Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn chân lý cao quý

07/09/201111:38(Xem: 5595)
Bốn chân lý cao quý

BỐN CHÂN LÝ CAO QUÝ
His Holiness the Dalai Lama - Tuệ Uyển chuyển ngữ

Khi Đấng Đạo sư vĩ đại của hoàn vũ Phật Thích Ca lần đầu tiên thuyết giảng về giáo Pháp trên mảnh đất tôn quý Ấn Độ, Ngài đã dạy về bốn chân lý cao quý: sự thật của khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, sự chấm dứt khổ đau và con đường để chấm dứt khổ đau. Từ ấy đến nay, nhiều quyển sách chứa đựng những bàn luận về bốn chân lý cao quý bằng Anh ngữ, chúng (được biết nhiềulà Bát chánh đạo) rất phổ biến. Bốn chân lý này chứa đựng tất cả, bao gồm nhiều vấn đề trong ấy.

Lưu tâm đến bốn chân lý cao quý một cách thông thường phổ biến và sự kiện là không ai trong chúng ta muốn khổ đau và tất cả chúng ta khao khát hạnh phúc, chúng ta có thể nóivề một quả và một nhân của cả phương diện phiền não và phương diện giải thoát. Những khổ đau thực sự và những nguyên nhân thực sự là quả và nhân trên những thứ mà chúng ta không muốn, sự chấm dứt thực sự và con đường đúng thực là tác động hiệu ứng và nguyên nhân trên những thứ mà chúng ta khao khát.

SỰ THẬT VỀ KHỔ ĐAU

Chúng ta trải qua kinh nghiệm nhiều loại khác nhau về khổ đau.Tất cả bao gồm ba thứ: khổ của khổ (khổ khổ, khổcủa đổi thay (hoại khổ) và khổ lan tràn cùng khắp tấtcả (hành khổ).

Khổ của khổ liên hệ đến những thứ như nhức đầu và v.vvà v.v… Ngay cả những thú vật cũng có thể nhận biếtloại khổ này và, giống như chúng ta, muốn thoát khỏi khổđau đó. Bởi vì hữu tình chúng sinh có sợ hãi và kinhnghiệm không thoải mái từ những loại khổ này, chúng sinhdấn thân vào nhiều loại hành động khác nhau để xóa bỏchúng.

Khổ của đổi thay liên hệ đến những hoàn cảnh nơi chốn, thídụ, chúng ta đang ngồi thư giản rất thoải mái và khởiđầu mọi thứ dường như tốt đẹp, nhưng sau một lúc chúngta mất cảm giác ấy và trở nên áy náy không yên và không thoải mái.

Trong những xứ sở nào đấy chúng ta thấy một số lượng áp đảo của nghèo nàn và bệnh tật: đó là những thứkhổ của loại một – khổ của khổ. Mọi người nhậnthức rằng đó là khi những điều kiện khổ đau được loạitrừ và tiến bộ phát triển ở trên đấy. Trong nhiềunước phương Tây, nghèo khổ có thể không là một vấn đề,nhưng chúng ta ở nơi có trình độ phát triển vật chất cao có những vấn đề thuộc loại khác. Thoạt tiên chúngta có thể vui sướng vì vượt qua những vấn đề khó khănmà chúng ta đối diện trước đây, nhưng chẳng bao lâu khichúng ta giải quyết những vấn đề nào đấy, những khókhăn khác lại xuất hiện. Chúng ta có hàng khối tiềncủa, vô vàn thực phẩm và nhà cửa đẹp đẻ, nhưng bởichú trọng quá mức giá trị của những thứ này chúng cuốicùng chúng ta làm cho chúng trở nên vô giá trị. Loạikinh nghiệm này là khổ của đổi thay.

Mộtngười nghèo khổ thuộc tầng lớp dưới có thể nghĩ rằngthật là tuyệt vời nếu có một chiếc xe hơi hay một truyềnhình và nên làm thế nào kiếm được chúng, người ấy sẽtrước hết cảm thấy rất hạnh phúc và hài lòng. Bâygiờ đây, nếu những hạnh phúc như thế là thường tại,chỉ cần người ấy có xe hơi và truyền hình người ấysẽ vẫn vui vẻ. Nhưng vấn đề không như vậy, niềmhạnh phúc ấy sẽ qua đi. Sau vài tháng người ấy muốnmột loại xe khác, nếu có tiền, người ấy sẽ mua một truyềnhình mới. Những thứ cũ kỷ, cùng những đối tượngđã từng cho người ấy biết bao vui thích hài lòng, giờ đâylà nguyên nhân làm cho người ấy bất mãn. Đó là tínhtự nhiên của đổi thay, vô thường; đó là vấn nạn củakhổ đau thay đổi, vô thường.

Khổ đau lan tràn cùng khắp là loại khổ đau thứ ba. Nó gọilà khổ đau làn tràn cùng khắp, khổ đau pha lẫn phức hợpđa phương, bởi vì nó hoạt động như căn bản của hai thứtrước.

Cóthể có những người, ngay cả ở những xứ sở phát triển,muốn được giải thoát khỏi thứ khổ đau thứ hai, khổđau của thay đổi, vô thường. Chán nản với nhữngcảm xúc nhiễm ô, họ tìm những cảm giác thư thái, thanhthản, tĩnh lặng, điều này có thể hướng dẫn đến táisinh trong những thế giới vô sắc tướng, không có hình dángrõ rệt, chỉ có những cảm xúc như thế.

Giờ đây, khao khát giải thoát khỏi hai loại khổ đau đầu tiênkhông phải là động cơ chính để tìm kiếm sự giải thoát(từ thế giới luân hồi); Đức Phật dạy rằng gốc rễcủa ba loại khổ đau là loại thứ ba: khổ đau lan tràn cùng khắp. Một số người muốn tự tử; họ nghĩ rằng cókhổ đau đơn giản chỉ vì có đời sống con người và bằng sự chấm dứt đời sống thì sẽ không còn gì nữa.Điều thứ ba này, lan tràn cùng khắp, khổ đau dưới sự điều khiển của nghiệp quả và tâm phiền não vọng tưởng. Chúng ta có thể thấy, ngoại trừ tư duy sâu sắc, rằng đâylà dưới sự điều khiển của nghiệp quả và tâm phiềnnão vọng tưởng của đời sống trước, hay tiền kiếp:giận tức và vướng mắc, chấp trước khởi lên đơn giảnchỉ vì chúng ta có cái tập hợp này hiện hữu. Tíchtập phức hợp những hiện tượng giống như một khả năngcho chúng ta sản sinh nghiệp chướng và những tâm phiền nãovọng tưởng; đó gọi là nhận lấy một vùng xấu. Bởivì rằng những hình thức nào liên hệ đến việc tiếp xúcmột vùng xấu của tâm phiền não vọng tưởng và bị dướisự điều khiển của chúng, nó hỗ trợ sự sản sinh nhữngtâm phiền não và ngăn trở chúng ta với đạo đức.Tất cả những khổ đau của chúng ta có thể truy nguyên đếnnhững tích tập của chấp trước, bám víu và vướng mắc.

Có thể, khi chúng ta nhận thấy rằng những tích tập của chúngta là nguyên nhân của tất cả những khổ đau của chúng ta,chúng ta có thể nghĩ rằng tự tử là con đường để thoátkhỏi khổ đau hiện tại. Thôi được, nếu không cósự tiếp diễn của tâm, không có đời sống tương lai, tốtđấy – nếu chúng ta có can đảm chúng ta có thể tự chấmdứt đời sống tức thì. Nhưng theo quan điểm của ĐạoPhật, điều đó không phải như thế, ý thức của chúngta sẽ tiếp tục. Ngay cả nếu chúng ta tự kết liễuđời sống của chính mình, kiếp sống này, chúng ta sẽ tiếpnhận một thân thể khác và một lần nữa nó sẽ là cơ sởcủa khổ đau. Nếu chúng ta thực sự muốn lìa xa tấtcả mọi khổ đau, tất cả những khó khăn mà chúng ta trảiqua trong đời sống hiện tại, chúng ta phải gạt bỏ đượcnguyên nhân căn bản, điều đã cho phép hưng khởi những tíchtập căn bản của tất cả khổ đau. Giết hạichính mình không đi đến giải quyết những vấn đề củachính ta.

Bởivì đúng như thế, bây giờ đây chúng ta phải khảo sát nguyênnhân của khổ đau: có một nguyên nhân hay không? Nếucó, nguyên nhân nào là nó: một nguyên nhân tự nhiên, điềukhông thể bị xóa bỏ, hay một nguyên nhân lệ thuộc trênchính nguyên nhân của nó và vì vậy có thể loại trừ? Nếu có một nguyên nhân có thể vượt qua, là có thể chochúng ta vượt thắng nó chứ? Vì vậy chúng ta qua đếnsự thật thứ hai, chân lý về nguyên nhân của khổ đau.

SỰTHẬT VỀ NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ ĐAU

Phậttử nhớ rằng không có một đấng tạo hóa ngoại tại vàmặc dù Đức Phật là một Đấng tối thượng, ngay cả mộtĐức Phật cũng không có năng lực tạo nên đời sống mới.Vì vậy, bây giờ đây, điều gì là nguyên nhân của khổđau?

Mộtcách phổ quát, nguyên nhân căn bản là tâm; tâm bị ảnh hưởngbởi những tư tưởng tiêu cực như giận tức, chấp trước,vướng mắc, ghen tỵ v.v… và v.v… là nguyên nhân chính củaSINH và tất cả những vấn đề như thế. Tuy nhiên, khôngcó một khả năng nào tự chấm dứt tâm, làm gián đoạn dònglưu chuyển ý thức. Xa hơn nữa, không có gì sai trongbản chất chiều sâu của tâm, nó chỉ đơn giản là bị ảnhhưởng bởi những tư tưởng tiêu cực. Vì vậy, câuhỏi là chúng ta có thể hay không có thể tranh thủ và giànhquyền kiểm soát đối với giận tức, chấp trước,vướng mắc và những tâm thức phiền não tiêu cực khác. Nếu chúng ta nhổ tiệt gốc những thứ đó, chúng ta sẽ chỉcòn lại với một tâm tinh khiết giải thoát khỏi những nguyênnhân của khổ đau.

Điềunày đưa chúng ta đến với những tâm thức phiền não tiêucực, đó là những nhân tố tinh thần. Có nhiều phươngthức khác nhau hiện hữu để luận giải về tâm, nhưng, thôngthường, tâm tự nó là những gì đơn thuần trong sáng vàtỉnh giác. Khi chúng ta nói năng trong thái độ phiềnnão bối rối như giận tức và chấp trước, chúng ta phảithấy chúng có thể ảnh hưởng và làm nhiễm ô tâm như thếnào; sự kiện là, điều gì là tính tự nhiên của chúng? Thế thì, đây là những luận giải về nguyên nhân của khổđau.

Nếuchúng ta hỏỉ những dính mắc, chấp trước và giận tứckhởi lên như thế nào? Câu trả lời là chúng chắc chắnđược hỗtrợ bởi sự tham đắm những thứ vốn thực sựđúng là của chúng ta. Thí dụ, khi chúng ta giận tứcvới những điều gì đấy, chúng ta cảm nhận rằng đốitượng ở ngoài đó, chắc chắn, thật sự và không gá ghép,và tự chúng ta giống như những gì chắc thật và có thểtìm thấy. Trước khi chúng ta giận tức, đối tượngxuất hiện bình thường, nhưng khi tâm thức ta bị tác độngbởi giận dữ, đối tượng lại được thấy là xấu xa,hoàn toàn ghê tởm, đáng ghét; những gì đấy chúng ta muốnthoát khỏi lập tức – nó xuất hiện thật sự để hiệnhữu trong cách ấy: chắc thật, độc lập và rất là khônghấp dẫn. Điều xuất hiện ấy của “sự thật xấuxa” đổ dầu vào lửa giận của chúng ta. Tuy vậy khichúng ta thấy cùng đối tượng ấy ngày hôm sau, khi sự giậntức của ta đã tàn lụi, nó dường như xinh đẹp hơn ngàytrước đấy; cùng đối tượng nhưng dường như nó khôngtệ như vậy. Điều này chỉ cho thấy rằng giận tứcvà dính mắc đã ảnh hưởng thế nào bởi sự bám víu củachúng ta vào những thứ như hiện hữu thật sự và khôngthuộc tính.

Vìvậy, luận giải triết học Con đường Trung đạo (trung quánluận) tuyên bố rằng gốc rễ của tất cả những tâm thứcphiền não tiêu cực bám víu lấy sự tồn tại thực hữu;điều này hỗtrợ chúng và đưa chúng đến hành động; rằngtâm thức si mê bám víu những thứ như tồn tại cố hữu,thật sự hiện hữu là nguồn gốc căn bản của tất củanhững khổ đau của chúng ta. Căn cứ trên sự bám víunày như sự tồn tại thực sự chúng ta phát triển tất cảnhững thứ tâm thức phiền não tiêu cực và tạo nên vô sốnghiệp nhân tiêu cực.

Họcgiả Ấn Độ Chandrakirti, một trong những đại biểu quan trọngcủa trường phái Trung Đạo vào thế kỷ thứ tám, ông đãcó ảnh hưởng rất lớn trong việc truyền bá trường pháiTrung Đạo vào đất Tây Tạng. Trong tác phẩm Nhập Trung Đạo[Madhyamakavatara] ông nói rằng, đầu tiên có sự dính mắcvào tự thân, điều rồi thì đi theo bởi sự bám víu nhữngthứ, những việc và trở nên dính mắc với chúng như “cáicủa tôi”. Trước tiên có một “cái tôi” rất chắc thật,độc lập; nó rất lớn - lớn hơn mọi thứ khác, đâylà cơ sở. Từ điều này dần dần đến “đây là củatôi; đây là của tôi; đây là của tôi”. Rồi thì “chúngtôi, chúng tôi, chúng tôi”. Rồi, do bởi sự chọn lựa phíanày, đến “những kẻ khác, kẻ thù của chúng ta”. Đối với “cái tôi” và “cái của tôi”, sự dính mắckhởi lên. Đối với ông ấy, bà ấy và họ, chúng tacảm thấy có khoảng cách và giận tức, rồi thì ganh tỵvà tất cả những cảm giác ganh đua khởi lên. Vì vậy,cuối cùng, vấn đề là: đây là cảm giác của “tôi” –không đơn thuần “cái tôi” nhưng “cái tôi” với điềumà chúng ta trở nên bị ám ảnh. Điều này cho phép khởilên giận dữ và tức tối, cùng với những lời nói cay nghiệtđộc ác và tất cả những biểu lộ vật lý của ác cảmvà thù ghét.

Tấtcả những hành động tiêu cực này (của thân, miệng và ý)tích lũy nghiệp xấu. Giết hại, trộm cắp, và tất cảnhững hành động tiêu cực cũng là kết quả từ những độngcơ xấu hay bất thiện. Ở cấp độ thứ nhất là tinhthần thuần túy, những tâm thức tiêu cực; cấp độ thứhai những tâm thức tiêu cực biểu lộ chính chúng trong nhữnghành động, nghiệp. Lập tức không khí bị nhiễu loạn,quấy rầy, mất yên tĩnh. Với giận tức, thí dụ, khôngkhí trở nên căng thẳng, mọi người cảm thấy không thoảimái, bứt rứt, khó chịu. Nếu ai đấy trở nên giậndữ, điên tiết, những người hòa nhã, lịch thiệp cố gắngtránh xa người đó. Cuối cùng, người giận dữ cũngcảm thấy bối rối, ngượng ngịu và xấu hổ vì đã nóitất cả những thứ vô lý, ngớ ngẩn, lố bịch, bất cứđiều gì thoáng qua tâm tư người ấy. Khi chúng ta tứcgiận, không có không gian cho tình lý hay lý trí, người ấytrở nên thật sự cuồng dại. Sau đấy, khi tâmtư ta trở lại bình thường, chúng ta cảm thấy xấu hổ.Không có gì tốt đẹp với giận dữ, tức tối và dính mắc,chấp trước; không có gì kết quả tốt đẹp từ đấy. Chúng có thể khó khăn để kiểm soát, nhưng mọi người cóthể nhận thấy rằng không có gì tốt đẹp về chúng.Thế thì, điều này là sự thật chân lý thứ hai. Bâygiờ đây, câu hỏi đề ra là những loại tâm thức tiêu cựcnày có thể hay không thể loại trừ hay chuyển hóa.

CHÂNLÝ VỀ SỰ CHẤM DỨT KHỔ ĐAU

Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự. Vì vậy, chúng ta phải khảo sát tâm thức chấptrước này là đúng hay nó bị thiên kiến, bóp méo, lệchlạc và nhìn những sự kiện sai lầm. Chúng ta có thểlàm việc này bằng sự khảo nghiệm làm thế nào đểnhững sự kiện nó được quán sát, lĩnh hội, nhận biếthiện hữu một cách đúng thực như nó là. Tuy nhiên,vì rằng tâm thức này tự nó không thể nhận biết hoặclà nó thấy rõ những đối tượng một cách đúng thực haykhông, chúng ta phải dựa trên một loại tâm thức khác.Nếu, trên sự khảo sát, chúng ta khám phá nhiều phương thứcgiá trị khác để quán sát những thứ, sự kiện, sự vậtvà rằng tất cả những thứ mâu thuẫn hay phủ định này(phương cách mà tâm thức chấp thủ hay dính mắc với chân lý hiện hữu) nhận định hay lĩnh hội những đốitượng của nó, chúng ta có thể nói rằng tâm thức này khôngthấy thực tại.

Vìvậy, với tâm thức có thể phân tích nguyên tắc cơbản, chúng ta phải cố gắng để quyết định hoặc là tâmthức chấp trước những sự kiện có thể khám phá thựcsự là đúng hay không. Nếu nó là đúng, tâm thức phântích có thể cuối cùng tìm ra những sự kiện chấp trước.Duy tâm luận [Cittamatra], hay Duy thức luận, và đặc biệtlà, Trung quán luận chứa đựng nhiều đoạn nghị luận củasự tiến hành những khảo nghiệm như thế. Theo nhữngđiều này, khi chúng ta khảo sát để thấy hoặc là tâm thứcchấp trước sự việc như vốn đã khám phá là đúng hay không,chúng ta thấy rằng nó không đúng, rằng nó bị bóp méo, thiênlệch – chúng ta không thể thật sự tìm thấy những đốitượng tại điều nó chấp trước, níu lấy. Vì lẽtâm thức này bị đánh lừa bởi đối tượng của nó vànó phải được loại trừ.

Vìvậy, qua khảo nghiệm chúng ta thấy không có giá trị hỗtrợ cho tâm thức chấp trước nhưng chúng ta tìm thấy mộtsự hỗtrợ của sự suy luận hợp lý cho tâm thức, tâm mànhận thấy rằng tâm thức chấp trước không có giá trị.Trên mặt trận tâm linh, tâm thức được hỗtrợ bởi sựhợp lý (logic) thì luôn luôn thắng lợi trước tâm thức khôngcó sự hỗtrợ hợp lý. Sự hiểu biết rằng không cósự kiện như những cấu trúc tồn tại thật sự có thểtìm thấy trong tính tự nhiên trong suốt sâu thẩm của tâm;tâm thức chấp trước những sự kiện khi sự thực có thểkhám phá là cạn cợt trên bề mặt và thoáng qua.

Khichúng ta loại trừ những tâm thức phiền não tiêu cực, nguyênnhân cuả tất cả khổ đau, chúng ta cũng loại bỏ đượckhổ đau như vậy. Đây là sự giải thoát, hay sự chấmdứt khổ đau; chân lý cao quý thứ ba. Vì lẽ nó có thểđạt đến điều này, giờ đây, chúng ta phải xem xétđến phương pháp. Điều này đưa chúng ta đến chânlý cao quý thứ tư.

CHÂNLÝ VỀ CON ĐƯỜNG CHẤM DỨT KHỔ ĐAU

Khichúng ta nói về những con đường thông dụng của ba thừaĐạo Phật – Tiểu thừa, Đại thừa và Kim cương thừa –chúng ta liên hệ đến ba mươi bảy nhân tố hay 37 phẩm trợđạo, điều đưa đến giác ngộ. Khi chúng ta nói mộtcách đặc biệt đến những con đường của bồ tát thừa[Mahayana] chúng ta liên hệ đến mười trình độ (thập địa)và sáu siêu việt toàn hảo (lục ba la mật).

Chúngta thấy sự thực hành của Theravada Thượng tọa bộ thôngdụng hầu hết ở Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan,v.v… Nơiđây, hành giả được thúc đẩy bởi sự khát khao đạt đếngiải thoát từ chính sự khổ đau của họ. Quan tâm chochính họ đơn độc, họ thực hành ba mươi bảy yếu tốgiác ngộ, điều này liên hệ đến năm con đường: tứchính cần (con đường cận tiến), tứ như ý túc và tứ niệmxứ (con đường tích lũy), ngũ căn và ngũ lực (conđường chuẩn bị), thất giác chi (con đường quán sát) vàbát chính đạo (con đường thiền định). Trong phươngpháp này, họ có thể hoàn toàn chấm dứt những tâm thứcphiền não tiêu cực và đạt đến sự giải thoát cá nhân. Đây là con đường và kết quả của Thinh văn giác.

Quantâm chính của những hành giả đạo Phật phát triển là không chỉ vì sự giải thoát của chính họ, nhưng là sựgiác ngộ vì tất cả chúng sinh. Với động cơ của tâmgiác ngộ hay tâm bồ đề - con tim của họ, thâm tâm củahọ được khuyến tấn, đề khởi đạt đến sự giác ngộvới một ý niệm tuyệt hảo để hỗtrợ những người khác– những hành giả này thọ trì sáu siêu việt toàn hảo vàtiến trình dần dần qua mười trình độ cuả bồ tátcho đến khi người ta hoàn toàn vượt thắng cả những loạichướng ngại và đạt đến giác ngộ tối thượng của Phậtquả. Đây là con đường và kết quả của đạo Phậtphát triển.

Cănbản thiết yếu của thực hành sáu siêu việt toàn hảo làsự kết hợp của phương pháp và tuệ trí vì vậy hai thângiác ngộ - sắc thân và pháp thân – (rupakaya và dharmakaya)—có thể đạt đến. Vì lẽ họ có thể đạt đến chỉ cùngmột lúc, những NHÂN của họ phải được tu dưỡng pháttriển cùng một lúc. Vì vậy, tổng hợp chúng ta phảixây dựng lên một kho tàng công đức – như là NHÂN củasắc thân, thân thể sắc tướng (rupakaya) -và một khotàng của sự tĩnh giác thâm sâu hay sự hiểu thấu sángsuốt bên trong- như là NHÂN của pháp thân (dharmakaya), thânthể của tuệ trí. Trong Ba la mật thừa (Paramitayana, hay Kinh thừa, Toàn thiện thừa), chúng ta thực hành phương phápđược hiểu thấu bởi tuệ trí và tuệ trí được hiểuthấu bởi phương pháp, nhưng trong Kim cương thừa chúngta thực hành phương pháp và tuệ trí như là một trong tínhtự nhiên.

TheFour Noble Truths
HisHoliness the Dalai Lama

HisHoliness the Dalai Lama gave this teaching in Dharamsala, 7 October 1981.It was translated by Alexander Berzin, clarified by Lama Zopa Rinpoche,edited by Nicholas Ribush and first published in the souvenir booklet forTushita Mahayana Meditation Centre's Second Dharma Celebration, November5-8 1982, New Delhi, India.

Publishedin 2005 in the LYWA publication Teachings From Tibet.

http://www.lamayeshe.com/otherteachers/hhdl/4noble_truths.shtml

TuệUyển chuyển ngữ
02-09-2008

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com