữ drsti, từ hán việt là kiến, thường hay dùng trongnghĩa tà kiến, tức là nhận thức sai lầm. Có nhiều nhóm kiến như nhị-kiến,tứ-kiến, ngũ-kiến, v.v...

nhân duyên: Nhân (hetu) là nguyên nhân chính, như hạt lúa, duyên (pratyayÏa) là nhữngđiều kiện trợ lực cho nhân như đất, nước và ánh sáng làm cho hạt lúa mọc thànhcây lúa.

triệt đểdịch từ chữ cứu cánh, có nghĩa là tận gốc, hoàn toàn.

tịch diệt: dịch từ chữ niết bàn, có nghĩa là thoát ly được các phạm trù có-không,sinh-tử, này-kia, một-nhiều, trước-sau, thường-đoạn, v.v... Tịch diệt không cónghĩa là hư vô, bởi vì tịch diệt siêu việt cả có và không.

sắc thanh, hương, vị, xúc và pháp: đây là sáu loại đối tượng của tri giác, gọi là lụctrần, đối với sáu loại giác quan gọi là lục căn. Pháp là đối tượng của ý căn,làm phát sinh ý thức.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com