TRIẾT LÝ VÀ THỰC TIỄN
Của Pháp Môn Tịnh Độ
Thích Tâm An biên dịch
--- o0o ---
MỤC LỤC
|
LUẬN NIỆM PHẬT
Đại sư Đàm Hư
Phật pháp có nguồn gốc từ Ấn Độ, được lưu truyền đến Trung Quốc và các quốc gia khác trên thế giới. Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc. Danh từ “Phật” có nghĩa là giác, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn. Phật lấy từ bi làm gốc, từnghĩa là ban vui, binghĩa là cứu khổ.
Sau khi thành Phật, Đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, về sau những lời dạy của Ngài được chúng đệ tử kết tập thành tam tạng mười hai bộ kinh. Vì căn tính chúng sinh bất đồng, trình độ tiếp thu Phật pháp cũng khác nhau, do đó Phật pháp truyền đến Trung Quốc từ tam tạng mười hai bộ kinh lại được phân ra thành năm tông lớn: Giáo, Luật, Mật, Thiền và Tịnh. Sự phân chia này không phải là ý muốn của Phật. Đứng trên phương diện kinh điển thì không cái gì gọi là tông, là phái. Nhưng để thích hợp với căn tính chúng sinh, trong xu hướng tự nhiên, người sau mới thành lập các tông phái như vậy. Trong các tông phái, Thiền tông lấy giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật. Giáo tông dạy môn hạ trước đốn ngộ sau mới tiệm tu, do tu mà chứng. Đối với Luật tông thì chuyên trì giới luật, trước giữ gìn thân, sau đó mới nhiếp tâm, giới có thể là: Ngũ giới, 250 giới, Bồ tát giới, Tam tụ tịnh giới. Do có nghiêm trì Tịnh giới, mà từ giới sinh định, từ định phát sinh trí tuệ. Mật tông chuyên trì chú, chú trọng tu Tam Mật tương ưng. Bốn tông này đối với người sơ cơ học đạo khó thực hành viên mãn. Duy chỉ có Tịnh độ tông là rất đơn giản, chỉ chuyên trì một câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến nhất tâm bất loạn, liền được Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sinh Cực Lạc. Không luận là người độn căn hay lợi căn đều có thể thực hành và được nhiếp thọ.
Pháp môn Tịnh độ lấy việc hành trì duy nhất là thành tâm niệm Phật. Nếu có người nào hỏi: “Vì sao phải niệm Phật?”. Trước tiên xin giải thích rõ hai từ “niệm Phật”. Từ “niệm” là do hai từ “kim” và “tâm” hợp lại mà thành. Từ “Phật” là tiếng Phạn, nói cho đủ là “Phật Đà Da” Trung Hoa dịch là giác ngộ, cũng còn có nghĩa là “hiểu biết”. Việc niệm Phật người người có thể thực hành được. Mục đích của việc niệm Phật là hiện tại đạt được nhất tâm bất loạn, giác ngộ và giải thoát. Một niệm của chúng ta đầy đủ thập pháp giới, nên mới nói: “Mười đời xưa nay không lìa một niệm, hiện trong mười phương cát bụi, không cách một mảy may”. Nếu chúng ta niệm Phật thì “Một niệm niệm Phật, một niệm giác ngộ, niệm niệm niệm Phật, niệm niệm giác ngộ”. “Một niệm niệm Phật, một niệm tỉnh giác, niệm niệm niệm Phật, niệm niệm tỉnh giác”. Ai mà không muốn giác ngộ, không muốn tỉnh giác? Thế nhưng chúng ta, miệng thì nói muốn tỉnh giác, muốn giác ngộ mà tâm lại hồ đồ. Hồ đồ về cái gì? Đó là ý có ba nghiệp: Tham, sân, si. Miệng có bốn: Nói dối, nói lời thêu dệt, nói ác khẩu, nói lời ly gián. Thân có ba: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Do thân, khẩu, ý không trong sạch nên hằng ngày, sáu căn tiếp xúc với sáu trần chỉ phân biệt âm thanh, hình sắc, lợi dưỡng, hơn thua, thị phi, tốt xấu, để rồi lấy những thứ đó làm sở tri, sở giác của mình. Niệm Phật là cải đổi, bỏ đi tất cả những phân biệt hơn thua chấp trước đó, mà khôi phục lại cái bản tri bản giác. Một khi cái bản tri bản giác được khôi phục hoàn toàn là thành Phật. Việc thành Phật cũng không phải việc gì ở đâu xa xôi mà chủ yếu dụng công niệm Phật, niệm được thành phiến thì những cặn bã của chân tâm dần dần bị phá vỡ, lúc đó Phật tính sẽ hiển bày.
Bản tâm của chúng ta xưa nay vốn thanh tịnh, bình đẳng giác ngộ, quang minh rực rỡ, bao trùm khắp pháp giới hư không. Chỉ vì vô minh vọng động mà bị sáu trần dẫn dắt, do đó sự hiểu biết của chúng ta bị hạn hẹp, chỉ nhận thức được sắc thân tiểu ngã mà không thể nhập tính giác đại ngã vốn có xưa nay. Mọi người không ngờ thân thể mà chúng ta cho là “cái ta” chỉ là bảy đại: Đất, nước, gió, lửa, không, căn, thức hợp lại mà thành. Nếu đem phân chia ra từng phần thì thân thể không tồn tại được. Thí như: Thịt da là thuộc về phần đất; máu mủ, mồ hôi, nước mắt... là nước, hơi ấm là lửa, sự chuyển động của không khí và hơi thở trong thân thể và bên ngoài không trung là thuộc về phần không khí; ngoài ra còn có sáu căn là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn là thuộc căn đại. Trong mỗi căn lại có mỗi thức, sáu thức thuộc về phần thức đại. Nếu đem tất cả những phần trên phân ra từng phần, một người không thể nào tồn tại, vậy cái gì làm “cái ta” đây? Chúng ta xưa nay mê lầm cho bảy đại là ta, nhưng trên thực tế nó chỉ là một đãy da dơ bẩn, tanh hôi được trang hoàng bên ngoài bởi một lớp da nên chúng có ta khó nhận thức được.
Thí dụ chúng ta đang nghe pháp như vậy, tự nhiên có một người nào đó đem một túi đựng đầy phân tiến lại, chắc chắn mọi người cho đó là dơ dáy và hôi thối, người thì bịt mũi lại hoặc người thì đem nó mà bỏ, xem nó hết sức khinh rẻ. Thật ra, chúng ta ai ai cũng có một cái túi đầy dơ dáy như vậy, nhưng nó không lộ rõ ra bên ngoài như bao phân kia, mà được tiết ra bên ngoài thông qua chín lỗ, nên nói: “Chín lỗ thường bất tịnh” là vậy. Mọi người lại nhận lấy cái đãy da dơ bẩn làm cái ta, rồi yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ. Nếu lấy nhãn quan Phật mà nhìn thì chúng ta thật ngu si biết chừng nào. Do đó, mọi người cần phải quán chiếu cái thân mà bấy lâu nay nhận làm “cái ta”, nó chỉ là vật đầy bất tịnh. Đứng trên phương diện định nghĩa “cái ta” nếu nói thân thể này thật là ta, thì chúng ta có thể sai khiến nó làm theo ý muốn của mình, khi cần thì dùng, không cần có thể bỏ đi. Nếu không sai khiến được nó thì “cái ta” là cái gì đây?
Theo tập quán phổ thông, mọi người đều cho thân thể là ta, từ chỗ có ta lại có người, từ nhiều người hợp lại có chúng sinh, mỗi một chúng sinh đều ham muốn sống trường thọ, thật ra đó là điều hoàn toàn giả danh giả tướng. Vì “ta” và “người” là hai tướng đối đãi (tướng đối đãi là ở chỗ do có ta mà có người, do có người mà có ta). “Chúng sinh” là nhân hư giả (do vay mượn nhiều nhân duyên mà thành). “Thọ giả” cũng là tướng đối đãi không thực (Ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, tướng trạng của chúng vốn biến đổi không ngừng). Như vậy, nếu ly khai tất cả những tướng hư vọng giả danh ấy thì có một cái ngã thật phải không?
Hơn nữa, nghĩa “cái ta” là phải có chủ thể, mọi người thường cho thân thể là ta, nhưng nào có sai khiến nó được đâu, ví như: Lúc đói không ăn chịu không được, lúc khát không uống không thể làm gì, ngay cả sinh mạng khi hơi thở đã tắt, không chết cũng không được, thậm chí mắt thấy sắc đẹp không nhìn cũng không được, gặp hoàn cảnh ngũ dục sung túc, không thọ nhận cũng không xong. Như vậy, nếu mọi người không làm chủ được những vấn đề nói trên thì “cái ta” làm gì mà có. Tất cả những cái ăn, uống, thọ nhận là thuộc phần sinh mạng, sinh mạng thì có sinh có diệt, ngoài sinh mạng ra, mỗi chúng ta đều có một tuệ mạng, tuệ mạng thì không sinh cũng không diệt. Như vậy tuệ mạng là cái gì mà không sinh không diệt? Đó là tri giác tính. Tri giác tính tuy là vô hình vô tướng nhưng lại bao trùm khắp hư không pháp giới, không nơi nào là không có. Cái được gọi là: “Không trung sinh đại giác, như bọt nước đại dương”. Niệm Phật chính là nuôi dưỡng tuệ mạng pháp thân của chính mình, nhờ vào tha lực và tự lực, cầu sinh thế giới Cực Lạc, khai mở Phật tri kiến, phục hồi lại bản giác tự thân. Chư Tổ như: Thiên Thai Trí Giả Đại sư, Vĩnh Minh Đại sư, Long Thọ Thiền sư, Ngẫu Ích Đại sư, Triệt Ngộ Thiền sư... các ngài đều quy hướng Tịnh độ, chuyên môn niệm Phật. Vì tu các tông khác thường thường căn khí không thích hợp, hoặc khi tu gặp các cảnh tướng mà không người hướng dẫn sẽ gặp nguy hiểm, mang bệnh vào thân. Người niệm Phật chỉ cần tín, hạnh, nguyệnđầy đủ, niệm chắc chắn thiết thực, đã có sự trợ giúp của tha lực, lại có sự tu hành của tự lực, thì tuyệt không bao giờ gặp sai lầm. Cho nên nói pháp môn niệm Phật là pháp môn tối thắng mau thành Phật là vậy. Tu các pháp môn khác hoàn toàn dựa vào tự lực, phải đoạn trừ hết tham sân si, các lậu hoặc mới trực chứng. Nói thì dễ dàng như vậy, thực tế việc đoạn trừ tham sân si nào có dễ, vì nó đã được huân tập từ nhiều kiếp. Tu pháp môn Tịnh độ có một điểm đặc biệt là đới nghiệp vãng sinh. Sau khi được vãng sinh về thế giới Cực Lạc, nhờ vào năng lực không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà, Đại Thế Chí Bồ tát và Quán Thế Âm Bồ tát, cùng chư Thánh chúng, được họ dẫn dắt huân tu, trong tương lai dần dần nghiệp dứt tình không. Từ nơi Phàm Thánh Đồng Cư Độ, rồi tu tiến đến Phương Tiện Hữu Dư Độ, kế tiếp tiến lên Thật Báo Trang Nghiêm Độ, cuối cùng đạt được chân thân của Phật. Đó là giai đoạn tiến tu của người có căn cơ hạ liệt. Đối với người có căn tính Đại thừa, dù sinh đến bất kỳ quốc độ nào trong bốn quốc độ trên đều có thể thấy các quốc độ còn lại.
Niệm Phật cầu vãng sinh là pháp môn tối thắng, được vãng sinh đến thế giới Cực Lạc thì không còn tái sinh đọa lạc, hoàn toàn không còn tạo nghiệp, tự mình gia công tiến tu cho đến ngày thành Phật độ chúng sinh. Tu hành các pháp môn khác cố nhiên cũng tốt. Nhưng công phu tu không đạt đến cứu cánh tất sẽ bị đọa lạc. Như thuở quá khứ có ba vị Bồ tát Thế Thân, Vô Trước, Sư Tử Giác cùng tu tập Duy thức quán, ba vị phát nguyện sinh nội viện Đâu Suất thấy Bồ tát Di Lặc. Các vị cam kết với nhau rằng, nếu ai sinh về đó trước thì quay trở lại báo cho những người khác biết. Đầu tiên, Sư Tử Giác viên tịch, trải qua ba năm không thấy trở lại báo, ba năm sau Thế Thân lại viên tịch. Lúc Thế Thân sắp lâm chung, Vô Trước bảo với Thế Thân rằng: “Sau khi ông đến cõi trời Đâu Suất dù bất kỳ lý do gì ông cũng phải trở lại đây báo cho tôi biết”. Thế Thân qua đời, đúng ba năm sau ngài quay trở lại. Vô Trước hỏi Thế Thân: “Vì lý do gì mà ông trở lại đây muộn thế?”. Thế Thân đáp: “Tôi đến nội viện Đâu Suất chắp tay đảnh lễ tam bái, nhiễu quanh Bồ tát Di Lặc một vòng là quay trở lại liền”. Vô Trước lại hỏi: “Hiện nay Sư Tử Giác đang ở đâu? Vì sao không thấy trở lại?”. Thế Thân đáp: “Ông ấy sinh vào cõi trời ngoại viện Đâu Suất, không có trong nội viện. Do sinh vào cõi trời ngoại viện đang bị ngũ dục trói buộc nên không thấy Bồ tát Di Lặc, chính vì lý do đó mà không thể trở lại đây được”. Vô Trước sau khi nghe nói sinh thiên rất nguy hiểm, nên phát nguyện không sinh thiên mà phát nguyện sinh Tịnh độ (theo Tịnh Độ Thập Nghi Luận của Đại sư Trí Giả). Thiết nghĩ, ngài Sư Tử Giác là một vị Bồ tát Đại thừa, sinh thiên còn bị ngũ dục dẫn dắt, hà huống gì là phàm phu chúng ta, qua đó cho thấy rằng sinh thiên là điều nguy hiểm vô cùng! Đối với người tu thiền định, nếu công phu chưa đạt đến trình độ siêu xuất tam giới, không luận sinh lên một cõi trời nào, sau khi hưởng hết phước sẽ bị đọa lạc, rồi tùy theo nghiệp mà thọ báo. Lời này đã được Phật nói cho A Nan trong Kinh Lăng Nghiêm. Đúng là tu Tịnh độ không có nguy hiểm. Nên nói: “Nhiều người tu đến phi phi tưởng, không bằng quy hướng Tây phương”. Ý nói sinh đến tứ không của phi phi tưởng, khi tuổi thọ tận, phước hết đều bị đọa lạc, không bằng sinh về cõi Cực Lạc, dù có sinh nơi hạ hạ phẩm cũng có thể dần dần chứng đến thượng phẩm, so với việc sinh về cõi trời phi phi tưởng tốt hơn nhiều.
Trong thời khóa niệm Phật, mỗi ngày chúng ta nên đọc Kinh Di Đà, thường nên đọc vào công phu chiều. Đọc một lần, là một lần bạn đã huân tập cảnh giới thanh tịnh trang nghiêm vào trong tàng thức. Giống như bạn xem phim, một lần xem là một lần những hình ảnh trong phim đã huân tập vào tàng thức của bạn. Cũng vậy bạn đọc Kinh Di Đà lâu ngày, cảnh giới thù thắng trang nghiêm của cõi Cực Lạc sẽ dần dần huân tập vào trong tàng thức của bạn. Tuy hiện tại bạn chưa sinh Cực Lạc mà trong tâm đã được bao vây bởi cảnh giới Tây phương. Trong tương lai, đến giây phút lâm chung của bạn, ngoài công đức trì niệm danh hiệu Phật mà hằng ngày bạn huân tập, sẽ được Phật và Thánh chúng hiện ra tiếp dẫn. Lại còn những cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh mà hằng ngày bạn đọc Kinh A Di đã được huân tập, cũng từ trong tâm thức hiện ra trợ giúp cho bạn vãng sinh nhanh chóng hơn.
Điều được gọi là: “Tự tính Di Đà duy tâm Tịnh độ”. Chúng sinh chính là Phật, Phật cũng là chúng sinh. Phật và chúng sinh, Phật tính vốn bình đẳng như nhau. Tâm tức là độ, độ tức là tâm, tất cả đều do tâm sở hiện. Vậy người niệm Phật nên có công phu như thế nào? Nếu tín, hạnh, nguyện kiên cố không thay đổi, tự tính và Phật tức là một, tự tính tức là Phật, Phật tức là tự tính. Phật vốn đầy đủ vô lượng thọ, chúng sinh cũng vốn đầy đủ vô lượng thọ, Phật vốn đầy đủ vô lượng quang, chúng sinh cũng vốn đầy đủ vô lượng quang. Phật A Di Đà có thế giới Cực Lạc, y báo, chính báo, tướng hảo trang nghiêm; chúng sinh cũng có nhị báo, tướng hảo trang nghiêm. Trong Kinh Di Đà có nói: “Tất cả đều do Phật A Di Đà, muốn cho pháp âm chan hòa khắp nơi, mà biến hóa ra như vậy”. Từ câu kinh này có thể chứng minh rằng các cảnh giới của thế giới Cực Lạc đều tùy theo nghiệp tướng phước đức của Phật A Di Đà, duy tâm mà sở hiện. Trong khi đó Phật tính của chúng sinh vốn đầy đủ như Phật, mà chúng sinh lại không thể hiển hiện được những cảnh giới như Đức Phật Di Đà hay sao? Cho nên nói tự tính Di Đà, duy tâm tức Tịnh độ là vậy. Tự tính không nằm ngoài Phật và chúng sinh, Tịnh độ cũng không ngoài tâm mà có. Tây phương Di Đà và tự tính Di Đà, Tây phương Tịnh độ và duy tâm Tịnh độ đều là một. Cần phải hiểu đúng chữ “duy tâm”, duy tâm nói đây không phải là tâm điên đảo vọng tưởng duyên theo sáu trần hằng ngày, mà gọi “pháp pháp duy tâm”. Nói duy tâm là để hiển bày tự tính vốn bao trùm chu biến khắp pháp giới hư không, để thấy thân tứ đại chỉ là giả hợp. Từ đó người niệm Phật mỗi ngày khi đọc tụng Kinh Di Đà cần hiểu rõ như vậy, để lòng tin phát khởi kiên cố. Kinh Di Đà là kinh vô vấn tự thuyết. Trong kinh miêu tả về y báo, chính báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc và pháp môn niệm Phật sinh Tây phương. Ý nghĩa của Kinh Pháp Hoa và Kinh Di Đà giống nhau. Vì Kinh Pháp Hoa Phật cũng nói cho Tôn giả Xá Lợi Phất, cũng không ai hỏi mà tự nói. Sau khi Phật nói Kinh Vô Lượng Nghĩa xong, Ngài ngồi xếp bằng nhập vào chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ Tam Muội, thân và tâm của Phật đều không lay động, từ nơi lông trắng giữa chặng mày phóng ra một luồng hào quang, chiếu khắp cả một muôn nghìn cõi ở phương Đông, hiện ra vô số tướng trang nghiêm, khiến cho hàng đại chúng vô cùng nghi nan. Sau khi đại chúng được Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Di Lặc giải quyết các nghi ngờ, lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn từ chánh định an lành mà dậy, không có người nào thưa hỏi mà bảo với ngài Xá Lợi Phất rằng: “Trí tuệ của Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh Văn cùng Bích Chi Phật đều khó biết được... thành tựu pháp vị tằng hữu thậm thâm... Tóm yếu mà nói, vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, Đức Phật thảy đều thành tựu”. Tôi thường nói: “Kinh Pháp Hoa là nói rộng Kinh Di Đà, Kinh Di Đà lược nói Kinh Pháp Hoa”. Hai bộ kinh này đều lần lượt đi từ sự đến lý, không như các kinh khác nói rất nhiều danh từ pháp tướng dẫn dắt người tu ngộ lý rồi tu sự, hoàn toàn nói đến cảnh hiện lượng và tâm hiện lượng. Nếu mọi người để tâm nghiên cứu, so sánh hai bộ kinh này chắc chắn sẽ thấy rõ hơn.
Kinh Pháp Hoa gồm 7 quyển 28 phẩm. 14 phẩm đầu là khai quyền hiển thật, 14 phẩm sau là khai mở việc gần để nói việc sâu xa, tất cả đều nói pháp tối thượng thừa. Ví như trong Kinh Di Đà có nói: “Nếu có người thiện nam tín nữ nào, được nghe danh hiệu A Di Đà Phật, rồi niệm danh hiệu đó, trong một ngày, hay hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, hay là bảy ngày, được nhất tâm bất loạn. Thế là người ấy vào phút lâm chung, Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng hiện ra trước mặt, người ấy lúc chết tâm không điên đảo, tức được vãng sinh về nơi Cực Lạc”. Trong Kinh Pháp Hoa phẩm “Dược Vương Dược Thượng Bồ tát bổn sự” quyển thứ 6 có nói: “Nếu có người nghe kinh này, đúng như lời mà tu hành, đến lúc mạng chung liền qua cõi An Lạc, chỗ trụ xứ của Phật A Di Đà, cùng chúng đại Bồ tát vây quanh, mà sinh trong tòa báu hoa sen”. Hai đoạn kinh nói trên ý nghĩa hoàn toàn giống nhau. Kinh Di Đà nói về sự trang nghiêm thanh tịnh, thọ mạng, quang minh và sự hộ niệm của sáu phương chư Phật... Tuy Kinh Pháp Hoa dùng văn tự để nói rộng có khác, thế nhưng về mặt cảnh giới và ý nghĩa hoàn toàn giống Kinh Di Đà. Vì vậy một câu “A Di Đà Phật” là pháp tối thượng thừa, bao quát vô lượng pháp môn.
Một câu “A Di Đà Phật”, niệm được tương ưng, lập tức lục căn được thanh tịnh. Ví dụ, quý vị hiện tại đang niệm Phật, mắt thường thấy Phật đó là nhãn căn thanh tịnh, tai nghe âm thanh niệm Phật của mình và đại chúng, là nhĩ căn thanh tịnh, mũi ngửi hương trầm, là tỷ căn thanh tịnh, lưỡi đang co giãn phát ra danh hiệu Phật, là thiệt căn thanh tịnh, thân thể đang ở trong đạo tràng thanh tịnh, ngày ngày hướng Phật lễ bái đó là thân căn thanh tịnh, niệm Phật lạy Phật, tâm nhớ Phật là ý căn thanh tịnh. Lục căn thanh tịnh thì ba nghiệp thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh thì thân không trộm cắp, sát sinh, tà dâm; miệng không nói hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói lời thêu dệt; ý không tham, sân, si đó là tu thập thiện. Người tu hành không dễ gì mà đối trị được tam nghiệp, chỉ có niệm bốn chữ “A Di Đà Phật” mới có thể thu nhiếp, làm chủ được nghiệp, dần dần lâu ngày, niệm Phật thành phiến, tịnh nhân tăng trưởng, đến lúc lâm chung nhất định được vãng sinh Cực Lạc.
Phật và chúng sinh đều có chung quan niệm công phu mà thành. Phật một niệm đầy đủ thập pháp giới, chúng sinh một niệm cũng đầy đủ thập pháp giới. Nếu tâm khởi một niệm tham đó là Ngạ quỷ, tâm khởi một niệm sân là Địa ngục, tâm khởi một niệm si là Súc sinh, khởi một niệm mạn nghi là A tu la; một niệm vui ở ngũ thường, ngũ giới chuyển vào cõi Người, một niệm vui ở thượng phẩm thập thiện, thì sinh vào cõi Trời, nếu lấy Tứ Đế làm quán niệm đó là Thanh văn, lấy Mười Hai Nhân Duyên làm quán niệm, đó là Duyên giác, lấy Lục Độ làm quán niệm là Bồ tát, lấy tự lợi lợi tha, vạn hạnh bình đẳng làm quán niệm đó là Phật. Lại như trong nhân gian có các quan niệm: Sĩ, Nông, Công, Thương, Quân, Chính, Cảnh, Học sinh, đều là do quan niệm từ ban đầu mà hình thành. Vậy quan niệm là cái gì? Đó là do nhận thức của mọi người. Người niệm Phật cũng giống như vậy, mỗi ngày mắt thấy Phật, miệng niệm Phật, thân lễ lạy Phật, tâm nhớ Phật, tai nghe danh hiệu Phật, từng giây từng phút lấy việc vãng sinh Tịnh độ làm quan niệm, cứ như thế cho đến ngày thọ mạng hết, nhất định vãng sinh Tịnh độ và quyết định thành Phật. Như tôi đã nói ở trên, Phật giáo Trung Quốc, để thích hợp với xu thế tự nhiên, người sau mới phân chia thành một số tông phái như: Thiên Thai tông, Hiền Thủ tông, Pháp Tướng tông (cũng gọi Từ Tư tông hoặc Duy Thức tông), Tịnh Độ tông, Chân Ngôn tông, Thiền Tông, Luật tông v.v... đều do quan hệ truyền bá và học tập chuyên môn, mới thành lập ra như vậy. Trong các tông phái trên, chỉ có Tịnh Độ tông và Luật tông, việc hành trì cũng như giáo nghĩa thâm nhập vào các tông phái khác, được các tông phái kiêm tu, đồng thời cũng được bảy chúng đệ tử Phật tu tập. Thí dụ như: Thiên Thai tông, Hiền Thủ tông, Tam Luận tông, Pháp Tướng tông... Phán giáo và tu quán hoàn toàn khác nhau. Nhưng tóm lại mà nói, tất cả họ đều lấy pháp môn Tịnh độ làm phương tiện cứu cánh, đều lấy việc niệm Phật để thành Phật. Như Thiền tông trong tham thoại đầu cũng lấy câu “Người niệm Phật là ai?” để tu tập. Chẳng những vậy, bạn thấy không luận là một người xuất gia hay tại gia, cũng không luận là người học Phật vì động cơ như thế nào, song mục đích duy nhất của người học Phật, không ngoài việc niệm Phật thành Phật, đồng thời trong quá trình học Phật đó cần phải giữ gìn giới luật thanh tịnh. Thí dụ như: Không luận Bắc tông, Nam tông hay một tông phái nào, hiện nay tại Trung Quốc, mỗi lúc mọi người lên chánh điện lạy Phật hay nhiễu quanh Phật đều niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Lúc nói chuyện hay trả lời người khác mọi người đều niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Tuy nhiên, mục đích tối hậu là không ngoài việc vãng sinh Tịnh độ thấy Phật thành Phật. Điều đó cho thấy rằng pháp môn niệm Phật rất phương tiện lại còn phổ biến. Giới luật cũng không kém quan trọng, Phật pháp có hưng thịnh hay không, cũng từ chỗ đệ tử của Phật có giữ gìn giới luật thanh tịnh hay không. Mọi người có giữ gìn giới luật thì Phật pháp trụ thế, ngược lại thì Phật pháp sẽ diệt vong.
Thời Phật còn tại thế, xứ xứ mọi người đều lấy Phật làm thầy. Sau khi Phật diệt độ, tất cả mọi người đều lấy giới luật làm thầy. Vào giờ phút Phật nhập diệt, bốn chúng đệ tử đều thỉnh Phật trụ thế, vây quanh mà khóc lóc thảm thiết. Lúc bấy giờ, tôn giả Vô Bần, lòng đầy bi thương suy nghĩ: “Lúc Phật còn tại thế, mọi người lấy Phật làm y chỉ. Nay Phật nhập diệt rồi, muốn cho Phật pháp cửu trụ thế gian phải làm gì? Cần phải thưa hỏi Phật cho rõ”. Lúc đó, tôn giả A Nan cũng đang khóc lóc thảm thương. A Nan là thị giả Phật, đồng thời mỗi khi Phật thuyết pháp A Nan đều có mặt bên Phật. Do đó mà tôn giả Vô Bần nhờ A Nan hỏi Phật bốn việc. Trong đó có hai điều: Thứ nhất, lúc Phật còn tại thế mọi người an trú vào Phật, nay Phật diệt độ nên an trú vào đâu? Thứ hai, lúc Phật còn tại thế mọi người lấy Phật làm thầy, khi Phật diệt độ rồi, lấy ai làm thầy? Phật dạy: “Sau khi ta diệt độ các thầy nên an trú vào tứ niệm xứ, lấy giới luật làm thầy”. Lời di giáo sau cùng đó cho chúng ta thấy giới luật thật quan trọng biết chừng nào.
Phàm là người đệ tử Phật, cần phải giữ gìn giới luật Phật dạy. Tuy nhiên, không giữ được trọn vẹn, cũng phải giữ những giới quan trọng. Vì giữ bao nhiêu giới thì có lợi ích bấy nhiêu, nếu giữ được trọn thì sẽ có định lực rất lớn. Các đại tòng lâm Nam tông cũng như Bắc tông đều có quy củ và gia phong. Quy củ và gia phong đó chính là mọi người đồng tu cùng giữ gìn giới luật. Thử hỏi một tự viện, một am thất, một tịnh xá, một niệm Phật đường mà không giữ gìn giới luật thì Phật pháp sẽ ra sao? Đó là những nơi mọi người thường vãng lai, ứng nhân tiếp vật, do đó cần phải có giới luật. Điều đó cho thấy rằng niệm Phật và trì giới quan trọng như nhau. Hiện tại, Luật tông có Luật sư Hoằng Nhất tuy là người chuyên hoằng truyền giới luật, thế nhưng lại cũng chuyên niệm Phật và khuyên người khác niệm Phật. Ngoài Luật sư Hoằng Nhất ra còn có lão Pháp sư Đế Nhàn, lão Hòa thượng Hư Vân v.v... không người nào là không chú trọng niệm Phật. Cho nên cổ đức có nói: “Giáo diễn bổn tông, tu hành Tịnh độ” là vậy.
Thông thường, đệ tử Phật có bảy chúng. Một là Tỳ kheo tăng, là người nam xuất gia thọ cụ túc giới. Hai là Tỳ kheo ni, là người nữ xuất gia thọ cụ túc giới. Ba là Thức xoa ma na được giải thích là người nữ học pháp, tức là Sa di ni muốn thọ giới cụ túc, từ mười tám đến hai mươi tuổi, học sáu pháp (không dâm dục, không trộm cắp, không sát sinh, không nói dối, không uống rượu và không ăn phi thời). Trải qua sự học tập đó mới có thể thọ cụ túc giới làm Tỳ kheo ni. Bốn là Sa di, là người nam hậu xuất gia thọ trì mười giới. Năm là Sa di ni, là người nữ hậu xuất gia cũng trì giữ mười giới. Sáu là Ưu bà tắc, là người nam tại gia gần gũi Tam Bảo. Bảy là Ưu bà di, cũng là người nữ tại gia gần gũi Tam Bảo.
Người tại gia niệm Phật, trước tiên phải quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới. Tam Bảo là gì? Là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. “Phật” bao gồm Phật Thích Ca Mâu Ni hiện thân ở cõi Ta Bà, cho đến chư Phật hiện tại, quá khứ và vị lai. “Pháp” có nghĩa là quy tắc, đó là lời dạy của chư Phật. “Tăng” có nghĩa là hòa hợp, là những người xuất gia thay Phật hoằng dương chánh pháp, làm mô phạm cho thế gian. Tam Bảo gồm có Tự Tính Tam Bảo, Biệt Tướng Tam Bảo và Trụ Trì Tam Bảo. Tự tính Tam Bảo ở mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ, chẳng hướng ngoại mà tìm cầu. Như: Linh Minh Giác Chiếu là Phật bảo, Tịch Thường Viên Tịnh là Pháp bảo, Cách Hòa Diệu Lạc là Tăng bảo. Biệt tướng Tam Bảo gồm những gì? Bao gồm pháp, nhân, quả, tính, tướng, thể, dụng. Như diệu giác và tam thân đều gọi là Phật, chân như lý thể và tất cả các pháp môn phương tiện, đều gọi là Pháp, năm mươi địa vị Thánh hiền được gọi là Tăng. Trụ trì Tam Bảo gồm những gì? Trụ trì Tam Bảo ở thế gian, chủ yếu là muốn cho Phật pháp được lưu truyền, đồng thời làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tượng Phật, xá lợi... đó là Phật bảo, tam tạng Kinh, Luật, Luận là Pháp bảo, đồ chúng xuất gia vì sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh đó là Tăng bảo.
Mọi người cần biết, người quy y Tam Bảo, ngoài việc quy y Tam Bảo ra, cần phải quay về quy y Tam Bảo tự tính vốn có của bản thân. Chữ “Phật” được giải thích là giác, người người đều có tính giác. Vì vậy quy y Phật, đó là quy y tính giác của mình. Người người đều có thể tự lực làm hiển lộ tính giác thù thắng đó. Quy y Pháp là quy y chân như diệu lý vốn có, mọi người đều có khả năng tiếp tục phát huy chân tính của tự thân. Quy y Tăng là quy y pháp thân thanh tịnh, tỉnh thức của tâm. Đã quy y Phật rồi, bạn không nên quy y bất kỳ một tôn giáo nào khác, vì các tôn giáo đó phần lớn đều ca ngợi, tôn sùng các vị thần linh, họ không đề cao vai trò và năng lực của con người, họ cho rằng con người chỉ vĩnh viễn làm nô lệ cho thần linh, điều đó hoàn toàn trái ngược với tinh thần bình đẳng mà Phật thường dạy: “Các pháp vốn bình đẳng, không có cao thấp”. Người người có tính giác, người người có khả năng niệm Phật thành Phật. Tuy nhiên, theo quan niệm phổ thông, khi nói đến quy y người ta thường nghĩ rằng chỉ quy y Thế gian Trụ trì Tam Bảo. Điều đó chẳng qua nhằm dẫn đạo cho người, mục đích chính là hướng dẫn cho bạn quay về nương tựa tự tính Tam Bảo vốn có của chính mình. Người niệm Phật cần hiểu biết tường tận, việc thành Phật không phải người khác thay thế, cũng chẳng ai mang đến cho ta mà phải chính ta nỗ lực niệm Phật để tự tính hiển lộ mới có khả năng thành Phật.
Ngoài quy Tam Bảo, mọi người cần giữ gìn năm giới để làm trợ hạnh cho việc niệm Phật. Năm giới bao gồm: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Không sát sinh là nhân, không trộm cắp là nghĩa, không tà dâm là lễ, không nói dối là tín, không uống rượu là trí. Bạn giữ ngũ giới tức là đã giữ ngũ thường của thế gian. Vì thế gian thường xem trọng nhân nghĩa. Không tàn nhẫn là đạo nghĩa, không cường bạo là lễ nhượng, không tà nhu là thật tín, không dối trá là lý trí, là không ngu si. Người niệm Phật trì năm giới là đã nuôi dưỡng nhân nghĩa, đạo nghĩa, lễ nhượng, thật tín, lý trí vừa là chánh nhân quân tử lại có thể làm tư lương cho Tịnh độ.
Ngoài tam quy ngũ giới ra, người niệm Phật còn phải tu tập quán niệm Tứ niệm xứvà Bát chánh đạotrong ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Tứ niệm xứ là gì? “Tứ” là bốn, “xứ” là nơi, là chốn, là vị trí, là đối tượng, là sở tri, là sở quán. Tứ niệm xứ là bốn cái mà người niệm Phật cần phải nhớ và quán niệm. Thứ nhất,Quán thân bất tịnh. Quán niệm thân thể này từ gót chân cho đến đỉnh đầu nơi nơi đều bất tịnh. Thân thể là xác thịt do tinh cha huyết mẹ hợp lại mà thành. Tất cả những gì làm nên và chứa đựng trong thân thể (như thịt, máu, mủ, phân, nước tiểu, mồ hôi, nước mắt, lông, móng, da v.v...) đều dơ bẩn, hôi hám, không có gì là trong sạch, tất cả đều bất tịnh. Thứ hai, Quán thọ là khổ. Khổ nói tóm có tám loại: Sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, thương yêu chia ly là khổ, muốn không được là khổ, thù nhau mà sống chung là khổ, năm ấm bất hòa là khổ. Còn nói đến những khổ nhỏ thì trong thế gian này có vô lượng vô biên. Bạn nghĩ xem từ một người, cho đến một gia đình, xã hội nào mà không có những điều khổ. Do đó người niệm Phật hãy quán niệm rằng, dù cảm thọ có vui có khổ, nhưng ở thế gian không có niềm vui chân thật, còn khổ đau thì đầy dẫy. Nếu có vui cũng là cái vui tạm bợ và chỉ có cái khổ trá hình, rốt cuộc cái vui là nguyên nhân của cái khổ. Vì thế, mọi cảm thọ đều là khổ đau. Thứ ba, Quán tâmvô thường. Người niệm Phật phải quán chiếu rằng tâm niệm chúng ta luôn thay đổi trong từng sát na sinh diệt, không có một ý nghĩ nào là bền vững chắc chắn, niệm này qua niệm khác lại đến, sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà sinh ra vọng tưởng điên đảo, không có một ý nghĩ nào là bền vững, chắc chắn. Thứ tư là Quán pháp vô ngã. Phải quán niệm vạn pháp trong thế gian đều do nhân duyên hòa hợp mà làm nên, không vật gì là có bản tính độc lập, là chân thật. Tất cả đều là giả danh giả tướng không có cái gì là có thực ngã. Đó là nói lược về tứ niệm xứ, người niệm Phật phải thường trực tỉnh giác quán niệm như thế, thì tâm niệm Phật mới được vững vàng.
Bát chánh đạolà gì? Bát chánh đạo là tám nguyên tắc hành động chân chính, là một trong những đạo lý căn bản của đạo Phật. Về mặt nhân bản, đó là nền đạo đức học thực nghiệm của Phật giáo nhằm rèn luyện con người có được một nhân cách đẹp đẽ cao thượng, trọn vẹn. Về mặt tôn giáo, đó là con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau, đạt được an lạc giải thoát, chứng nhập Niết Bàn. Bát chánh đạo bao gồm: Một là chánh kiến, là thấy biết đúng đắn sự thật, là cái thấy vạn vật là vô thường, vô ngã, duyên sinh, đúng với bản chất của chúng, cái thấy không bị phủ che bởi vô minh, thành kiến cố chấp. Trái với chánh kiến là tà kiến. Chánh kiến là trí tuệ của bậc giác ngộ. Hai là chánh tư duy, là suy nghĩ chân chính, suy nghĩ đúng với bản tính của các pháp là vô thường, vô ngã, duyên sinh. Từ suy nghĩ chân chính sẽ mang đến cho ta tư tưởng chân chính. Nếu tư tưởng xấu xa, sai lầm sẽ làm cho ta trở nên một con người thấp kém, thô lỗ. Thứ ba là chánhngữ, là lời nói chân chính, nhiều khi chúng ta không nói dối nhưng vẫn sai với sự thật. Chúng ta thấy biết như thế nào thì nói như vậy. Nhưng vì cái thấy biết đã sai lạc, lầm lẫn nên dẫn đến chúng ta nói không đúng sư thật. Lời nói chân chính là lời nói không dối trá, không độc ác, không đâm thọc, không thêu dệt và siểm nịnh, là lời nói không xuất phát từ lòng tham dục, ích kỷ, hận thù, giận dữ, ngu dốt, ganh tỵ. Nói năng chân chính là không nói lời nhằm lừa gạt, nịnh hót, phỉ báng, chửi mắng, vu oan, mà luôn nói những lời từ ái, hòa nhã, dịu dàng, đem an vui, lợi ích, tin tưởng cho người. Thứ tư là chánh nghiệp, là hành động chân chính. Có ba loại hành động (tam nghiệp): Hành động của ý (ý nghiệp), hành động của miệng (khẩu nghiệp) và hành động của thân (thân nghiệp). Hành động chân chính là hành động được soi sáng bởi chánh kiến, chánh tư duy, được thúc đẩy bởi tình thương và hiểu biết, là đi đứng nằm ngồi đều hành động theo chánh pháp. Thứ năm là chánh mạng, là mưu sinh chân chính, là nghề nghiệp chân chính. Ví dụ người niệm Phật, đối với xã hội thường làm các công việc từ thiện. Bác sĩ có công việc chuyên chữa trị bệnh để cứu lấy sinh mạng cho người bệnh, lại có những người chuyên bán quan tài, giết trâu mổ lợn đó cũng là nghề nghiệp v.v... Tuy nhiên, trong cuộc sống mưu sinh, người người đều phải làm việc vì miếng cơm manh áo, thế nhưng công việc kiếm sống cũng có những nghề nghiệp tốt và nghề nghiệp xấu. Đã là người tu học theo lời Phật dạy, bạn không nên chọn những nghề gây đau khổ cho người khác, hoặc tăng thêm sự bất công cho xã hội, hoặc tàn hại thiên nhiên và nhẫn tâm giết hại sinh mạng của mọi loài. Bạn nên tìm công việc lương thiện, trong sạch, để tăng thêm phước đức, không nên có tâm niệm gian tham, bóc lột sức người, không nên kiếm sống một cách bất lương trên mồ hôi nước mắt của người khác. Thứ sáu là chánh tinh tấn, là siêng năng chân chính. Chánh nghiệp và chánh tinh tấn có quan hệ mật thiết với nhau. Đứng trên phương diện nghề nghiệp mà nói, cũng là siêng năng, thế nhưng có nghề thì đưa con người đến cuộc sống thăng hoa giải thoát, có nghề lại đưa người ta vào con đường đọa lạc, như nghề đồ tể chẳng hạn. Người niệm Phật tinh tấn không ngừng là nhắm thẳng đến thành Phật, cho nên chánh tinh tấn và tà tinh tấn khác nhau là như vậy. Chánh tinh tấn được đặt nền tảng trên tứ chánh cần(những điều ác chưa sinh đừng cho phát sinh, những điều ác đã sinh thì trừ diệt, những việc thiện chưa sinh làm cho phát sinh, những điều thiện đã sinh thì làm tăng trưởng). Thứ bảy là chánh niệm, là nhớ nghĩ chân chính, khi làm việc gì thì bạn nên để hết tâm ý vào công việc ấy. Trong cuộc sống đời thường, hằng ngày bạn thường tiếp xúc với nhiều người, nếu bạn không có chánh niệm chắc chắn bạn sẽ gây đau khổ cho mình và người. Người niệm Phật, điều nhớ nghĩ tốt nhất là nhớ nghĩ đến bản nguyện của Phật A Di Đà, nhớ một câu “Nam mô A Di Đà Phật” là tốt nhất. Thứ tám là chánh định, là thiền định chân chính. “Định” là giữ tâm ý an trụ vào một đối tượng duy nhất. Phàm làm việc chân chính, bạn nên nhất tâm nhất ý mà làm. Việc gì là tốt? Là những việc đem lại lợi ích cho mình và cho người cả hiện tại và tương lai. Niệm Phật là việc tốt, do đó bạn nên nhất tâm mà niệm, một khi đã nhập vào niệm Phật tam muội thì đó là chánh định. Trên đây nói sơ lược về Bát chánh đạo cho người sơ cơ niệm Phật. Thực ra Bát chánh đạo khi đi vào nghiên cứu chuyên sâu, chẳng đơn giản như đã trình bày, mà còn nhiều khía cạnh thậm thâm vô cùng.
Người niệm Phật ngoài việc nhất tâm niệm Phật, nếu còn lo sợ thân tâm phóng dật hoặc tín, hạnh, nguyện không kiên cố, có thể lấy Tứ niệm xứ và Bát chánh đạo để ràng buộc, kiểm điểm thân tâm. Đối với phương pháp niệm Phật, cũng nên dựa theo căn tính của chính mình mà lựa chọn. Ngoài các phương pháp trì danh niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, quán tượng niệm Phật, thật tướng niệm Phật, còn có một phương pháp hết sức phương tiện, là phương pháp hô hấp niệm Phật. Hít vào bạn niệm “Nam mô A”, thở ra bạn niệm “Di Đà Phật”. Chỉ cần người niệm Phật có tâm kiên cố niệm Phật, từng giây từng phút, trong các oai nghi đi đứng nằm ngồi, không lìa một câu “Nam mô A Di Đà Phật”. Đó là phương pháp rất tiện lợi cho bất kỳ một người nào, dù bạn là một công nhân đang làm việc trong các xí nghiệp, nhà máy hay là một công ty kinh doanh v.v... cứ thực hành như vậy, đến giây phút lâm chung, nghiệp thức cả đời bạn cũng tùy thuộc theo hơi thở niệm Phật cuối cùng đó mà vãng sinh Cực Lạc, được thấy Phật A Di Đà.
Đối với việc niệm Phật được vãng sinh của người xuất gia, tại gia, nam, nữ, người già, trẻ thơ, và những tướng lạ trang nghiêm xảy ra vào giờ phút lâm chung của những người niệm Phật đã có ghi chép trong truyện Vãng Sinh, nếu nói ra đây thì không sao kể hết.
Từ ngày tôi xuất gia đến nay, chính tôi đã chứng kiến người niệm Phật được vãng sinh hơn hai mươi lăm vị, trường hợp vãng sinh được nghe người khác kể thì rất nhiều. Nhân đây, tôi xin kể ba vị mà tôi đã tận mắt thấy họ vãng sinh, mong sao qua những câu chuyện đó, có thể giúp được phần nào làm cho tín tâm niệm Phật của các bạn càng thêm tăng trưởng.
Vị thứ nhất là một người xuất gia, pháp sư Tu Vô, quê ở Quản Vi. Ngài xuất thân trong một gia đình làm nghề gạch ngói. Vì gia cảnh gặp khó khăn, làm công rất gian lao vất vả, do đó mới cảm nhận cuộc đời khổ nhiều vui ít, mạng người trong hơi thở, tạm bợ như giọt sương đầu ngọn cỏ, như làn điện chớp trong không trung. Thế mà hằng ngày mọi người lại tranh đấu hơn thua, giành giựt lẫn nhau để rồi phải đau khổ. Ngài thường tư duy về pháp diệt khổ, nghe người ta bảo niệm Phật tốt, nên phát tâm niệm Phật. Sau đó xuất gia, chính thức được học Phật pháp, nhất là pháp môn Tịnh độ, sau khi được nghe lại càng khẩn thiết niệm Phật, ngài gặp người khác cũng khuyên niệm Phật.
Năm Dân Quốc thứ 50, tôi ở tại chùa Cực Lạc, Đông Bắc Cáp Nhĩ Tân, thỉnh lão Pháp sư Đế Nhàn truyền giới. Một ngày nọ, có một vị sư đến tìm tôi và nói cho biết rằng: “Có một vị sư là Tu Vô từ Quản Vi đến, trong kỳ giới này phát tâm hành khổ hạnh”. Sau đó đưa vị sư vào gặp tôi, tôi mới hỏi sư có thể làm được gì? Sư đáp: “Tôi phát nguyện chăm sóc những người bệnh”. Lúc đó, Pháp sư Định Tây trụ trì chùa Cực Lạc nhận sư vào chùa, cho sư ở một căn phòng ngoài viện. Chưa đầy mười ngày, sư lại đến tìm tôi nói cần phải đi. Lúc đó Pháp sư Định Tây đang ngồi với tôi hỏi sư rằng: “Thầy phát tâm trông coi những người bệnh, vì sao chưa đầy mười ngày lại đòi đi? Như vậy tâm thầy không kiên cố rồi!”. Sư Tu Vô đáp: “Tôi không đi xứ nào cả mà tôi về Tây phương, kính thỉnh sư giám viện mở rộng lòng từ bi, chuẩn bị cho tôi mấy trăm cân củi, để thiêu sau khi tôi đi vậy”. Pháp sư Định Tây hỏi lại: “Vậy khi nào thầy đi?”. Sư Tu Vô đáp: “Trong vòng mười ngày nữa”. Trả lời xong, sư trở về thất. Ngày thứ hai, sư lại đến tìm tôi và Pháp sư Định Tây nói: “Kính thưa Pháp sư ngày mai tôi đi, thỉnh Pháp sư chuẩn bị cho tôi một căn phòng, và tìm cho tôi mấy người trợ niệm để đưa tiễn tôi đi”. Sau đó Pháp sư Định Tây cho người quét dọn một căn phòng trong nội viện, tìm một số gỗ khô, chất thành một đống, lại tìm mấy thầy chuyên tu niệm Phật để chuẩn bị trợ niệm. Trước giờ phút vãng sinh, những người trợ niệm nói với sư rằng: “Sư Tu Vô trước lúc vãng sinh cũng nên làm mấy câu thơ, câu kệ, để lại cho chúng tôi làm kỷ niệm chứ!”. Sư đáp lại rằng: “Tôi vốn xuất thân từ nơi khổ cực, sinh ra đã phải chịu sự ngu dốt, vì vậy thơ kệ đều không biết làm, thế nhưng tôi có một câu kinh nghiệm, xin đọc cho chư vị nghe, đó là: “Người nói được mà không hành được, không phải là người chân trí tuệ”. Sau đó sư ngồi kiết già, mặt hướng về hướng Tây niệm Phật, chưa đầy mười lăm phút sau thì vãng sinh. Từ lúc sư vãng sinh cho đến chiều, không khí ngoài trời rất nóng, thế nhưng sắc diện của sư đầy vẻ thanh thoát lạ thường, thi thể tỏa ra một mùi thơm, cũng không có một con ruồi. Pháp sư Đế Nhàn cùng một nhóm Phật tử đến xem khen ngợi trường hợp thật hy hữu. Sau đó, đem thi thể sư hỏa thiêu hoàn toàn không có một mùi hôi nào. Về sau, cư sĩ Phan Đối Phù nghe được, lấy sự việc bình sinh niệm Phật của sư Tu Vô viết thành một tập sách để làm mô phạm cho người niệm Phật.
Vị thứ hai là cư sĩ Trịnh Tích Tân, người Sơn Đông, là một thương gia. Vì xem kinh Phật, biết được niệm Phật là tốt, từ đó phát tâm niệm Phật, bản thân không lấy vợ. Năm 1922, tại Thanh Đảo được nghe tôi giảng tam quy và những lợi ích của việc niệm Phật, sợ mình không chuyên tâm niệm Phật, nên cư sĩ đem mọi chuyện buôn bán trong gia đình giao cho em trai lo liệu. Từ đó chuyên tâm vào niệm Phật, về sau ông tập luyện và giảng Kinh Di Đà. Mỗi năm có kỳ hội giảng kinh tại Thanh Đảo, đều có ông chủ trì giảng một hai ngày, rồi sau đó ông lại đến huyện Bình Độ giảng cho bạn bè. Năm 1924, cư sĩ có mời tôi đến Bình Độ giảng một lần. Mùa Xuân năm 1928, cư sĩ lại đến Bình Độ và Thanh Đảo giảng kinh. Thấm thoát thời gian trôi qua, một hôm có người từ Bình Độ đến nói với tôi: “Lão Pháp sư ông có biết không! Cư sĩ Trịnh Tích Tân đã quy Tây rồi”, (theo tập tục Giao Đông người ta gọi người chết là nhật quy). Nghe người đó nói xong tôi rất ngạc nhiên, mới hỏi: “Trước đây mười ngày tôi còn gặp ông ta, thấy còn rất mạnh khỏe, vì lý do gì mà ông ta đi nhanh như vậy? Ông ta có bệnh hoạn gì không? Hay có gặp tai nạn gì?”. Người ấy lại đáp: “Sau khi ông giảng bộ Kinh Di Đà xong, mọi người đều ra về, chỉ còn khoảng năm sáu vị cùng ngồi lại nói chuyện và dùng cơm trưa, phần lớn những người này là bạn bè thân thiết của ông. Sau buổi cơm trưa, ông mời tất cả những người bạn vào một căn phòng, rồi nói ông phải đi. Mấy người bạn mới hỏi: “Ông đi đâu sao lại mời chúng tôi vào phòng thế?”. Cư sĩ đáp: “Tôi vãng sinh, vì e ngại ra đi tại nhà người khác sẽ phiền phức, nên mới mời chư vị vào đây vậy”. Các bạn ông lại nói: “Chúng ta là bạn tri giao đã nhiều năm, chẳng những bạn vãng sinh, mà ngay cả khi bạn bệnh hoạn mất tại nhà chúng tôi cũng không sao, cần gì phải tìm một gian phòng khác. Hiện tại, nơi đây có rất nhiều người tin Phật, niệm Phật. Nếu bạn chắc chắn vãng sinh, cũng nên để chúng tôi mời tất cả những khác đến xem, để lấy đó làm tấm gương noi theo vậy”. Nói xong, những người bạn ông vội quét dọn hai căn phòng rồi chọn lấy một. Cư sĩ Trịnh nói đôi lời tạ từ cùng các bạn, sau đó ngồi xếp bằng, mặt xoay về hướng Tây nói với những người bạn ông ta: “Xin cáo từ chư vị, tôi vãng sinh đây! Chúng ta là những người tin Phật niệm Phật, kính thỉnh chư vị hãy niệm Phật để tiễn tôi một phen”. Những người bạn lại nói: “Nay bạn vãng sinh sao không để lại vài câu kệ cho chúng tôi làm kỷ niệm?”. Cư sĩ lại đáp: “Không nên để kệ lại, nếu mọi người đến đây xem thì đó là một bằng chứng rồi, cũng là một kỷ niệm đẹp rồi!”. Nói xong, mọi người đồng niệm để trợ tiễn ông ta, chưa đầy mười lăm phút sau ông ta mỉm cười rồi vãng sinh. Do đó mà cả huyện Bình Độ ai ai cũng tin niệm Phật là tốt, đồng thời có nhiều người tin Phật hơn.
Em trai của cư sĩ Trịnh, ban đầu thấy anh xả bỏ sản nghiệp chuyên tâm niệm Phật thì chưa tin niệm Phật mấy, nghe anh khuyên niệm Phật cũng miễn cưỡng niệm, nhưng tâm chưa khẩn thiết cho lắm. Thế mà sau khi chứng kiến cảnh anh trai mình niệm Phật được vãng sinh, biết trước ngày giờ và ra đi trong thanh thản, từ đó về nhà cũng tin sâu, nguyện thiết niệm Phật. Ba năm sau, cũng vãng sinh biết trước ngày giờ, chỉ khác anh trai là lúc lâm chung có ít bệnh.
Vị thứ ba là nữ cư sĩ họ Trương, sinh được một trai một gái, gia cảnh rất khó khăn, chồng làm nghề kéo xe ở một bến cảng, còn cô Trương buôn bán trong chợ Thanh Đảo. Nhà ở cạnh tịnh xá Trạm Sơn, trong tịnh xá có thành lập hội Phật học. Mỗi ngày cô đều đến tịnh xá lễ Phật và nghe kinh, do nhân duyên đó mà quy y Tam Bảo, được nghe Phật pháp, một lòng tin Phật. Bình thường ở nhà niệm Phật, hằng ngày đều dẫn hai con đến tịnh xá lễ lạy và nghe kinh. Nghe xong, lại quay về nhà chăm lo gia đình, một bề niệm Phật.
Cuối năm 1926, một sáng nọ, cô Trương gọi chồng đến nói: “Anh ở lại chăm sóc các con, ngày nay tôi phải vãng sinh Cực Lạc”. Anh chồng nghe vợ nói như vậy, vì cuộc sống khó khăn, lại là người ít học tập Phật pháp nên gắt gỏng bảo với vợ rằng: “Đi đi! Tôi bần cùng chắc không đủ khả năng nuôi bà, bà muốn đi thì cứ đi!”. Sau khi nói xong không hỏi lại vợ một câu, rồi đi làm việc. Cô Trương gọi hai con đến gần căn dặn: “Các con ở lại phải nghe lời cha dạy bảo, không được ngỗ nghịch, nay mẹ phải vãng sinh về thế giới Cực Lạc”. Lúc đó hai đứa con của cô ta còn nhỏ, đứa lớn chưa đầy mười tuổi, đứa bé khoảng năm hoặc sáu tuổi gì đó. Nghe mẹ chúng nói những lời như vậy, cũng không hiểu ý mẹ muốn nói gì, vì vậy rồi cũng chạy đi chơi. Sau khi chồng và con đều đi cả, cô Trương vội thu xếp việc nhà gọn gàng, tắm rửa sạch sẽ, vì nhà nghèo không có áo quần mới để thay nên cô đành phải mặc lại áo quần cũ, lên giường ngồi xếp bằng, chắp tay niệm Phật vãng sinh.
Nói đến hai đứa con của cô ta, sau một hồi đi chơi trong lòng cảm thấy đói nên quay về nhà ăn cơm. Thấy mẹ đang ngồi trên giường lại chưa nấu cơm, ban đầu chúng cất tiếng gọi nhưng không thấy mẹ trả lời, sau đó chúng đến gần lay mạnh vẫn thấy mẹ ngồi yên, hai đứa bé mới biết mẹ chúng đã chết. Chúng vội khóc than gọi hàng xóm đến, mọi người hay tin đến xem, thấy cô Trương tuy đã chết từ lâu, thế nhưng sắc diện giống như người còn sống, họ rất ca ngợi công phu niệm Phật của cô Trương. Sau đó người chồng đi làm về khóc lóc thảm thương. Vì gia cảnh nghèo khó, không có tiền để liệm, nên các vị có tấm lòng tốt trong hội Phật học đứng ra chi phí toàn bộ lễ tang.
Việc quan trọng của đời người là niệm Phật để liễu sinh thoát tử. Không luận là như thế nào, mọi người hãy tự xét hoàn cảnh của chính mình, dù trong bận rộn hay nhàn nhã, hãy sắp xếp cho mình một thời khóa công phu niệm Phật nhất định. Chẳng những vậy, ngay cả lúc làm việc có thể trụ tâm mặc niệm. Bằng ngược lại suốt ngày làm các điều sát sinh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, tạo nhiều nghiệp ác khác thì khó mà tránh đọa lạc tam đồ, luân hồi trong lục đạo, thọ nhận khổ não vô tận. Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật có nói: “Loài nào cũng thương yêu thân mạng, muốn cho mình được sống, nên tham ăn những vật bổ dưỡng. Vì thế trong thế gian này, loài mạnh ăn thịt loài yếu, loài khôn giết hại loài dại. Bốn loài (thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh) ăn nuốt lẫn nhau, gốc tại lòng tham sát”. Chúng sinh vì tình ái kết chặt, thương tưởng quyến luyến nhau không rời, cho nên thế gian này, cha mẹ, con cháu tiếp tục sinh ra không cùng tột, gốc chỉ tại lòng tham dục. Tóm lại, vì ba nghiệp sát, đạo, dâm làm gốc, nên nghiệp và quả nối nhau không bao giờ cùng tận. Mọi người hãy nghĩ coi tạo nghiệp sát, đạo, dâm, chịu khổ biết dường nào. Vì thế kính khuyên mọi người niệm Phật, nên niệm càng nhiều càng tốt. Cổ đức có nói: “Niệm Phật một câu phước tăng vô lượng, lễ Phật một lễ tội diệt hà sa”. Trên đây, đem những lợi ích của việc niệm Phật nói sơ lược qua, nếu mọi người muốn rõ hơn hãy tham khảo các tập sách “Tịnh Độ Ngũ Kinh” hoặc “Tịnh Độ Thập Yếu” v.v... Nay nói sơ lược đôi điều như vậy cho người sơ cơ có tín tâm niệm Phật. Hy vọng rằng quý vị biết được niệm Phật là tốt rồi, hãy nên phát tâm kiên cố niệm Phật, niệm hết sức thành khẩn, lão thật niệm Phật. Trong tương lai, chắc chắn chúng ta sẽ gặp nhau trong hội chúng ở Tây phương vậy.
Nam mô A Di Đà Phật
(Ngày 1/1/ 1950, năm Canh Dần, tại Học Viện Nam Học, Hương Cảng)
TRIẾT LÝ VÀ THỰC TIỄN CỦA
PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Châu Thế Long
A. TRIẾT LÝ
1.- Pháp môn Tịnh độ là pháp môn duyên khởi, tức Như Lai tính khởi pháp môn
Như Lai đã chứng quả Phật thanh tịnh, vô minh triệt đoạn, vĩnh viễn xa lìa sinh tử, chánh nhân Phật tính hiển lộ, tịch quang chân cảnh hiện tiền, thường an trụ trong Thường Tịch Quang, thọ nhận an lạc thanh tịnh. Tuy nhiên, vì đại sự nhân duyên lớn mà Phật xuất hiện ở đời, thực hiện hạnh nguyện hiển đại bi tâm. Phật A Di Đà lúc còn tu Bồ tát hạnh, pháp danh là Pháp Tạng Tỳ kheo, đứng trước Phật Thế Tự Tại Vương phát ra bốn mươi tám lời nguyện cứu độ chúng sinh. Trải qua vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp tu hành, thành tựu thế giới Tịnh độ, để thực hiện bốn mươi tám lời nguyện, mở bày nhị thân, lấy danh hiệu A Di Đà, làm con thuyền Bát nhã, rộng độ mười phương chúng sinh được sinh về Tịnh độ. Nhân vì Phật với chúng sinh trong thế giới Ta Bà có nhiều nhân duyên, nên lấy pháp môn Tịnh độ mà dạy cho người được vãng sinh. Cũng chính vì nhân duyên đó mà Như Lai xuất hiện ở đời làm việc rộng độ chúng sinh. Cho nên, luận về nguyên lý căn bản, nên mới có tên gọi là pháp môn tính khởi, hoặc có tên khác là pháp giới duyên khởi (Như Lai tính tức là chỉ cho pháp giới tính, Như Lai tính khởi tức là chỉ cho pháp giới duyên khởi, trên mặt văn tự nghe như khác nhau, nhưng ý nghĩa chỉ có một). Pháp môn tính khởi, hoặc pháp môn pháp giới duyên khởi, đều có nghĩa chỉ cho sự cứu cánh. Song, để trình bày ý nghĩa thâm sâu đó cho một hành giả hiểu được thật khó biết dường nào. Ấn Quang Đại sư còn gọi với cái tên khác là pháp môn đặc biệt. Pháp môn đặc biệt, chỉ có bốn chữ, mà ý nghĩa thật phi thường. Di Đà Như Lai, lấy từ bi nguyện lực trực tiếp hiển hiện nhị báo trang nghiêm, đích thân làm việc độ chúng sinh, sao dám xem là việc nhỏ được. Công việc đó tuyệt đối không có một công việc gì cao cả bằng. Cho nên có tên gọi pháp môn đặc biệt là hoàn toàn xứng đáng. Trong “Văn Sao Tịnh Độ” Đại sư Ấn Quang từng nói: “Nên biết pháp môn Tịnh độ, đầy đủ bốn pháp giới, có sự tướng, sự sự pháp giới vô ngại... cho nên mới gọi là yếu chỉ Tịnh độ. Sự tức là lý, lý tức là sự, lý sự viên dung, khế hợp bản thể”. Bấy nhiêu lời vắn tắt đó của Đại sư cũng đủ chứng minh pháp môn Tịnh độ là pháp giới duyên khởi, cũng là pháp môn Như Lai khởi tính. Vô ngại tức là chỉ cho sự thông đạt tự tại, dung hợp với bản thể. Như tại thế giới Cực Lạc, có chim nói pháp, có cây bảy báu phát ra pháp âm vi diệu, người nghe liền niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Đó là do sự vô ngại dung hợp với lý vô ngại. Các giống chim ấy đều do A Di Đà Phật muốn cho pháp âm được lưu chuyển mà hóa hiện ra những cảnh như vậy. Đó là lý vô ngại dung hợp với sự vô ngại. Lại nữa, ví như trong thế giới Cực Lạc, có ao thất bảo, có nước tám công đức, trong ao có hoa sen lớn như bánh xe, đầy đủ các màu sắc, xanh, vàng, đỏ, trắng, hương thơm thanh khiết. Lại nữa, nước đó lại có thiên nhạc, đất bằng vàng rồng, ngày đêm sáu thời, hoa mạn đà trên trời rơi xuống, chúng sinh trong nước đó sáng sớm ra hứng đem đi cúng dường mười phương chư Phật, trưa lại trở về quốc độ dùng cơm, rồi đi kinh hành, đó đều chỉ cho sự vô ngại. Lại nữa, Đại sư Thần Thời có nói rằng: “Pháp môn Tịnh độ là pháp giới duyên khởi” điều đó chứng tỏ pháp môn Tịnh độ, lý nghĩa thật thâm sâu biết dường nào (tham khảo Tịnh Độ Thập Yếu, Đại sư Ngẫu Ích tuyển định). Vậy mà Mâu Thị Tam lại dám phê bình tính khởi của Kinh Hoa Nghiêm và bốn trí vô ngại là hư vọng, chẳng qua là giả lập mà có. Thật không ngờ ông ta lại cho rằng lý trung tính là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Như Lai tính bao hàm vạn pháp, vạn lý trong pháp giới tất cả các thiện đức, tự nó cũng có hàm chứa Phật tính mà vô ngại. Mâu cho rằng lý tính là nhân, Trịnh Minh Đạo lại cho rằng nhân là đồng thể của đức, họ tranh luận với nhau bất phân thắng bại, ai cũng bảo thủ ý kiến của mình. Thật ra, tất cả sự tranh luận đó bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa, do lý không thông nên dẫn đến sự có chướng ngại, chỉ chấp trước vào lý mà bỏ sự. Mười phương ba đời chư Phật, thể cũng như đạo đều giống nhau, thuyết pháp độ sinh cuối cùng đều quy về Bồ tát đạo, đó là duyên vô ngại. Chúng ta nói Tây phương Cực Lạc Tịnh độ. Mâu lại cho rằng thế giới Cực Lạc là thế giới của các vị thần, trong tâm lại không tin có thế giới Cực Lạc. Thật ra, thế giới chúng ta hiện đang sống theo kinh gọi là thế giới Ta Bà. Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký, đoạn Phật thọ ký cho Phú Lâu Na, có nói: “Nay ở đây quốc độ này (tức là thế giới Ta Bà), được A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề (tức là chỉ cho quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác). Đức Phật đó lấy số thế giới tam thiên đại thiên nhiều như số cát sông Hằng mà làm thành một cõi Phật, đất làm bằng bảy thứ báu, thẳng bằng như bàn tay... Lầu, đài bằng bảy thứ báu, đầy dẫy trong đó. Cung điện của các vị trời ở gần trên hư không, người cùng trời giao tiếp với nhau (cụ thể là chỉ cho sự hòa hợp giữa trời và người). Trong đó không có các đường dữ (tức là chỉ cho bốn đường Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, A tu la). Tất cả đều do hóa sinh, không có dâm dục... nhân dân nước đó thường dùng hai thức ăn: Một là Pháp hỷ thực, hai là Thiền duyệt thực. Có vô lượng vô số nghìn muôn ức na do tha các chúng Bồ tát đặng sức thần thông lớn, bốn trí vô ngại, khéo hay giáo hóa các loài chúng sinh... Kiếp tên là Bửu Minh, nước tên là Thiện Tịnh”. Điều đó có thể chứng minh cho thế giới Cực Lạc. Thế giới Ta Bà vốn đầy dẫy tội lỗi, thế nhưng đến khi Phú Lâu Na thành Phật thì cũng tại thế giới này lại được thực hiện thành một thế giới lý tưởng không có bốn đường ác. Tại thế giới Cực Lạc, lý cũng như sự vô ngại. Vô ngại tức là không có sự mâu thuẫn, ngược lại nếu có mâu thuẫn thì không được gọi là vô ngại. Đức Phật là người chứng ngộ vạn pháp trong vũ trụ nhân sinh, những lời Ngài nói ra đều là những sự thật, điều đó đã được Ngài thốt lên, ngay sau khi thành đạo. Lạ thay, tất cả các chúng sinh vốn có Phật tính như nhau nhưng vì vô minh che lấp nên không thể nhận ra được. Những gì Ngài chứng ngộ đều có sẵn trong vũ trụ nhân sinh, cũng như những phát minh của các nhà khoa học về các hiện tượng vật lý, vốn đã có sẵn trong cuộc sống, chớ không phải họ tự sáng chế ra mà họ chỉ căn cứ vào các thí nghiệm để rồi cuối cùng đưa ra kết luận về những phát minh đó. Sự chứng đạo của Đức Phật cũng như thế. Ngài chỉ nói ra những hiện thực của vũ trụ, nếu lấy cái nhìn thiển cận, với một trí óc đầy tham sân như chúng ta để đánh giá lời dạy chư Phật, nếu phê bình sai chắc chắn sẽ mang tội lớn. Vì lời dạy của Đức Phật vốn được chư Thiên cũng như Hộ pháp ủng hộ. Đức Phật A Di Đà phát bốn mươi tám lời nguyện độ chúng sinh trong mười phương, quang minh của Ngài vô lượng vô biên chiếu khắp mười phương, không có một chướng ngại. Mười phương hằng hà sa số các chư Phật đều tán thán công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà, tinh thần pháp giới duyên khởi của Phật A Di Đà cũng không có một chướng ngại, vốn hòa hợp với lý tưởng mười phương thế giới.
2.- Tâm làm Phật thì tâm là Phật
Lý tưởng văn hóa mười phương thế giới sở dĩ hòa hợp vì giữa tâm Phật và tâm Phật có sự tương tức tương nhập với nhau, hiển phát bốn trí vô ngại. Tâm vốn là nguồn gốc của vạn pháp trong thế giới, cũng là nguồn gốc của nền văn hóa tinh hoa của nhân loại. Bản tâm của chúng sinh cùng với bản tâm của chư Phật vốn đồng thể vô ngại. Song, chúng sinh vì hiện tiền bị nghiệp thức làm chướng ngại, nên sự hiểu biết có chướng ngại, bị cục bộ trong phạm vi nhỏ bé. Chư Phật Thế Tôn là những người đã đạt được sự hiểu biết cùng khắp không thể đo lường. Chư Phật là “người biết đạo, khai đạo và dạy đạo” (Kinh Pháp Hoa, quyển thứ ba, phẩm Dược Thảo Dụ). Nhưng vì mục đích xuất hiện ở đời là vì muốn rộng độ tất cả chúng sinh. Chúng sinh chỉ cần thực hành lời Phật dạy, nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền và tương lai nhất định được thấy Phật. Đức Thế Tôn còn dạy: “Các Đức Phật Như Lai, chính là pháp giới thân, in sâu vào tâm tưởng của hết thảy chúng sinh. Vì vậy, trong khi tâm các người tưởng Phật, thì tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp theo thân hình Đức Phật, cái tâm đó làm Phật, cũng tức tâm đó là Phật. Sự hiểu biết chân chính cùng khắp không thể đo lường của chư Phật, đều từ nơi tâm tưởng mà sinh ra, vì thế nên các người phải chăm lòng buộc niệm lại” (Kinh Quán Vô Lượng Thọ). Tổ thứ mười hai Liên tông, Triệt Ngộ Đại sư có nói: “Tâm làm Phật thì tâm là Phật, so với việc trực chỉ bản tâm, kiến tính thành Phật của Thiền tông hoàn toàn khác nhau”. Vì sao? Vì việc kiến tính thì khó, thế nhưng tâm làm Phật thì tâm là Phật thì lại dễ. Thế nào gọi là kiến tính? Kiến tính là ly khai cái ý thức của tâm, cái vọng tưởng điên đảo nghĩ suy theo trần cảnh. Người muốn dừng những phân biệt của tâm, muốn tâm không khởi niệm khi đối duyên xúc cảnh, chuyện đó đâu có dễ làm, vì những tập khí chúng sinh trong chúng ta đã tích chứa nhiều đời nhiều kiếp không thể tính kể. Nếu đối duyên xúc cảnh mà không khởi niệm, giữ cho tâm được sáng suốt đâu có dễ làm. Kiến tính là xa lìa ý thức của tâm, trí tuệ quang minh phải hiển lộ thì mới được gọi là kiến tính. Như thế nào tâm làm Phật thì tâm là Phật? Là tâm trì niệm danh hiệu Phật, quán y chính trang nghiêm của Phật, tức là tâm làm Phật, điều này dễ. Kinh còn nói: “Khi tâm các người tưởng Phật, thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, há chẳng phải tâm tưởng Phật thì tâm là Phật hay sao, cho nên người niệm Phật thì nhất định thấy Phật”. Trong Kinh Lăng Nghiêm, chương “Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông”, Bồ tát Đại Thế Chí có nói: “Mười phương Như Lai, thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con; nếu con trốn tránh, dù mẹ có nhớ cũng chẳng có lợi ích gì, nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, thì mẹ con đời đời không xa cách nhau. Nếu chúng sinh đem tâm nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tại hay tương lai chắc chắn thấy Phật, cách Phật không xa, chẳng cần tu thêm bất kỳ một phương tiện nào khác mà tự nhiên tâm được khai ngộ... Gốc tu hành, nhân địa của con là ngộ được vô sinh pháp nhẫn. Nay con nguyện ở thế giới này để nhiếp hóa mọi người vãng sinh Tịnh độ. Nay Phật hỏi viên thông, con vốn không lựa chọn, chuyên thâu nhiếp sáu căn, khiến cho tịnh niệm nối liền liên tục, được vào tam ma địa (Tam muội) đó là thứ nhất”.
Căn cứ vào những lời kinh điển trên, chúng ta có thể rút ra ba điểm: Một là niệm danh hiệu A Di Đà và quán y chính trang nghiêm của Phật thì tâm là Phật. Trong thời khóa tụng niệm mỗi ngày hay dù làm tất cả công việc gì, nếu tâm chúng ta nghĩ Phật, niệm Phật thì tâm là Phật. Do tâm chuyên chú vào danh hiệu Phật nên tâm bị tác động bởi công đức rộng lớn không thể nghĩ bàn của Phật, những trần cấu vọng tưởng sẽ không có cơ hội nuôi dưỡng, dần dần chân tâm sẽ hiển lộ. Nếu tâm cứ vọng tưởng theo trần cảnh thì chân tâm khó mà hiển lộ. Hai, nếu tâm từ sáng đến chiều đều nhớ Phật niệm Phật, thì không cần tu thêm một pháp môn nào cả, mà tâm tự nhiên được khai ngộ, tâm được khai ngộ đó là minh tâm kiến tính. Ba, điều nhiếp lục căn, tịnh niệm liên tục, đắc tam ma địa, nhiếp tâm niệm Phật. Ấn Quang Đại sư có nói: “Niệm Phật cần nên nhiếp tâm, vọng niệm từ tâm mà khởi, âm thanh từ miệng mà lưu xuất, do đó niệm Phật cần phải niệm từng câu từng chữ rõ ràng, tai nghe rõ ràng. Câu niệm Phật từ trong tâm mà lưu xuất, một khi nhĩ căn được nhiếp phục, thì các căn còn lại không thể hướng ngoại, nhanh chóng đưa đến nhất tâm bất loạn, điều mà Bồ tát Đại Thế Chí gọi là điều nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương tục, được tam ma địa, đó là đệ nhất, tức là điều đó vậy” (xem “Văn Sao Tịnh Độ” quyển 1).
Việc niệm Phật, điều quan trọng là phải từ tâm phát khởi, từ miệng mà lưu xuất, miệng niệm từng câu từng chữ rõ ràng, tai nghe từng câu từng chữ rõ ràng. Việc này ban đầu tuy khó, cần phải dụng công lâu ngày mới có được kết quả, một khi nhĩ căn có sự tập trung vào danh hiệu, thì vọng niệm không thể xen tạp vào được. Đôi tai chúng ta có tác dụng đón nhận và phân tích âm thanh từ bên ngoài, nếu một khi tai chuyên chú vào danh hiệu, tâm không phân tán, mà tâm cũng nghe từng câu từng chữ rõ ràng, tâm, miệng, tai phối hợp cùng niệm, thì việc nhất tâm thật không khó khăn gì.
3.- Một niệm hiện tại là nhân của việc thăng trầm trong vui khổ
Tâm đầy đủ của linh tri, niệm là hoạt động của linh tri. Là người tu học Phật pháp, điều căn bản là phải nắm bắt được những hoạt động của linh tri. Triệt Ngộ Đại sư có nói: “Phàm phu hầu hết đều có niệm. Tâm thể không có niệm chỉ có Phật là người duy nhất chứng được. Từ hàng Đẳng Giác trở xuống đều có niệm. Phàm phu chúng ta khi khởi một niệm đều nằm trong phạm vi của thập pháp giới, không có niệm nào thoát khỏi phạm vi thập pháp giới. Mỗi một niệm khởi làm duyên cho việc thọ sinh”. Nếu đã biết được lý như vậy mà không khởi niệm Phật thì người đó chưa được gọi là người hiểu đạo. Nếu tâm chúng ta khởi đại từ, đại bi, công đức y chính trang nghiêm, đồng thời tâm cùng tương ưng với vạn đức hồng danh, tức là niệm pháp giới Phật. Tâm tương ưng với lục độ vạn hạnh của Bồ tát tức là niệm pháp giới Bồ tát. Tâm tương ưng với Thập nhị nhân duyên đó là niệm pháp giới Duyên giác. Lấy tâm vô ngã và quán sát Tứ đế đó là niệm pháp giới của Thanh văn. Hoặc cùng tương ưng với tứ thiền bát định, cho đến thượng phẩm thập thiện, là niệm pháp giới cõi Trời. Nếu tâm tương ưng với ngũ giới thì đó là niệm pháp giới cõi Người. Nếu tu tập các bất thiện pháp, tâm hay ôm lòng sân hận, cống cao, hơn thua đó là đã rơi vào pháp giới A tu la. Tâm nghĩ hạ phẩm thập ác, tức là đọa vào pháp giới Súc sinh. Hoặc tâm hay ôm lòng keo kiệt bỏn sẻn, tương ưng với trung phẩm thập ác, tức là rơi vào pháp giới Ngạ quỷ. Nếu tâm tương ưng với thượng phẩm thập ác, tức là đọa vào pháp giới Địa ngục. Thập ác gồm có: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời thêu dệt, nói lời thô ác, nói lưỡi đôi chiều, tham lam, sân hận, si mê. Ngược lại là thập thiện. Biết được như vậy rồi, trong đời sống thường ngày chúng ta phải luôn xem xét, kiểm điểm xem tâm chúng ta rơi vào pháp giới nào, có như vậy mọi người mới không để cho tâm khởi lên những niệm ác, gây hại cho người và mình. Nếu ta để cho tâm suy nghĩ thường xuyên các niệm xấu, chắc chắn hiện tiền cũng như trong tương lai khó mà tránh được những nghiệp xấu.
Một sát na chỉ xảy ra trong nháy mắt. Tham Huyền Ký, quyển thứ ba có nói: “Trong một nháy mắt có đến sáu mươi sát na”. Như vậy, trong một nháy mắt thôi, tâm của chúng ta đã có thể khởi ra sáu mươi niệm. Kinh Đại Bát Nhã có chép: “Người sống trên thế gian này, trong một ngày một đêm đã có thể khởi lên tám nghìn bốn mươi vạn niệm”. Điều đó cho thấy vọng niệm trong tâm chúng ta khởi lên liên tục không bao giờ dừng nghỉ. Vì vậy, không cho niệm khởi là điều quan trọng. Không cần phải bàn nhiều, phương pháp đối trị vọng niệm không gì khác hơn là dùng chánh niệm để đối trị lại vọng niệm. Niệm Phật là phương pháp giúp chúng ta giữ được chánh niệm hơn hết. Trong Luận Đại thừa có nói: “Nhớ Phật niệm Phật là con đường tắt đạt đạo nhanh nhất”. Đại sư Ấn Quang cũng có nói: “Pháp niệm Phật là bối trần hợp giác, là diệu pháp đệ nhất phản bản quy nguyên” (Văn Sao Tịnh Độ). Người niệm Phật đến phút lâm chung, nếu tâm giữ được chánh niệm phân minh thì quyết định được vãng sinh không nghi ngại. Chánh niệm ở đây tức là chỉ cho tâm nhớ Phật, niệm Phật. Tâm không rời danh hiệu, thì tâm không có một mảy may tâm niệm tham ái, sân hận. Lâm chung chánh niệm phân minh, trong khoảng sát na được Phật tiếp dẫn vãng sinh Tịnh độ. Người muốn được như vậy, không gì khác hơn là trong đời sống hằng ngày, phải giữ cho tâm chánh niệm niệm Phật, tạo thành thói quen, không được lơ là chểnh mảng.
4.- Người niệm Phật tâm lực cần phải chuyên nhất
Tâm lực vốn là nguồn sức mạnh không thể nghĩ bàn, tiếc thay nhân loại không biết dựa vào đó mà tinh tấn tu hành phát huy diệu dụng của tâm. Trong pháp giới, vật lực đã rất lớn, mà tâm lực lại càng lớn hơn.
Sau đây là biểu đồ:
Nhìn chung, hiện nay tất cả nhân loại đều sợ hãi về sức mạnh công phá vĩ đại của nguyên tử, thật ra nguồn nguyên tử đó cũng từ tâm lực mà phát sinh, tâm lực chính là năng lực, sức mạnh nguyên tử cũng từ tâm lực mà có. Chúng ta chỉ cần y theo Phật pháp chí thành tu hành đến ngày thành Phật, thì thần lực của tâm có thể đạt đến cảnh giới tối cao không thể nghĩ bàn. Lúc đó, tha hồ mà biến đổi tam thiên đại thiên thế giới.
Kinh Pháp Hoa, quyển thứ tư, phẩm “Hiện Bảo Tháp” có chép rằng: “Đức Phật Đa Bảo đã diệt độ, toàn thân ở trong tháp, bản nguyện đã viên mãn liền vọt lên khen ngợi Kinh Pháp Hoa. Đức Phật Thích Ca bảo rằng: “Phật Đa Bảo có thệ nguyện rộng lớn, Đức Phật nào muốn đem thân ta mà chỉ bày cho bốn chúng, thời các vị Phật của nước đó phân thân ra nói pháp ở các nước trong mười phương đều phải nhóm họp ở một chỗ”. Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca từ lông trắng giữa chặng mày phóng ra một luồng hào quang, rộng chiếu khắp sáu phương: Đông, Nam, Tây, Bắc, trên dưới. Lúc đó các Đức Phật phân thân trong mười phương, đều bảo chúng Bồ tát: “Các ngài phải qua chỗ của Đức Thích Ca Mâu Ni, để cúng dường tháp báu của Đa Bảo Như Lai”. Lúc bấy giờ, cõi Ta Bà liền biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm. Đó là lần biến hóa thứ nhất. Đức Phật chỉ lưu lại chúng trong hội Pháp Hoa, dời các hàng trời người đi chỗ khác. Lúc đó, các Đức Phật ở phương Đông đã nhóm họp, ngồi xếp bằng trên tòa sư tử, như thế lần lượt đến khắp đầy cả tam thiên đại thiên, mà ở thân Phật của Đức Thích Ca Mâu Ni phân thân ra khắp cả mười phương mà vẫn chưa hết. Lúc đó, Phật Thích Ca vì muốn dung thọ các vị Phật của mình phân thân, nên ở nơi tám phương lại biến thành hai trăm muôn ức na do tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh. Hai trăm muôn ức, tám phương lại kết thành một nghìn sáu trăm vạn thiên thế giới, rồi biến các nước đó thành một nước của Phật. Đó lần thứ hai Phật biến hóa. Vì các Đức Phật sẽ đến ngồi, nên ở tám phương lại biến hóa thành hai trăm muôn ức na do tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh. Đó là lần biến hóa thứ ba. Như vậy, trong ba lần biến hóa mà đã có tám phương Tịnh độ, ba vạn hai nghìn muôn ức na do tha các nước, lại có thể dung chứa mười phương phân thân của chư Phật. Các Đức Phật đều bảo các thị giả của mình qua thăm viếng Đức Thích Ca Mâu Ni. Các Đức Phật trụ trong hư không, đều thấy Đức Đa Bảo Như Lai, ở trong tháp ngồi tòa sư tử, toàn thân như vào cảnh thiền định. Ba vạn hai nghìn muôn ức na do tha các nước, đều do thần lực của chư Phật biến hóa ra. So sánh hoạt động của nguyên tử với thần lực của chư Phật làm sao mà bằng cho được. Qua đó chứng tỏ rằng tâm lực luôn thắng vật lực, vạn pháp đều do tâm, điều này chúng tôi đã có trình bày trong bài viết “Vạn pháp duy tâm”, xin quý vị tham khảo. Chỉ có thần lực của chư Phật mới xứng đáng cho chúng ta nương tựa. Người niệm Phật cần phải có tâm lực chuyên nhất, tha thiết liễu sinh thoát tử, tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên, nhất định sẽ được vãng sinh. Một khi đã được vãng sinh rồi thì chuyện thành Phật không còn gì để lo ngại.
Tổ thứ hai Liên Tông là Thiện Đạo Đại sư, khuyên người chỉ niệm danh hiệu A Di Đà Phật. Lại có người gạn hỏi: “Sao Hòa thượng không dạy người quán tưởng Phật mà chỉ dạy chuyên trì danh thôi, chẳng hay có ý gì?”. Ngài đáp: “Chúng sinh đời nay phần lớn chướng nặng tâm thô, thần thức tán loạn. Trong khi đó, cảnh Tịnh độ rất tế diệu, nên quán tưởng khó thành tựu. Chính vì thế, Đức Phật xót thương nên chỉ dạy niệm Phật. Tại sao? Vì xưng danh hiệu là việc dễ làm, nếu có thể giữ mỗi niệm nối nhau không dứt, tu như thế suốt đời thì: Mười kẻ niệm mười kẻ sẽ vãng sinh, trăm người tu trăm người về Tịnh độ. Tại sao thế? Vì không có duyên tạp bên ngoài, nên dễ được chánh niệm, vì cùng với bản nguyện của Phật hợp nhau, không trái với kinh giáo, thuận theo lời Phật và chư Thánh chỉ dạy. Nếu bỏ chuyên niệm Phật mà tu xen tạp những hạnh khác, thì trong trăm ngàn người chỉ hy vọng ba bốn kẻ được vãng sinh. Tại sao? Vì duyên tạp niệm khiến cho mất chánh niệm, không khế hợp với bản nguyện của Phật, vì trái với kinh giáo và lời chư Phật, chư Thánh dạy, hệ niệm không tiếp nối nhau, tâm không thường nhớ Phật. Vì thân tuy hành đạo mà tâm lại tương ưng với lợi danh, vì thích theo duyên tạp mà làm chướng ngại chánh nhân vãng sinh của mình và người. Các hàng ngoại đạo, tục có kiến giải không giống nhau, như là: Kẻ thích chuyên tu, người ưa tạp hạnh. Nếu như chuyên tâm niệm Phật thì mười người niệm đều vãng sinh cả mười. Nếu như tu tạp niệm mà tâm không chí thành thì trong ngàn người tu khó mong được một. Nguyện xin tất cả hãy nên chín chắn mà suy nghĩ kỹ. Lại nữa, người niệm Phật khi đi, đứng, nằm, ngồi phải cố gắng nhiếp tâm, ngày đêm chớ rời danh hiệu, quyết giữ câu niệm Phật cho đến hơi thở cuối cùng. Như thế thì đến giây phút mãn phần, niệm trước vừa thọ chung, niệm sau liền vãng sinh Cực Lạc. Từ đây vĩnh viễn hưởng được sự vui “pháp lạc” vô vi mãi cho đến ngày thành Phật. Há là chẳng đáng vui sướng ư?”. (Tham khảo “Tịnh Độ Thánh Hiền”, quyển thượng, tập 2)
Tương truyền Đại Sư Thiện Đạo, là hóa thân của Phật A Di Đà. Mỗi khi ngài niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, thì có một tia hào quang từ nơi miệng ngài phóng ra, ngài niệm Phật từ mười câu cho đến trăm câu đều có hào quang như vậy. Do tâm lực của ngài đã thành tựu nên mới có việc hiển hiện những điều kỳ diệu như thế. Qua đó cũng đủ chứng minh cho chúng ta thấy diệu dụng của niệm Phật, một khi chúng ta chuyên chú tâm niệm danh hiệu A Di Đà Phật, thì khiến cho tâm lực tập trung chuyên chú vào một chỗ, tạo nên một năng lực chánh niệm rất lớn và hiện hữu mọi lúc mọi nơi, thì sự kiện “niệm trước vừa thọ chung, niệm sau vãng sinh Cực Lạc” là việc có thể thực hiện, lời nói đó hoàn toàn không sai trái. Do đó, trong thời tu tập mỗi ngày, chúng ta phải định cho mình một thời khóa công phu rõ ràng. Nếu công việc thật sự bận rộn, trong nghi lễ của thời khóa công phu chỉ cần tụng Kinh A Di Đà, chú vãng sinh, đọc bốn mươi tám lời nguyện trong Kinh Vô Lượng Thọ là đủ, đối với các kinh luận khác không nhất thiết phải đọc, sau đó đọc kệ tán Phật, tiếp theo là niệm đức hồng danh, niệm vạn câu hoặc trên vạn câu. Ngoài thời khóa chính ra, những lúc bình thường miệng cũng không xa lìa danh hiệu Phật, tịnh niệm liên tục, có như thế mới đạt đến nhất tâm bất loạn. Người niệm Phật cần phải có tâm chuyên nhất, có tinh tấn, không nên vì một nhân duyên nào mà phế bỏ công phu. Hãy xem việc niệm Phật là công việc quan trọng nhất, tâm luôn tha thiết liễu sinh thoát tử, có như thế mới thành tựu việc vãng sinh. Một khi tâm có tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên sẽ tạo nên tâm lực rất lớn không gì bì kịp, vì tâm lực có diệu dụng không thể nghĩ bàn. Người niệm Phật một khi đạt được tâm lực đó thì không khác gì tâm lực của chư Phật trong mười phương.
5.- Nguyện và nguyện cảm ứng đạo giao
Đức Phật A Di Đà tu Bồ tát thừa phát bốn mươi tám lời nguyện. Phàm có chúng sinh nào chí tâm xưng niệm danh hiệu của Ngài, hoặc nghe danh hiệu của Ngài, cho đến phát đại Bồ đề tâm (nguyện lực). Nguyện lực của Ngài đã thành tựu, Ngài trải qua muôn kiếp tu hành, nhẫn lực tu hành thành tựu sáu Ba la mật, siêng năng tu Bồ tát vạn hạnh (hạnh lực). Hạnh lực của Ngài đã viên mãn, lại thành tựu chính báo quả vị Vô thượng Bồ đề và y báo là nước Cực Lạc trang nghiêm (công đức lực). Ba yếu tố: Nguyện lực, hạnh lực, công đức lực hòa hợp tạo nên thần lực danh hiệu không thể nghĩ bàn. Ngài dùng danh hiệu A Di Đà làm con thuyền Bát nhã, cứu độ chúng sinh. Chúng sinh, tin Phật, niệm Phật, phát tâm đại Bồ đề thành Phật độ chúng sinh, nguyện vãng sinh Tịnh độ để được sự giáo hóa của chư Phật, luôn luôn lấy lời nguyện đó hồi hướng về Phật A Di Đà. Do vậy mà có sự cảm ứng đạo giao giữa nguyện lực của chúng sinh và nguyện lực của Phật. Để có được sự cảm ứng đạo giao, người niệm Phật cần phải có tâm tin sâu, nguyện lực phải tha thiết, hành trì phải chuyên nhất, cầu Phật lực từ bi thương xót, gia hộ độ trì thoát ly sinh tử, tiếp dẫn vãng sinh Tịnh độ, tu tập cho đến ngày thành Phật, trở lại Ta Bà rộng độ chúng sinh đồng thoát ly sinh tử, đồng sinh Tịnh độ, vĩnh kiếp không còn sợ thối chuyển.
Ngẫu Ích Đại sư có nói: “Phải tin vào Phật lực mới có thể tin sâu công đức của danh hiệu, phải có tin trì danh mới có thể tin bản tính không thể nghĩ bàn của chúng ta. Người có đầy đủ tâm tin sâu như vậy mới có thể phát nguyện rộng lớn. Người niệm Phật chỉ cần ghi nhớ hai chữ “tín, nguyện”. Vì tín, nguyện là kim chỉ nam của pháp môn Tịnh độ, chấp trì danh hiệu là chánh hạnh. Nếu người có tín, nguyện kiên cố, đến phút lâm chung chỉ cần mười niệm tâm không rối loạn thôi cũng được vãng sinh. Người không có tín, nguyện dù cho niệm Phật đến trình độ gió thổi không động, mưa rơi không thấm, kiên cố vững chắc như tường đồng, lũy sắt cũng không được vãng sinh. Phàm là người tu tịnh nghiệp không thể không biết điều đó”. (Tham khảo Kinh A Di Đà yếu giải do Đại sư trước tác). Ngài còn nói rằng: “Người có được vãng sinh hay không vãng sinh, cũng tùy thuộc nơi chỗ có tín nguyện hay không có tín nguyện, phẩm vị cao hay thấp là tùy thuộc ở chỗ hành trì sâu hay cạn”.
Phật pháp chú trọng ở chỗ cảm ứng. Cũng không nằm ngoài đặc điểm đó, sự cảm ứng là thật tướng pháp giới vốn bao trùm khắp pháp giới hư không, không có sự ngăn ngại, vì nó vốn nhân duyên tương cảm, nương tựa nhau, tương ứng mà có. Tại sao sự cảm ứng trong Phật pháp lại rất đặc biệt như vậy? Vì Phật pháp vốn có pháp tính trong sạch thanh tịnh, do đó thế giới thần linh rất ưa chuộng. Nó vốn không có sự chướng ngại như các tôn giáo khác, nói đúng hơn thể tính của Phật pháp rất thanh tịnh bình đẳng, luôn hướng chúng sinh về con đường chân thiện mỹ, nên rất được chư Phật cũng như thế giới thần linh ưa thích và hộ niệm. Đức Phật A Di Đà khi còn là Pháp Tạng, sau khi đứng trước Phật Thế Tự Tại Vương phát bốn mươi tám lời nguyện rộng độ chúng sinh và sau khi nói kệ xong, lúc bấy giờ khắp các cõi đất sáu lần chấn động, chư Thiên rải hoa đẹp lên đầu Ngài cúng dường, tự nhiên có tiếng âm nhạc trong hư không vang lên khen ngợi và chứng quyết Ngài nhất định sẽ thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Kinh Vô Lượng Thọ). Đó là sự biểu hiện sự thật chứng của pháp giới thật tướng đối với lời phát nguyện của Pháp Tạng Tỳ kheo. Chỉ có chư Phật mới thấy được điều đó, phàm phu chúng ta không thể thấy được. Lại nữa, Đức Phật A Di Đà tu Bồ tát thừa, trải qua nhiều kiếp tu hành, công đức của Phật đã viên mãn, Ngài đã thành Phật, lời nguyện lớn của Ngài đã thành tựu một thế giới Tịnh độ. Trong thế giới Tịnh độ có vô lượng vô biên công đức trang nghiêm như: lầu gác, ao báu, hoa sen, cây báu, đất bằng vàng ròng, lưới châu... tất cả những loại trang nghiêm đó không chỉ một tay Phật có thể xây dựng được mà do một phần cảm ứng của thế giới thần linh, thế giới chư Phật mà thành tựu một thế giới Tịnh độ trang nghiêm như vậy. Trong đó tâm nguyện xây dựng thế giới Tịnh độ, rộng độ chúng sinh của Phật A Di Đà đóng vai trò chính. Có gieo nhân ắt sẽ gặp quả cảm ứng. Nhân ví như hạt giống, quả ví như hoa quả. Người tu pháp môn Tịnh độ cũng như thế, lấy tín, nguyện, hạnh làm nhân, từ nhân được gieo đó, Phật A Di Đà mới biết để đến tiếp dẫn vãng sinh, để giáo hóa thành Phật là quả. Tín, nguyện của pháp môn Tịnh độ được ví như sóng điện từ phát đi từ đài phát thanh, Phật A Di Đà tiếp nhận luồng sóng đó mới có thể định hướng chúng sinh đang tín, nguyện cầu về nước Ngài, dựa vào đó Ngài mới có thể định vị chúng sinh đang ở phương hướng nào để đến tiếp dẫn. Người niệm Phật sở dĩ được vãng sinh cũng nhờ vào sự phát khởi tin sâu, nguyện thiết mới có cảm ứng đạo giao. Trong pháp giới có vô lượng vô biên sự thật chứng của chư Phật, công đức trang nghiêm các Ngài không thể nghĩ bàn, mười phương hằng hà sa chư Phật đều quy hướng Tịnh độ. Vì vậy, có chúng sinh nào phát khởi tâm niệm Phật, các Ngài đều hết sức tán thán và đồng hộ niệm cho người đó đạt được quả bất thối chuyển A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề. Điều đó có thể chứng minh rằng, nếu người niệm Phật phát khởi tin sâu, nguyện thiết chắc chắn sẽ thành tựu vãng sinh Tịnh độ. Vì có sự cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn của chư Phật đối với chúng sinh. Do đó, những ai từ trước đến nay chưa phát khởi tâm niệm Phật hãy nhanh chóng phát khởi tín tâm, chắc chắn sẽ được vãng sinh Tịnh độ.
Tổ thứ sáu Liên Tông, Vĩnh Minh Diên Thọ Đại sư, là vị Thiền Tịnh song tu. Ngài có trước tác cuốn “Vạn Thiện Đồng Quy”, đó là một tác phẩm có giá trị về Tịnh độ. Ngài được xem là hóa thân của Phật A Di Đà. Sau khi Đại sư viên tịch, có một vị tăng từ miền Lâm Xuyên đến, trọn cả năm luôn đi kinh hành và lễ bái tháp của Đại sư, có người lấy làm lạ nên hỏi vị tăng đó, vị tăng đáp rằng: “Năm trước tôi bị đau nặng, thần thức rơi vào cõi u minh, thấy bên tả vua Diêm Vương có thờ tượng của một vị Hòa thượng, tôi thấy vua Diêm Vương đang cung kính quỳ lạy tượng ấy, tôi thử hỏi nguyên do, mới biết đó là tôn tượng của Diên Thọ Đại sư ở chùa Vĩnh Minh tại Hàng Châu. Ngài đã vãng sinh về nơi thượng phẩm của cõi Cực Lạc. Vua Diêm Vương do cảm kích trọng đức hạnh của ngài nên mới tác tượng lễ lạy cúng dường như vậy”. Qua đó cho chúng ta thấy được sự cảm ứng của Phật pháp còn cảm ứng đến cả nơi địa ngục, vì cảm ứng của Phật pháp vốn chu biến khắp cả pháp giới hư không. Vì vậy, người niệm Phật nếu có tâm tín, nguyện càng thành khẩn chắc chắn sẽ có cảm ứng đạo giao.
6.- Lấy quả địa giác làm nhân tâm địa
“Nhân quả là quyền lực lớn để Thánh nhân an dân trị nước” (lời của Ấn Quang Đại sư). Không có quả nào mà không có nhân, không có nhân nào mà không có quả. Từ mạng sống, sinh hoạt và sự nghiệp, cho đến phước họa, tốt xấu, thành công hay thất bại của con người đều không thoát khỏi sự chi phối của vòng nhân quả. Tuy nhiên, chúng sinh tuy sinh ra trong nhân quả lại không có trí tuệ phân biệt nhân quả có nguồn gốc từ đâu. Làm sao để gieo những nhân tốt? Chúng sinh hoàn toàn bị nhân quả chi phối, không biết tu hành ra sao. Việc tu hành theo đạo Phật đó là tu nhân. Nếu người gieo nhân địa giả dối chắc chắn gặt hái những quả giả dối. Thông thường người ta không biết nhân đó là tâm, trong mảnh đất tâm có chứa rất nhiều hạt giống nghiệp thức khác nhau, một khi các hạt giống nghiệp thức này chín muồi sẽ khởi hiện hành phát sinh thành quả. Tu nhân tức là thanh lọc nghiệp thức. Nghiệp thức được thanh lọc liền thấy bản tâm, đó là chánh đạo. Nếu không thanh lọc nghiệp thức mà lại lấy nghiệp thức của tâm làm nhân địa nỗ lực tu hành, chẳng khác nào người nấu cát mà mong thành cơm ắt hẳn cơm không thành mà chỉ có cát. Pháp môn niệm Phật vốn có nhân duyên đặc biệt thù thắng hơn các pháp môn khác. Đó là người niệm Phật lấy danh hiệu quả địa Chánh đẳng Chánh giác của Phật A Di Đà làm tâm nhân địa cho việc tu hành, người có quyết tâm tin Phật, quyết tâm nguyện sinh Tây phương, quyết tâm độ chúng sinh, quyết tâm trì niệm danh hiệu Phật, đem toàn thể tâm lực mà hệ niệm vào danh hiệu Phật. Phật có nghĩa là giác ngộ, tỉnh thức, hệ niệm vào danh hiệu Phật tức là đang hệ niệm vào tỉnh thức giác ngộ. Phật là người đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, từ bi nguyện lực của các Ngài cùng với tín, nguyện, hạnh của chúng sinh hòa hợp lại tạo nên một năng lực cảm ứng không thể nghĩ bàn. Phật lực của các Ngài sẽ khiến cho nghiệp thức của chúng sinh dần dần được thanh lọc, và tính giác của chúng sinh dần dần được hiển lộ. Do đó chúng sinh trong tâm niệm Phật, là đang gieo trồng chủng tử thành Phật. Nếu tín, nguyện và niệm Phật cùng được tiến hành song song thì tâm chúng sinh cảm thông với tâm Phật. Nếu tâm chúng sinh càng hệ niệm vào danh hiệu Phật thì nghiệp thức của chúng sinh càng nhanh chóng được thanh lọc, và rồi bản giác càng nhanh chóng hiển lộ.
Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật có nói: “Niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật có thể tiêu trừ trọng tội của tám mươi vạn kiếp sinh tử”. Do đó, người niệm Phật chỉ cần thành khẩn tha thiết mà niệm chắc chắn sẽ được cảm ứng đạo giao, nghiệp thức sẽ được tiêu trừ. Mỗi ngày nên định thời khóa mà niệm Phật, niệm liên tục, thiện căn càng chín muồi thì nghiệp thức dần dần được tiêu trừ, bản giác sẽ dần dần hiển lộ. Đối với người trung và hạ căn, nếu không thể đạt đến nghiệp thức hoàn toàn thanh lọc thì có thể nương vào đới nghiệp được vãng sinh. Một khi đã sinh Tịnh độ, hóa sinh trong hoa sen, dư nghiệp liền tiêu trừ, hoa nở liền thấy Phật ngộ được vô sinh pháp nhẫn.
Danh hiệu Phật có thần lực không thể nghĩ bàn, có thể chuyển hóa người niệm Phật từ chỗ tâm tính mê muội đạt đến chỗ minh tâm kiến tính. Nếu người niệm Phật niệm danh hiệu Phật lâu dài không gián đoạn, tâm chuyên nhất với danh hiệu, chắc chắn người đó đến phút lâm chung chánh niệm rõ ràng. Ngoài phương pháp trì danh ra, mọi người có thể áp dụng “phương pháp tùy tức niệm Phật” (theo dõi hơi thở niệm Phật), trong các oai nghi luôn mượn hơi thở làm tràng hạt để niệm Phật. Hít vào niệm “Nam Mô A”, thở ra niệm “Di Đà Phật”, thực hành lâu ngày như thế, danh hiệu sẽ nhiếp theo hơi thở làm một, nhĩ căn sẽ hệ niệm ở tâm, do đó tạp niệm không thể xen vào và khởi lên, từ đó có thể đạt đến “sự nhất tâm bất loạn”. Một khi được “sự nhất tâm bất loạn” rồi, lại càng tinh tấn niệm, tâm không có sự mong cầu các cảnh tướng, Phật hiệu và tâm nhất như. Lúc đó tâm không niệm mà niệm, liền đạt đến “lý nhất tâm bất loạn”, tâm cùng tương ưng với tâm Phật, được gọi là thật tướng niệm Phật, hay đã thành tựu niệm Phật tam muội.
Ấn Quang Đại sư có nói: “Nếu thật sự đạt được quả niệm Phật “nhất tâm bất loạn” (chú ý hai chữ nhất tâm) tức là quả địa giác làm nhân cho tâm địa. Nếu có thể đạt đến tâm tương ưng thì nhân tức là quả, rất bình thường, rất huyền diệu. Nếu người không tin nhận được điều đó thì không thể được xem là người trí”. Ý Đại sư muốn nói khi tâm địa của người niệm Phật tương ưng với tâm địa của Phật, tâm tâm tương ưng khế hợp với nhau, tức là thuộc thật tướng niệm Phật, điều đó chứng tỏ người đó đã đạt được niệm Phật tam muội. Chuyện đó là chuyện bình thường không có gì là cao siêu khó hiểu, nhưng nó rất huyền diệu thâm sâu, nếu là người trí thức cho điều đó là cao siêu khó hiểu, không thực tế thì người đó không thể xem là hạng trượng phu trí thức được.
Đại sư Triệt Ngộ cũng có nói: “Sở dĩ gọi là chấp trì danh hiệu là chăm chăm buộc niệm kiên cố ở tâm, nếu có một mảy may niệm xen tạp hoặc gián đoạn thì chẳng được gọi là chấp trì. Nếu niệm niệm tương tục không gián đoạn, tinh tấn niệm không dừng nghỉ dần dần đạt đến nhất tâm bất loạn. Một khi đã đạt được nhất tâm bất loạn rồi mà càng tinh tấn không dừng nghỉ, trí tuệ sẽ khai sáng, phát khởi biện tài, đắc được thành thông, thành tựu niệm Phật tam muội. Chỉ có đạt đến nhất tâm loạn thì tịnh nghiệp mới viên thành. Pháp môn Tịnh độ là cánh cửa lớn độ thoát chúng sinh thoát ly sinh tử, người không có tín, không có nguyện chắc chắn mãi mãi không có an toàn, mãi mãi đắm chìm trong sinh tử. Là bậc học giả hãy lấy điều đó mà suy nghĩ cho kỹ, không nên bỏ qua”.
Tóm lại, qua lời của hai vị Đại sư, tuy văn tự có khác nhau, thế nhưng ý nghĩa diễn đạt lại giống nhau. Cái được gọi là “tâm tương ưng, niệm niệm tương tục không gián đoạn... đạt được trí tuệ biện tài vô ngại, thành tựu niệm Phật tam muội” những cảnh giới chứng đắc đó thật cao siêu, huyền diệu, nhưng đó là sự thực, không phải cảnh tướng xa lạ gì đối với những hành giả niệm Phật, một khi đạt được sẽ thấy được điều đó. Muốn đạt được thành tựu như vậy, người niệm Phật cần phải có tín, hạnh, nguyện thiết tha, công phu phải miên mật, niệm niệm không gián đoạn, mới có khả năng thành tựu niệm Phật tam muội. Đối với bậc học giả chúng ta cũng không nên chấp lý mà bỏ sự, không nên cho pháp môn Tịnh độ là hẹp hòi chỉ dành cho ông già bà cả mà đánh mất đi nhân duyên vãng sinh Tịnh độ của chính mình, nên khởi thực hành mới cảm nhận được sự vi diệu của nó, điều đó đã được hai vị Đại sư nhắc nhở như trên.
7.- Niệm Phật vãng sinh là xả khổ thọ lạc
Trong Kinh A Di Đà, Phật Thích Ca có nói:“Này Xá Lợi Phất, vì sao cõi ấy gọi là Cực Lạc? Cõi ấy không có những thứ khổ, chỉ có thuần những sự vui, vì vậy mà có tên là Cực Lạc”. Thế giới Cực Lạc là thế giới được Phật A Di Đà xây dựng từ vô lượng vô biên các công đức trang nghiêm, xin đơn cử vài điều như sau:
1. Trí tuệ của Phật sáng vô lượng vô biên, soi khắp các nước khắp cả mười phương đều không chướng ngại. Phật A Di Đà rộng độ chúng sinh khắp mười phương, nhân dân nước Cực Lạc hằng ngày sáng sớm đều lấy xiêm y đựng các thứ hoa có hương thơm đẹp lạ, mang đi cúng dường mười muôn ức chư Phật ở các phương khác, đến giờ cơm lại quay về nước của mình, dùng cơm xong lại đi dạo chơi, kinh hành niệm Phật, đó là đức đại ngã.
2. Người sống trong cõi Cực Lạc, vô minh không còn, tham, sân, si hoàn toàn triệt đoạn, không phải sợ trở lại địa ngục, mà đều hóa sinh từ hoa sen, đó là tịnh đức.
3. Các hàng cây báu cùng các loại chim nơi Cực Lạc đều phát ra pháp âm vi diệu, đó là đức thuyết pháp.
4. Nhân dân sinh sống ở Cực Lạc không có những điều khổ, chỉ thọ nhận những điều vui sướng nên gọi là Cực Lạc, đó là lạc đức.
Thế giới Tịnh độ được thiết lập từ các công đức trang nghiêm, tất cả đều thuần sự vui sướng, không có các khổ đau, dục vọng như thế giới Ta Bà. Kinh Pháp Hoa có nói: “Nguyên nhân của khổ đau có nguồn gốc từ tham dục”. Lại nữa trong Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã, Đức Phật có nói: “Chúng sinh ngày đêm luân chuyển trong lục đạo, chịu khổ không ngừng, đều do tâm tham dục”. Thật vậy chúng sinh sở dĩ luân chuyển trong lục đạo, chịu khổ đau cũng từ tâm tham dục. Khổ vốn có trăm ngàn loại khác nhau, vì vậy mà chúng sinh suốt ngày ca cẩm khổ đau không dừng, nào là lương thực thiếu thốn cũng khổ, tài nguyên, vật chất cạn kiệt cũng khổ, không khí, môi trường ô nhiễm cũng than khổ, bệnh tật, dịch hạch phát sinh cũng khổ, thất nghiệp khổ, chiến tranh khủng bố, bom đạn, nguyên tử hoành hành cũng khổ. Nói tóm lại, đã làm người sống trong thế gian này phải chấp nhận muôn ngàn khổ đau không thể nào kể hết.
Theo nhà Phật, khổ được chia làm ba loại: Ba khổ, tám khổ, trăm loại khổ. Nhưng thông thường khổ được Đức Phật giảng nói là tám thứ khổ, gồm các loại như sau: 1. Sinh khổ, 2. Lão khổ, 3. Bệnh khổ, 4. Tử khổ, 5. Ái biệt ly khổ, 6. Cầu bất đắc khổ, 7. Oán tắng hội khổ, 8. Ngũ ấm xí thạnh khổ.
Sinh khổ: Sự khổ của sinh được chia làm hai giai đoạn, khổ từ khi thọ thai nằm trong lòng mẹ và khổ lúc sinh ra. Trong thời kỳ nằm trong lòng mẹ, thai nhi thọ bẩm khí huyết sạch hay dơ, no hay đói, mạnh hay yếu đều tùy thuộc vào người mẹ. Nếu người mẹ biết lo nuôi dưỡng giữ gìn thai nhi thì còn đỡ, bằng ngược lại, người mẹ mang thai trong trường hợp ngoài ý muốn, gia đình và xã hội không cho phép thì bắt buộc phải sử dụng thuốc phá thai, thai nhi phải chịu muôn phần đau khổ, èo uột, dở sống, dở chết thật thảm thương vô cùng... Thời kỳ thứ hai, sau chín tháng mười ngày nằm trong lòng mẹ chịu biết bao đau khổ, thai nhi một lần nữa phải chịu đau đớn như ai cắt thân xé thịt mới có thể lọt ra khỏi lòng mẹ, đó là chưa kể sau khi ra khỏi lòng mẹ nếu có khóc thì đỡ, bằng ngược lại bị đánh đến khi nào chịu khóc mới thôi, vì có khóc buồng phổi của thai nhi mới hoạt động được, thai nhi mới có khả năng sống sót.
Lão khổ: Bình thường ai cũng lo lam lũ làm ăn, ít có ai nhớ nghĩ đến cái già, vì thế khi có ai nhắc đến cảnh già thì tự nhiên giật mình lo sợ. Cho nên người xưa thường than “đa thọ thì đa khổ”. Nếu người biết suy tưởng thì sẽ thấy được rằng người ta càng sống lâu chừng nào càng gánh chịu nhiều khổ đau chừng ấy. Về thể xác, tuổi càng già thân thể càng tiều tụy, yếu đuối, đầu bạc da nhăn, mắt mờ tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi đớ, răng thì cái rụng cái lung lay, đau nhức vô cùng tận. Muôn việc đều nhờ con cháu giúp đỡ. Nếu con cháu có đạo đức và hiếu thuận thì còn đỡ và an ủi được phần nào, bằng ngược lại, làm khổ con cháu quá nhiều thì chúng nó đâm ra bỏ bê không chăm sóc, đã khổ lại càng khổ muôn phần. Về mặt tinh thần, người càng già thần kinh càng yếu, trí nhớ bất thường, quên trước nhớ sau, đôi khi lú lẫn làm trò cười cho thiên hạ. Do đó người đến tuổi già thường than “già khổ lắm”.
Bệnh khổ:Đối với con người, sức khỏe là vàng bạc, có sức khỏe là có tất cả. Một người mắc bệnh thì dường như họ mất cả lẽ sống, thân xác uể oải, đau nhức, tâm thần bất định. Đó là chưa kể những người mắc các bệnh trầm kha như ung thư, bệnh thế kỷ như HIV/AIDS chưa có thuốc chữa trị, đang đứng giữa hai bờ sống chết. Những người này tuy sống mà như đã chết, lẽ sống đối với họ dường như không còn. Thế nên mới nói bệnh là khổ.
Tử khổ:Nói đến cái chết thì từ con người cho đến các loại động vật, loài nào cũng hoảng sợ. Vì trước khi chết phải chịu biết bao cực hình đau khổ. Chết có nhiều hình thức khác nhau: Chết vì bệnh tật, chết vì đâm chém, chết vì cướp của giết người, chết bất đắc kỳ tử như bị tai nạn giao thông, máy bay hư, khủng bố chiến tranh giết chóc, bom đạn nguyên tử. Cái chết làm cho con người phải kinh sợ.
Ái biệt ly biệt khổ:Gia đình, chồng vợ, con cháu... đang sống đầm ấm hạnh phúc, bỗng nhiên có một người nào đó đi xa hoặc chết, cảnh biệt ly giữa kẻ ở người đi thật không có nỗi buồn nào bằng, nên nói thương yêu xa lìa là khổ là vậy.
Cầu bất đắc khổ:Là sự mong muốn mà không toại ý. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường mắc phải những thất vọng sau: Thất vọng vì công danh, thất vọng vì lợi lộc, thất vọng vì giàu sang phú quý, thất vọng vì tình duyên trắc trở v.v... các thất vọng trên đây thường tạo nên những móc xích trói buộc, khiến cho chúng sinh mãi mãi đắm chìm trong sinh tử, thậm chí có người đôi khi vì những thất vọng đó mà đánh mất đi thân mạng của chính mình, thật đau đớn vô cùng.
Oán tắng hội khổ: Là chỉ cho nỗi khổ giữa hai người có oán thù mà phải ở chung. Người ở thế gian thường than: “Thấy mặt kẻ thù như kim đâm vào mắt, sống chung với kẻ thù như nếm mật nằm gai”. Ý nghĩa lời than trên đây có thể đã diễn đạt phần nào giữa hai người không có yêu thương mà phải sống chung. Đôi khi trong một gia đình, nếu có tình trạng đó thì thật không có nỗi khổ nào bằng. Vợ chồng không thương yêu mà phải sống chung tất nhiên sẽ dẫn đến phải ly thân hoặc ly dị, làm cho con cái không đủ cha, đủ mẹ, chúng sẽ mặc cảm với bạn bè, không có người chăm sóc dạy dỗ, ắt hẳn sẽ đi vào con đường tội lỗi, tạo nên mối đe dọa gây khó khăn cho xã hội.
Ngũ ấm xí thạnh khổ: Ngũ ấm bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là nghiệp cảm thuộc về phần vật chất, thọ tưởng hành thức là nghiệp cảm thuộc về phần tinh thần. Ngũ ấm xí thạnh khổ là chỉ cho thân ngũ uẩn quá sung mãn, mập, dẫn đến thúc dục thân tâm đòi hỏi xung đột, chi phối bất thường, gây nhiều vọng tưởng, vọng thức tà vạy. Thật vậy, nói đến khổ đau mà con người gánh chịu từ kiếp này sang kiếp khác thì không ngôn ngữ nào diễn đạt cho hết, cho nên trong kinh có nói: “Nước mắt chúng sinh nhiều hơn biển cả” là vậy. Thế nhưng, hằng ngày con người tiếp xúc với những đau khổ đó mà nào có hay có biết, họ chỉ một lòng hăng say tạo tác nghiệp. Đối với họ đó là những niềm vui, là lẽ sống, vì thế mà thế giới Ta Bà chúng ta đang sống mới có nghĩa là “kham nhẫn”, nghĩa là chúng sinh trong thế giới Ta Bà kham nhẫn mọi khổ đau để mà sống.
Ấn Quang Đại sư có nói: “Thời đại mạt pháp tất cả chúng sinh nên tha thiết mà niệm Phật, nương nhờ Phật lực mà vãng sinh Tịnh độ. Đã được vãng sinh rồi thì từ hoa sen mà hóa sinh, sẽ không còn nỗi khổ về sinh sản nữa. Tất cả đều được thọ thân người nam, thọ mạng ngang bằng với hư không, không có tai biến, không có các nỗi khổ về già, bệnh, chết, được gần gũi Phật A Di Đà và chư Thánh chúng, được nghe pháp âm vi diệu phát ra từ các hàng cây báu, từ các loại chim. Tùy theo căn tính, một khi nghe pháp rồi liền chứng được vô sinh pháp nhẫn, làm gì còn khổ đau. Nghĩ ăn là có ăn, nghĩ mặc là có mặc, sống trong lầu gác nguy nga tráng lệ đều bằng bảy báu, không cần phải lao động, không có nỗi khổ cầu bất đắc, cho đến thân thể có đại thần thông, đại uy lực, không cần phải xa lìa xứ của mình, mà chỉ trong một niệm thân đã ở mười phương chư Phật làm các Phật sự, thượng cầu hạ hóa, có đại trí tuệ, đại biện tài, ở trong một pháp mà thấu rõ thật tướng của muôn pháp, tùy theo căn cơ mà nói pháp, hoàn toàn không còn sự mê lầm, tuy nói lời tục đế, mà đều khế hợp với diệu lý của chân đế, không còn nỗi khổ về ngũ ấm, thân tâm thường an trụ trong tịch tịnh vô vi. Nên Kinh A Di Đà có nói: “Cõi nước đó không có những khổ đau, chỉ thuần những vui sướng, cho nên mới gọi là Cực Lạc”. Người trong thế gian, thường cho rằng đạo Phật là đạo bi quan, vì chỉ nói toàn là khổ đau. Đó là do họ không có nghiên cứu áp dụng. Những lời Phật dạy như toa thuốc tùy theo bệnh chúng sinh mà chữa trị. Phương pháp trao truyền giáo pháp của Ngài thật khoa học và thực tiễn, cụ thể được Ngài thể hiện qua bài pháp Tứ diệu đế đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như và Bát chánh đạo trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Thật vậy, trong tám cái khổ được nêu trên, khổ đầu tiên là sinh khổ có ý nghĩa rộng lớn vô cùng, không có gì so sánh kịp. Sinh vốn là vô sinh, vô sinh vốn là sinh mà không sinh. Chúng sinh do mê lầm về thân ngũ uẩn mà quên đi bản tính vốn không sinh không diệt. Ngũ ấm bản thể vốn là không, đối với các pháp cũng giống như vậy. Duy chỉ có bản tính vô sinh, là thường trụ bất biến, không sinh cũng không diệt, không có điểm khởi đầu và cũng không có điểm kết thúc. Bản thể thường trụ đó, tuy thể của nó vốn không sinh không diệt, thế nhưng nó lại tùy theo nhân duyên. Nếu tùy theo duyên tịnh, lại được tu hành theo Phật pháp, nó sẽ phát triển không thôi, tu Bồ tát hạnh, thượng cầu hạ hóa cho đến ngày thành Phật. Nếu tùy theo duyên nhiễm, thì nó bị luân chuyển trong vô minh lục đạo, chấp trước thế giới hư vọng là thực có, từ đó sinh tâm tham đắm gieo nhân khổ đau. Do đó, người niệm Phật phải có chánh tri kiến về thế gian cũng như thân thể, hiểu rõ thế gian tất cả vốn đều hư vọng, khổ, không, vô thường và vô ngã, nên phát nguyện niệm Phật mà vãng sinh Cực Lạc, để xả ly thân thể và thế giới Ta Bà đầy dẫy đau khổ này, được thọ nhận thân thể thanh tịnh và được sống trong thế giới Tịnh độ đầy vui sướng.
8.- Thời đại mạt pháp niệm Phật kiên cố
Vào tháng 4 năm 1965, Đại sư Tuyên Hóa trụ trì chùa Kim Sơn tại nước Mỹ trở về thăm Đài Loan cùng với phái đoàn Phật tử nước ngoài. Trong một buổi nói chuyện với Phật tử tại giảng đường Tuệ Nhật, Đại sư có nói một câu làm cảnh tỉnh rất nhiều người. Đại sư nói: “Sau khi tôi xuất gia, trong thời gian lưu lại ở phương Đông hai năm, tôi nhận thấy có một thái độ rất bi quan của nhiều tín đồ, họ cho rằng: “Thời đại mạt pháp tu hành cũng vô dụng”. Thái độ đó nếu không chuyển hóa thì rất có hại cho những tín đồ Phật giáo phương Đông. Do đó, tôi kính khuyên chư vị, chỉ cần chúng ta nhận chân được việc tu hành, thì thời đại mạt pháp làm gì đủ khả năng chướng ngại được chúng ta”. Lời nói đó của Đại sư như một lời cảnh tỉnh đã làm cho nhiều người rất xúc động.
Thật vậy, phần lớn chúng ta là tín đồ Phật giáo đều biết rằng thời đại này là thời đại mạt pháp. Pháp nhược ma cường, tại sao lại không quyết tâm tu pháp môn Tịnh độ? Phải nên nhận thức được rằng chỉ có niệm Phật là bền vững nhất. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo tại thế giới Ta Bà ngũ trược này, được sáu phương chư Phật ca ngợi việc làm của Ngài thật hy hữu hiếm có ở đời. Đức Phật Thích Ca là hiện kiếp của Đức Phật thứ tư. Hiện kiếp Phật thứ nhất là Đức Phật Câu Lưu Tôn Như Lai, vào kiếp này thọ mạng con người là sáu vạn tuổi. Hiện kiếp Phật thứ hai là Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai, thọ mạng con người vào kiếp này là bốn vạn tuổi. Hiện kiếp Phật thứ ba là Đức Phật Ca Diếp Như Lai, thọ mạng của con người vào kiếp này là hai vạn tuổi. Đến thời kỳ Phật Thích Ca thì tuổi thọ con người chỉ còn trên dưới một trăm tuổi. Điều đó chứng tỏ rằng thế giới Ta Bà chúng ta đang sống hiện nay rất ô trược. Đức Phật xuất hiện ở thế giới Ta Bà, nói pháp 49 năm, những người có nhân duyên với Ngài tu hành trong hội Pháp Hoa đều được Ngài thọ ký về sau thành Phật. Sau khi Phật diệt độ, thời đại chánh pháp trụ thế ở đời được 500 năm, thời kỳ tượng pháp được 1000 năm. Chúng sinh ra đời vào thời kỳ chánh pháp, cũng như sau thời kỳ tượng pháp khoảng 100 năm, tu hành đều có thể chứng đạo. Duy chỉ có thời đại mạt pháp cách Phật rất xa, nên phần lớn căn tính chúng sinh kém liệt, nghiệp chướng sâu dày, trợ duyên ít, ngược lại chướng duyên thì nhiều. Người đọc Kinh Di Giáo của Phật tuy có hiểu biết, song ít có người tu tập chứng ngộ. Có thể thấy được rằng vào thời đại mạt pháp, nếu tu tập mà chỉ nương nhờ tự lực thì đạo nghiệp khó viên thành. Chỉ nương nhờ tha lực là chính, tự lực phối hợp với tha lực tu trì mới có khả năng thành tựu. Trong Kinh Đại Tập có nói: “Thời đại mạt pháp ức ức người tu hành, ít có một người chứng đạo, duy chỉ có nương nhờ niệm Phật thì mới có thể thoát sinh tử”, có thể minh chứng cho điều nói trên vậy.
Trong Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi có nói: “Sau Đức Phật diệt độ, thời kỳ chánh pháp người tu trì giới bền vững được 500 năm, thời kỳ tượng pháp tu thiền định bền vững được 1000 năm, đến thời kỳ mạt pháp người tu niệm Phật bền vững được một vạn năm”. Từ khi Đức Phật Niết bàn đến nay thời gian đã trải qua hơn 1700 năm, chúng ta đã bước vào thời đại mạt pháp 200 năm. Vì thế thời đại ngày nay chính là thời đại niệm Phật để liễu sinh thoát tử.
Pháp Chiếu Đại sư là Tổ thứ tư Liên Tông. Vào một buổi sáng, lúc thanh trai nơi tăng đường, ngài thấy trong bát cháo hiện ra bóng mây ngũ sắc, trong mây ấy hiện rõ một cảnh sơn tự, phía Đông Bắc sơn tự có một dãy núi, dưới chân núi có một khe nước, phía Bắc khe nước có một cái hang bằng đá, trong hang ấy có một ngôi chùa lớn, có biển treo ở trước đề tên Đại Thánh Trúc Lâm Tự. Mấy hôm sau, ngài lại thấy nơi bát cháo hiện ra cảnh chùa ấy, trong chùa lại thấy có vườn cây, ao nước lầu đài tráng lệ nguy nga, có một vạn (10.000) vị Bồ tát đang ở trong đó. Thấy cảnh lạ ấy, ngài mới đem hỏi các bậc tri thức, có một vị cho rằng: “Sự biến hiện của chư Thánh khó thể nghĩ bàn, nhưng nếu luận riêng về địa thế non sông, thì đó đích thực là Ngũ Đài Sơn vậy”. Nghe lời ấy, ngài có ý muốn đến xem Ngũ Đài Sơn để xem sự thật như thế nào. Mãi đến năm Đại Lịch thứ năm, vào ngày mồng 6 tháng 4, Đại sư cùng các bạn đồng tu đến được chùa Phật Quang ở huyện Ngũ Đài. Vào khoảng canh tư đêm đó, ngài thấy có một ánh sáng lạ từ xa chiếu đến thân ngài, ngài liền lần theo ánh sáng đó mà đi, đi được 50 dặm thì đến một dãy núi, dưới chân núi có khe nước, có cửa cổng bằng đá, nơi cửa cổng có hai vị đồng tử đang đứng chờ ngài. Ngài theo chân hai vị đồng tử dẫn đến một ngôi chùa cực kỳ nguy nga lộng lẫy, biển đề Đại Thánh Trúc Lâm Tự. Ngài vào chùa, lên giảng đường, thấy đức Văn Thù ở phía bên Tây, đức Phổ Hiền Bồ tát ở phía bên Đông, Pháp Chiếu Đại sư bước đến chí thành đảnh lễ, rồi quỳ thưa rằng: “Kính bạch Đại Thánh, hàng phàm phu đời mạt pháp, cách Phật đã xa, lại thêm bị chướng nặng nghiệp sâu, trí thức kém hẹp. Tuy có Phật tính mà không biết làm sao cho hiển lộ, trong khi giáo pháp Phật quá mênh mông. Chưa rõ pháp môn nào thiết yếu tu hành để cho mau được giải thoát?”. Văn Thù Bồ tát bảo rằng: “Thời kỳ này chính là vào lúc các ngươi nên niệm Phật, trong tất cả pháp môn không chi hơn là niệm Phật, cúng dường Tam Bảo, phước huệ song tu, đó là cửa tu rất thiết yếu. Thở đời quá khứ, ta nhờ quán Phật, niệm Phật, cúng dường Tam Bảo mà chứng được “nhất thiết chủng trí”. Tất cả các pháp Bát Nhã Ba La Mật, những môn thiền định rộng sâu, cho đến chư Phật cũng từ nơi niệm Phật mà sinh. Vì thế nên biết “Niệm Phật là vua trong các pháp”. Ngài Pháp Chiếu lại hỏi rằng: “Kính bạch Đại Thánh, chúng con nên niệm Phật như thế nào?”. Đức Văn Thù lại đáp: “Về phương Tây của thế giới này, có Phật A Di Đà là giáo chủ của cõi Cực Lạc. Đức Phật ấy có nguyện lực lớn không thể nghĩ bàn. Ngươi nên niệm danh hiệu Ngài tiếp nối nhau không gián đoạn, thì khi mạng chung, quyết định được vãng sinh, chẳng còn bị thối chuyển nữa”. Nói xong hai vị Bồ tát đồng đưa tay xoa đầu ngài Pháp Chiếu và bảo rằng: “Do nơi ngươi niệm Phật, không còn bao lâu nữa sẽ chứng quả Vô thượng Bồ đề. Nếu có thiện nam tín nữ nào muốn thành Phật thì không có gì hơn là niệm Phật. Kẻ ấy nhất định sẽ mau lên ngôi Chánh đẳng Chánh giác”. Được hai vị Đại Thánh thọ ký xong, ngài Pháp Chiếu vui mừng đảnh lễ rồi lui ra (Tham khảo “Tịnh Độ Thánh Hiền” quyển thượng, tập 3).
Thật vậy, hai vị đại Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền còn phải khuyên răn chúng sinh thời đại mạt pháp, nếu muốn thành Phật không có gì hơn là niệm Phật, điều đó đã được hai vị Đại Thánh thông qua Đại sư Pháp Chiếu, trở lại thế giới Ta Bà mà xiển dương vậy.
Đạo Kính Đại sư và Thiện Đạo Đại sư, trong các tập sách do hai ngài trước tác đều có dẫn chứng một đoạn trong “Kinh Nguyệt Kinh Tam Muội”, thuộc Đại Tạng Kinh quyển thứ 47. Đoạn kinh đó như sau: “Tất cả mười phương ba đời chư Phật, quá khứ, hiện tại và vị lai, đều học niệm Phật mà nhanh chóng chứng quả Vô thượng Bồ đề. Do đó nên biết ba đời chư Phật, đều nhân nơi niệm Phật mà được thành Phật. Có người lại hỏi Phật rằng: “Tại sao không niệm Phật trong mười phương, mà chỉ niệm Phật A Di Đà?”. Đức Phật lại đáp: “Trong mười phương Phật thì Phật A Di Đà là Phật thù thắng nhất, cao quý nhất, từ bi nhất. Lại nữa trong mười phương chư Phật, Phật A Di Đà là Phật kết duyên cùng chúng sinh thâm sâu nhất. Hiện tại trong mười phương chư Phật, Phật A Di Đà có nguyện lực nhiếp độ chúng sinh nhiều nhất. Lại nữa, hiện tại trong các thế giới Tịnh độ của mười phương chư Phật, thế giới Tịnh độ của Phật A Di Đà là tốt nhất. Lại nữa, trong các thế giới Tịnh độ của mười phương chư Phật, thế giới Tịnh độ của Phật A Di Đà là gần với thế giới Ta Bà nhất. Lại nữa, trong danh hiệu của các Đức Phật, danh hiệu Phật A Di Đà có công đức nhiều nhất”. Ngoài ra, trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật cũng có nói: “Nếu có người nào niệm danh hiệu của một vị Phật hay hai vị Bồ tát, thì trừ diệt được những tội trong vô lượng kiếp, hà huống gì là người đó nhớ Phật, tưởng Phật mà chí tâm niệm Phật. Các ông nên biết những người niệm Phật đó giống như hoa Phân đà lợi ở trong cõi người vậy”.
Tóm lại, thời đại mạt pháp này chính là thời đại niệm Phật. Điều đó đã được chư Phật nhắc nhở chúng ta, thông qua chư Tổ và các bậc Đại Thánh, vì thế chúng ta hãy cùng nhau tin sâu, nguyện thiết mà niệm Phật, nhất định sẽ được vãng sinh Tịnh độ, chứng quả Vô thượng Bồ đề.
9.- Qua lại tam giới chứng đắc pháp thân thanh tịnh
Cổ đức có nói: “Hãy diệt sự suy nghĩ, mà sống với pháp thân thanh tịnh”. Thật vậy, sự suy nghĩ của chúng ta phát khởi liên tục và sinh diệt, diệt rồi sinh trong từng sát na, không có lúc nào dừng. Từ suy nghĩ và ý niệm liên tục đó đã tạo nên nhiều nghiệp cảm khác nhau, kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc, căn bản vô minh, đều là những nghiệp cảm vô cùng quan trọng. Là người tu đạo, tất cả những nghiệp cảm đó cần phải nhất nhất đoạn tận, mới có thể chứng được pháp thân thanh tịnh mà bước vào quả vị Phật. Song, việc đoạn trừ kiến, tư hoặc và các phiền não là cả một lộ trình dài thăm thẳm. Đoạn trừ nghiệp cảm, chứng pháp thân, lời nói nghe qua sao mà dễ dàng, thế nhưng nếu dựa vào tự lực để thoát khỏi tam giới, cần phải trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, con số thời gian đó là cả một lộ trình dài đầy vất vả gian lao. Hà huống gì thời đại mạt pháp, chúng sinh túc nghiệp thâm trọng, chỉ có cách xả tự lực, nương nhờ Phật lực, mới có thể thoát ly tam giới.
Trong công phu tu đạo, có hai cánh cửa tự lực và tha lực. Người tu tự lực là chỉ y theo lời dạy của Phật trong tam tạng Thánh giáo mà tu hành. Từ sơ phát tâm, nếu không có chướng duyên, phải trải qua một đại A tăng kỳ kiếp mới có thể đạt đến sơ địa (tức là Hoan Hỷ Địa). Lại phải trải qua một đại A tăng kỳ kiếp tu hành nữa thì hành giả mới có thể đạt đến Bát địa (tức là Bất Động Địa). Trong khi đó hành giả tu tập theo tha lực, niệm Phật A Di Đà, theo Kinh Di Đà thì nhanh nhất là một ngày, chậm nhất là trong bảy ngày, đạt được nhất tâm bất loạn, liền vãng sinh Cực Lạc. Theo Kinh Lăng Nghiêm thì ở địa vị thứ bảy của thập trụ Bồ tát (Bất Thối Trụ). Nói theo Kinh Niệm Phật ở địa vị thứ tám của thập đại bộ kinh Bồ tát (Bất Động Địa). Tuy dùng ngôn từ khác nhau nhưng đều chỉ cho ngôi vị bất thối chuyển. Nói theo Kinh Di Đà được ở ngôi bất thối chuyển là đắc quả A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề. Người đã được quả vị bất thối chuyển là người có năng lực không còn sợ bị thối chuyển mà tiến thẳng đến quả vị thành Phật. Do đó người tu đạo không có chi tốt hơn là nương vào pháp môn Tịnh độ, cầu vãng sinh để được ra khỏi tam giới thoát ly sinh tử luân hồi. Ấn Quang Đại sư có nói: “Nếu luận về việc xuất ly tam giới, thì không có một năng lực nào có thể giúp hành giả tu giới định tuệ mà có thể đoạn tận phiền não và nghiệp cảm. Giả như nghiệp cảm đoạn trừ được chút ít thì người tu vẫn trở lại tam giới như cũ. Hà huống gì chúng sinh thời mạt pháp, thiện căn kém cỏi, mạng sống ngắn ngủi, mà nương vào tự lực tu hành, ức ức kiếp phiền não mới chỉ đoạn trừ được chút ít. Nếu muốn thoát tam giới, chỉ có y theo pháp môn niệm Phật, tin sâu, nguyện thiết, niệm danh hiệu Phật, cầu sinh Tây phương, kiêm tu luân thường, thận trọng không làm các việc ác, chỉ làm các việc lành, thì không còn sợ thối chuyển, được vãng sinh Tịnh độ. Đã được vãng sinh thì siêu phàm nhập thánh, thoát ly sinh tử, vĩnh kiếp xa lìa khổ não, thọ hưởng vui sướng, công đức thuần thục liền sinh vào hoa sen thượng phẩm. Người tu niệm Phật, nếu công phu chưa được thành thục, cũng được đới nghiệp vãng sinh, dự vào hàng thánh. So sánh lợi ích giữa tự lực và tha lực, thật không khác một trời một vực” (theo Hoằng Sơn Liên Xã, phần Duyên khởi).
Người tu niệm Phật được vãng sinh Tịnh độ, đã được vãng sinh thì từ hoa sen mà hóa sinh. Khi còn nằm trong hoa sen, những dư nghiệp sẽ hoàn toàn đoạn tận, hoa nở liền thấy Phật ngộ vô sinh pháp nhẫn, toàn thân pháp tính hiện tiền, được thọ thân nam, thọ mạng bằng hư không, không có sinh, già, bệnh, khổ. Tại thế giới Tịnh độ, nếu hành giả tu tập một đời tinh tấn, đời sau được quả nhất sinh bổ xứ, tức là được chuẩn bị bổ nhiệm thành Phật. Do đó chỉ có niệm Phật vãng sinh, mới có thể ra khỏi tam giới, điều đó chứng tỏ pháp môn Tịnh độ có lợi ích rất lớn, không có pháp môn nào sánh bằng.
Tam giới là chỉ cho ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. 1. Dục giới: Dục là chỉ cho sự ham muốn. Chúng sinh ở cõi này chỉ thuần ham muốn về thực phẩm, ước muốn vật chất và dục vọng thể xác. Nói chung ở cõi này dục vọng rất thịnh hành. 2. Sắc giới: Cõi này không có sự ham muốn như cõi dục, nhưng hình tướng vật chất, thân thể, cung điện ở cõi này rất vi diệu và thù thắng. Các vị trời ở cõi này chỉ thuần sống trong thiền định, không có tướng nam nữ như cõi Dục giới. 3. Vô sắc giới: Cõi này hoàn toàn không còn sắc chất, hình thù mà chỉ có thuần các nghiệp thức trú trong thiền định thâm diệu. A lại da thức tuy đã hàng phục ở trong thiền định, thế nhưng những hạt giống nghiệp thức vẫn còn tồn tại. Tam giới có tất cả 28 cõi trời. Từng trời cao nhất có tên gọi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Người tu thiền đạt được định Phi tưởng phi phi tưởng sẽ sống ở cõi trời đó. Tuổi thọ ở cõi này là tám vạn kiếp, có thể nói là khá thọ. Tuy nhiên, có tuổi thọ tám vạn kiếp như vậy, song, đến khi tuổi thọ hết cũng tùy theo nghiệp lực của tâm thức mà bị rơi lại trong luân hồi, so với thế giới Tịnh độ khác nhau rất xa. Phàm là người tu theo đạo tiên nếu được lên cõi trời, nghiệp thức cũng chưa hết, đến khi hưởng hết phước cũng trở lại trong luân hồi, trôi lăn trong lục đạo, tất cả đều không cứu cánh.
Kinh Pháp Hoa phẩm “Thí Dụ”, quyển thứ tư, có nói rằng: “Tam giới không an, giống như nhà lửa, chúng sinh khổ đầy dẫy, thường có sinh, già bệnh, chết, ưu não, giống như ngọn lửa bừng cháy, không có lúc dừng”. Do đó nhà Phật lấy pháp thanh tịnh dạy đạo cho chúng sinh, nhằm mục đích giúp chúng sinh thoát tam giới, xa lìa khỏi lục đạo luân hồi, thoát ly sinh tử. Pháp môn Tịnh độ, tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật vãng sinh là con đường vắn tắt giúp chúng sinh được thoát ly tam giới, là pháp môn tối viên mãn nhất.
B. THỰC TIỄN
Ấn Quang Đại Sư có nói: “Pháp môn niệm Phật là pháp bối trần hiệp giác, phản bổn quy nguyên, là diệu pháp tối thực tiễn”.
1. Thực tiễn là có tín, nguyện và hạnh. Người niệm Phật chỉ nương vào ba món tư lương đó, không nên tu thêm bất kỳ pháp môn nào nữa.
2. Người niệm Phật nên có tín, nguyện, quyết tâm xả ly thân thể và cõi Ta Bà đầy ô trược, nguyện vãng sinh Tịnh độ thành Phật độ chúng sinh cùng thoát ly biển khổ sinh tử.
3. Người niệm Phật cần phải nghiêm trì ngũ giới, trì trai mà niệm Phật.
4. Ngũ vị tân không được dùng, là người Phật tử đã thừa biết điều ấy, lại không được hút thuốc vì khi hút, làm cho thân khẩu trở nên hôi hám, không thích hợp với việc niệm Phật thanh tịnh.
5. Người niệm Phật phải giữ giới dâm, thường quán thân bất tịnh. Trong “Thập Nghi Luận” của Đại sư Trí Giả có nói rõ điều đó.
6. Nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác của giới vọng ngôn cũng nên tuân giữ.
7. Bình thường tất cả các loại rượu không được uống, không được mua bán rượu, ngay cả rượu thuốc cũng không nên uống.
8. Khi xem kinh, đọc sách không được nằm.
9. Nếu nhà cửa quá chật hẹp không thể đặt bàn thờ để lễ bái, nên hướng về phía Tây mà lễ lạy. Phàm khi tôn trí bàn thờ Phật, nên đặt giữa nhà, không nên đặt những nơi ẩm thấp, thiếu ánh sáng, hoặc nơi để tạp vật. Trong phòng ngủ không được tôn thờ hình ảnh Phật, Bồ tát, tượng ảnh để thờ, nên lấy Tam Thánh, hoặc Phật Bổn Sư, ngoài ra không được thờ các hình tượng tạp nhạp khác.
10. Người sơ cơ niệm Phật, nên đọc ba kinh Tịnh độ (Kinh Di Đà, Quán Vô Lượng Thọ Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh). Có thể tham khảo thêm các loại sách luận liên quan Tịnh độ, như: “Văn Sao tập” của Ấn Quang Đại sư, sách “Tịnh Độ Thánh Hiền”, “Tịnh Độ Thập Nghi”... tiến thêm một bước có thể đọc thêm các Kinh Lăng Nghiêm, chương “Đại Thế Chí Bồ tát Niệm Phật Viên Thông”, “Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm”. Ngoài ra, dù có nghe ai nói kinh này hay, chú kia tốt cũng không bỏ pháp niệm Phật mà tin theo tà kiến. Ngoại trừ các kinh chú do chính kim khẩu Phật nói.
11. Người niệm Phật nếu công việc quá bận rộn, nên áp dụng phương pháp thập niệm. Phải định cho mình thời khóa tu tập rõ ràng, ngoài ra trong các oai nghi nên tùy duyên mà niệm Phật, nhớ lúc nào nên phát khởi niệm lúc đó. Dù sao có tâm chí thành, nhớ Phật, niệm Phật, cầu vãng sinh vẫn tốt hơn những người không có niệm. Đối với người nhàn rỗi, có thể tăng cường thời khóa, trong các oai nghi, nên luôn dụng công niệm Phật, mặc niệm cho nối tiếp nhau không để gián đoạn.
12. Người niệm Phật, bình thường có làm được phước điền gì nên thành tâm hồi hướng vãng sinh Tây phương. Không nên cầu hưởng phước báo nhân thiên mà chướng ngại cho việc vãng sinh.
13. Người niệm Phật có Phật gia hộ, đó là một thuận duyên rất lớn. Thế nhưng do nghiệp lực quá nặng, trong quá trình dụng công niệm Phật tâm khó chuyên nhất, hành giả nên chí tâm sám hối, tu tập thêm các phước lành như: Bố thí, cúng dường, phóng sinh, ấn tống kinh sách thì nghiệp lực có thể tiêu trừ đôi phần, công phu niệm Phật có thể được chuyên nhất hơn.
14. Người niệm Phật trong khi niệm, nên suy tưởng như mình đang lâm chung, chuẩn bị đọa địa ngục, thì tâm không khẩn thiết, cũng trở nên khẩn thiết (lời Vĩnh Gia Đại sư).
15. Người niệm Phật không nên chuyên chú sự tướng bên ngoài (tức là chuyên lo chưng diện bề ngoài, mua danh, cầu lợi) mà còn phải lo việc dứt trừ các sự tướng trong nội tâm (Ấn Quang Đại sư).
16. Khi niệm Phật nếu như thường xuyên lâm vào cảnh hôn trầm, buồn ngủ, đó không phải là do sức yếu, mà chính là do nghiệp chướng khiến xui ngăn cản, nên khẩn thiết chí thành mà niệm Phật. Nếu niệm không ra câu, ra tiếng được thì phải thường nhớ tưởng đến Phật. Khi nào thấy có thể niệm được nên ứng thanh mà niệm (niệm ra tiếng). Như thế lâu ngày, nghiệp sẽ tiêu trừ (Ấn Quang Đại sư).
17. Người niệm Phật phải giữ sao cho “tâm niệm” cùng với “hành vi” luôn luôn thuận hòa, hiền hậu mới có thể thành tựu được công đức, phước lành. Nếu chẳng như thế, mà lại còn kiêm tu thêm gian xảo, thâm hiểm, ác độc... thì cũng như chót núi đá trơ vơ, mưa bao nhiêu cũng không có đọng lại chút nước nào, mà cây cỏ cũng không sao sinh trưởng lên nổi (Ấn Quang Đại sư).
18. Người niệm Phật phải có tin sâu, nguyện phải cho thiết tha. Mỗi ngày ít nhất tự tâm phát nguyện vãng sinh ba lần, phải tha thiết có tâm cầu liễu sinh thoát tử, có như thế mới thành tựu việc vãng sinh Tịnh độ.
TỪ PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ NÓI ĐẾN
ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA
Trương Tuệ Minh
Phật pháp là pháp pháp bình đẳng, hoàn toàn không có cao thấp, tu tập bất kỳ pháp môn Phật pháp nào, cũng có công đức và cũng có thể thành Phật. Phật pháp vốn không phân biệt Tiểu thừa và Đại thừa. Phật dạy vô lượng pháp môn, chẳng qua là tùy bệnh mà cho thuốc. Vì chúng sinh nghiệp lực không giống nhau, tâm lượng lại có lớn nhỏ, Phật phương tiện dẫn đạo chúng sinh nên nói Tiểu thừa và Đại thừa. Tất cả các pháp, vốn là không hai, không khác, đồng về một thật tướng.
Trong các pháp môn, chỉ có pháp môn Tịnh độ là đầy đủ phương tiện nhiếp độ tất cả các căn chúng sinh, thượng, trung, hạ. Từ kẻ ngu dốt cho đến người trí, trên các bậc Thánh nhân, dưới cho đến phàm phu nếu người nào có tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên, phát nguyện vãng sinh, đều có thể thành tựu. Vì pháp môn Tịnh độ lấy bốn chữ “A Di Đà Phật” làm cương yếu tu trì, phương pháp đơn giản, dễ thực hành, lại thực tiễn, đầy lý nghĩa thâm sâu. Vì thế từ xưa đến nay, các bậc Thánh nhân thường nói: “Một câu A Di Đà Phật là vua các pháp”.
Pháp môn Tịnh độ đã thù thắng như vậy rồi, tại sao Như Lai lại sáng lập thêm tám vạn bốn nghìn pháp môn nữa làm gì? Vì Như Lai thấy được căn cơ chúng sinh phần lớn đều không giống nhau, nhân duyên lại thiên sai vạn biệt. Nếu như không phương tiện tạo nên nhiều pháp môn thì không thể nào độ hết tất cả chúng sinh được. Chẳng qua các pháp môn khác cũng từ pháp môn Tịnh độ mà lưu xuất, tu các pháp môn khác chung quy cũng trở về pháp môn Tịnh độ. Người tu pháp môn Tịnh độ nếu đạt đến tu trì cao thì không có pháp môn nào mà không đắc.
Phật nói Tịnh độ ở phương Tây, chúng ta có tin hay không là một vấn đề, cũng không chấp trước làm gì, chẳng qua đó chỉ là một thí dụ, vì mặt trời vốn mọc phương Đông và lặn ở phương Tây. Phật lấy phương Tây làm thí dụ để cho chúng sinh quy túc về đó. Thật ra, thế giới Tịnh độ không chỉ có giới hạn ở phương Tây mà bao trùm khắp cả hư không pháp giới. Như vậy, các vị trí Đông Tây có cố định hay không? Chẳng qua chúng sinh căn cơ có lợi độn. Đối với người có căn tính chậm chạp, tâm lượng nhỏ hẹp, không thông hiểu tự tâm, chỉ tham cầu Phật ở bên ngoài, Đức Phật phương tiện, tùy bệnh mà cho thuốc, nên chỉ cho họ thế giới Tịnh độ ở phương Tây. Đối với người có căn tính lanh lợi, tâm lượng rộng lớn, Phật dạy thế giới Tịnh độ ở tự tâm, tâm tịnh thì Phật độ tịnh, tâm nhiễm thế giới Tịnh độ cũng trở thành ô trược. Do đó, có thể thấy được Tịnh độ Tây phương cũng do tâm mà sở hiện. Nếu tự tâm chúng ta không thanh tịnh thì thế giới Tịnh độ cách xa mười cõi ức Phật, ngược lại tâm thanh tịnh, thì thế giới Tịnh độ chỉ trong một niệm, một khảy móng tay. Thế nhưng, luận về việc vãng sinh thì ngày nay đa số người được vãng sinh là ông già bà cả, những người có căn tính thấp kém, trong khi đó ít thấy người trí thức hay học giả vãng sinh là phát xuất từ nguyên nhân nào? Vì các bậc học giả trí thức phần lớn bị mắc vào sở tri chướng, họ chấp lý mà quên sự, cứ cho Phật tại tâm, tâm thanh tịnh thì Phật độ tịnh, từ đó bỏ quên sự, rồi không thực hành. Vì vậy, các bậc Tổ sư sợ chúng ta bỏ lý mà quên sự, cho nên có nói: “Lý tuy đốn ngộ, nhưng sự phải lần lượt tu hành” là vậy. Người tu Tịnh độ phải có lý sự viên thông, không được chấp lý mà quên sự.
Như vậy tóm lại, thế giới Tịnh độ cứu cánh là có thật hay không? Xin thưa! Như chúng ta hiện nay đang ở thế giới Ta Bà, đều nhận thức thế giới này là thế giới đầy ô trược là có thật, thì thế giới Tịnh độ bằng bảy báu trang nghiêm cũng chính xác là có thật. Điều đó đã được Phật nói trong các kinh Tịnh độ như Quán Vô Lượng Thọ Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh và Kinh Di Đà, ngoài ra các kinh Đại thừa, cũng như lịch đại Tổ sư cũng đều tán thán và khuyên răn chúng sinh nên về thế giới đó mà tu hành. Chư Tổ, nhất là chư Phật và chư đại Bồ tát không lẽ lại nói dối chúng ta, do đó đối với thế giới Tịnh độ chúng ta phải nên tin sâu, không nên có nghi ngờ gì hết. Người tu Tịnh độ có bốn phương pháp thực hành là: 1. Trì danh niệm Phật. 2. Quán tượng niệm Phật. 3. Quán tưởng niệm Phật. 4. Thật tướng niệm Phật. Trong bốn phương pháp đó thì Trì danh niệm Phật là thịnh hành hơn cả. Vì người tu trì danh niệm Phật, nếu đạt được đến nhất tâm bất loạn thì nghìn người tu, nghìn người được vãng sinh. Do đó, hành giả đang tu Trì danh niệm Phật nên có tin sâu, nguyện thiết, niệm cho đến ngày lâm chung, nếu giữ cho tâm không tạp loạn mà chỉ có thuần một niệm niệm Phật thanh tịnh, liền có cảm ứng Phật A Di Đà hiện ra tiếp dẫn vãng sinh Tịnh độ. Điều đó hoàn toàn có thật không có chi mà nghi ngại. Bình thường có một hạng người, tuy không biết đạo niệm Phật, thế nhưng đến phút lâm chung, gặp được thiện hữu tri thức khai thị, do túc nghiệp thiện căn nhiều đời gieo hạt giống niệm Phật, nên phát khởi tâm tha thiết niệm Phật cũng được vãng sinh.
Người vãng sinh Tây phương còn gọi là đới nghiệp vãng sinh. Vì sao? Vì một khi chúng ta khởi tâm động niệm đã là tạo nghiệp rồi. Song, người vãng sinh Tây phương đến lúc lâm chung, các tư tưởng thiện ác hiện đời cũng như quá khứ chưa khởi hiện hành, mà chỉ có thuần một niệm thanh tịnh là niệm Phật, mà một niệm thanh tịnh cũng gọi là nghiệp, vì thế tu Tịnh độ còn được gọi tu tịnh nghiệp, hay người vãng sinh Tây phương còn gọi là đới nghiệp vãng sinh là vậy.
Người muốn đới nghiệp vãng sinh, cần phải gia công tu hành. Nếu như bình thường miệng niệm Phật, mà tâm nhớ nghĩ chuyện thế gian thì đến lúc lâm chung nói đến việc vãng sinh thật khó. Vì sao? Vì đến lúc lâm chung, một mặt do tâm niệm Phật hằng ngày không tha thiết, mặt khác bị bệnh khổ nghiệp chướng hiện hành, thì biết dựa vào đâu mà phát khởi tâm niệm Phật. Đó cũng chính là phần giải đáp cho câu hỏi tại sao người niệm Phật nhiều mà chỉ có số ít được vãng sinh.
Phương pháp Quán tưởng và Quán tượng niệm Phật chỉ là phương tiện giúp hành giả thu nhiếp vọng tâm chứ không có cứu cánh. Vì sao? Kinh Kim Cang có nói: “Phàm những vật có hình tướng tất cả đều hư vọng”, nghĩa là bất kỳ sự việc gì đã có hình tướng hoàn toàn đều là hư vọng, do đó Quán tưởng hay Quán tượng đều nằm trong phạm vi hư vọng, vì vậy không được gọi là cứu cánh. Chỉ có ngộ đến “vô sinh” mới được coi là chứng được thật tướng; chứng được thật tướng mới được xem là cứu cánh. Thật tướng là đối với tướng hư vọng mà giả lập, thật tướng vốn là vô tướng, đã là vô tướng thì có thể quán và tưởng được không?
Vì vậy, chỉ có Thật tướng niệm Phật là không có dính mắc vào tướng Phật cũng như tướng niệm, đạt đến chỗ niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, đó là niệm Phật tam muội. Khi niệm đạt đến trình độ “năng” là người niệm Phật, “sở” là câu niệm Phật không hai, thì thật tướng hiện tiền. Không cần phải chờ đến phút lâm chung nhờ Phật tiếp dẫn nữa mà hiện đời đã thân hành chứng Bồ đề vô tướng, đó mới là cứu cánh tối thượng.
Căn cứ những điều đã nói chúng ta thấy được rằng, tuy cũng đồng là một pháp môn Tịnh độ thế nhưng cũng có phân chia thành Đại thừa và Tiểu thừa. Người niệm Phật mà chỉ cầu vãng sinh là Tiểu thừa, Thật tướng niệm Phật là Đại thừa. Phương pháp niệm Phật thì pháp nào vốn cũng rất tốt, chẳng qua một bên cầu vãng sinh Tây phương là thuộc về hữu tướng, hữu tướng thì có chỗ trụ, mà còn chỗ trụ là đã có giới hạn, có giới hạn nên gọi là Tiểu thừa. Còn Thật tướng niệm Phật, niệm đến trình độ toàn thể chân tâm hiển lộ, liền chứng được thật tướng. Thật tướng thì không có hình tướng, không có hình tướng thì không có giới hạn, cho nên gọi là Đại thừa. Hơn nữa, người tu được đới nghiệp vãng sinh, luôn luôn phải trở lại Ta Bà hành Bồ tát đạo. Trong khi đó người đạt được Thật tướng niệm Phật, niệm Phật là Phật, thân là thân Phật, hiện đời có thể độ sinh, điều đó rất thù thắng.
Thế nhưng, chỉ vì cảnh giới Thật tướng niệm Phật quá cao, nên không có người nào có thể thực hành được. Vì hiện đời phần lớn chúng ta đều có căn cơ thấp kém, nên không thể tương ưng được với phương pháp Thật tướng niệm Phật. Chúng ta có thể đọc Kinh Kim Cang nhiều lần, vì đây là một bộ kinh thuộc về thật tướng Bát Nhã. Đọc nó cũng có lợi, trước tiên gieo chủng tử Bát Nhã vào tâm thức, tiến cao hơn có thể ngộ được Thật tướng niệm Phật, hoặc được kiến tính. Không thì trong ba pháp: Trì danh, quán tượng, quán tưởng, chọn lấy một pháp thích hợp rồi gia công tu hành, đắc được nhất tâm bất loạn cũng có thể vãng sinh. Tóm lại, không luận là hạng người nào, nếu có thể tin sâu, nguyện thiết niệm một câu “A Di Đà Phật” là đã có thể gieo được thiện căn, công đức đã vô lượng rồi. Điều thiết yếu là chúng ta phải bỏ đi tất cả những tâm hơn thua, ích kỷ, ngã mạn, cống cao... vì đó chính là những chướng ngại rất lớn cho việc vãng sinh, nếu người tu hành mà không trừ diệt những thứ đó thì không có một pháp nào mà đắc được, lại thêm hoang phí thời gian và sức lực tu hành.
Chỗ cứu cánh của việc học Phật là chuyển hóa tâm thành thanh tịnh. Tất cả pháp môn đều có thể làm cho tâm hành giả tu hành trở nên thanh tịnh. Vì thế có nói “Pháp môn tuy vô lượng, nhưng chỗ cứu cánh không hai” là ý vậy. Pháp môn Tịnh độ thống nhiếp tất cả các pháp môn, tất cả các pháp môn cũng thống nhiếp pháp môn Tịnh độ. Thí như, Thiền tông trọng ở minh tâm, học giả Thiền tông thường nói, tu hành Phật pháp nếu tự tâm không thông, thì không thể thành tựu một pháp gì, vì ngoài tâm không có một pháp nào có thể đắc. Đối với pháp môn Tịnh độ, tu pháp trì danh, nếu có thể trì đến nhất tâm bất loạn thì cảnh giới nhất tâm đó không phải là thiền chứ là cảnh giới gì? Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật có nói: “Tâm làm Phật thì tâm là Phật”, đó chính là thiền chứ cái gì? Lại nữa, tu Thật tướng niệm Phật, nếu đạt đến tam muội hiền tiền liền nhập vào chánh định. Nhập vào chánh định là cảnh giới thiền, ngoài ra không có cảnh giới nào khác. Vì thế, trong Kinh Đại Tập có nói: “Nếu người nào niệm Phật thì người đó được gọi là tu thiền vô thượng thậm thâm vi diệu”. Đã nói là niệm Phật, tại sao lại còn nói tu thiền? Qua đó, cho chúng ta thấy được niệm Phật chính là thiền vậy.
Tịnh độ và Mật tông cũng không sai biệt, bốn chữ “A Di Đà Phật” chính là tổng trì tất cả các kinh điển, mà tổng trì cũng là ý nghĩa của mật chú. Niệm Phật mà không tác ý và mong muốn thành Phật thì chính là mật chú. Bốn phương pháp niệm Phật của Tịnh độ và sơ quán tưởng trì chú của Mật tông hoàn toàn giống nhau. Chẳng qua tu Tịnh độ, trong bốn phương pháp niệm Phật, chọn lấy một pháp rồi chuyên tu, trong khi đó tu mật phải theo thứ lớp mà tiệm nhập. Chỉ có điểm khác nhau như vậy.
Do đó có thể thấy được, Thiền chính là Tịnh, Tịnh chính là Mật, một là tất cả, tất cả là một. Tại sao lại có phân biệt đại tiểu? Chỉ vì hàng hậu học chúng ta, chỉ nghiên cứu một pháp, đối với các pháp còn lại không thông, từ đó cho pháp mình là lớn, là Đại thừa, có ai chấp trước cũng sẵn sàng tranh biện. Do chấp trước sự tướng nên tư tưởng bị sự tướng trói buộc. Thật ra chỗ cứu cánh của Phật pháp không đại, tiểu mà tất cả các pháp môn chung cuộc đều quy về một thừa. Niệm Phật đạt đến tam muội hiện tiền, tu Thiền đạt được minh tâm kiến tính, tu Mật đạt đến tam mật nhất như, tất cả không ngoài mục đích chuyển hóa tâm thức trở thành thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì thành Phật có gì là khác nhau.
Pháp môn tu học của Phật giáo tuy nhiều, thế nhưng trì giới được xem là quan trọng nhất. Giới có nhiều loại khác nhau, nhưng cũng không ngoài hai loại giới: Giới tâm và giới thân. Thân là không vọng động, tâm là không vọng tưởng. Không luận là Đại thừa hay Tiểu thừa, nếu có trì giới thì được xem là Phật pháp, không trì giới thì không phải là tu theo Phật pháp. Đại thừa hay Tiểu thừa phải xem trọng giới luật, có khác nhau ở chỗ xem trọng giới này hay giới nọ. Tu Đại thừa, thường thường vì hằng thuận theo chúng sinh, tùy duyên làm lợi ích cho tha nhân, tự lợi lợi tha, cho nên trọng ở giới tâm. Tu theo Tiểu thừa, vì phải giữ gìn gia nghiệp Như Lai, trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi, cần phải giữ gìn thanh tịnh trang nghiêm để cho người đời kính trọng Phật pháp, vì thế coi trọng ở giới thân. Bất luận là Tiểu thừa hay Đại thừa, ngũ giới vẫn là giới điều căn bản. Bất kỳ một loại giới luật nào, chỉ cần chúng ta tha thiết trì giữ, không những có công đức rất lớn mà còn tạo nên niềm tin, dẫn người khác vào đạo. Bằng ngược lại, đã thọ giới mà không giữ gìn, chẳng những mang tội mà còn tạo cơ hội cho ngoại đạo phỉ báng Phật pháp, đồng thời làm mất chánh kiến đối với những người sơ học. Qua đó chúng ta thấy được rằng, nếu có trì giới thì Tiểu thừa cũng tốt, Đại thừa cũng tốt, mục đích cứu cánh đều đưa đến thành Phật. Nếu không trì giữ giới luật, dù tu Tiểu thừa hay Đại thừa, chẳng những không thành tựu được gì, mà lại còn bị đọa lạc nữa là khác.
Giới Đại thừa không trụ ở tướng, giới Tiểu thừa thì trụ ở tướng. Trụ tướng thì dễ thấy, dễ phát hiện, không trụ tướng thì khó thấy khó biết, người khác không thể nhìn thấy được, do đó phải giữ gìn, so với giới tướng thì khó giữ hơn nhiều.
Đứng trên mặt giới tướng và giới tính, tuy có phân biệt khó dễ như thế, thế nhưng công đức trì giới cả hai hoàn toàn giống nhau, do đó chúng ta phải tự mình giữ giới không nên nói lỗi của người. Trong Kinh Duy Ma Cật có nói: “Tự mình nên giữ giới, đừng nên chê trách lỗi người”, có như thế mới thích hợp với tông chỉ của Phật pháp. Có rất nhiều người, do không thông hiểu lý sự, tự mình đặt ra rồi phân biệt môn này môn khác, hủy báng người này chê bai người kia, thật đáng tiếc vô cùng. Cụ thể lấy giới đoạn dâm, giới này là giới trọng căn bản của người học Phật. Theo Tiểu thừa là đoạn dâm, vì đó là cội gốc liễu sinh thoát tử. Thế nhưng đối với Đại thừa Bồ tát, tâm không trụ tướng, tâm không lìa tướng, Bồ tát tại gia chỉ đoạn tà dâm, không đoạn chánh dâm. Tại sao? Vì Bồ tát tùy căn cơ mà thị hiện, hòa mình vào thế tục, để giáo dục chúng sinh, nên nhất thời phải đồng sự, có hành dâm. Tuy nhiên, họ hành động với tâm vô nhiễm, không có tâm tham ái như chúng sinh. Bồ tát thị hiện nhiều thuận cảnh, nghịch cảnh khác nhau, phàm phu chúng sinh không thể đo được. Trong Kinh Viên Giác, Bồ tát Di Lặc hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Những hàng Bồ tát muốn vào trần lao, phải dùng những phương tiện nào?”. Phật đáp: “Bồ tát phải dùng tâm đại bi, thị hiện thuận cảnh, nghịch cảnh, đồng sự làm phương tiện nhập thế”. Bồ tát Phổ Giác lại hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn, chúng sinh đời mạt pháp nên cầu những người nào, nên y theo pháp gì để không rơi vào tà kiến?”. Phật đáp: “Chúng sinh phải cầu tất cả người có chánh tri kiến, tâm không trụ tướng, chẳng chấp vào cảnh Thanh văn, Duyên giác, tuy hiện trong trần lao mà tâm hằng thanh tịnh, dù có thị hiện những lỗi lầm mà vẫn tán thán hạnh thanh tịnh...”. Phật còn nói: “Bồ tát tuy thị hiện các thứ tội lỗi mà tâm không kiêu mạn, huống nữa là tài sản vợ con quyến thuộc”. Qua đó chúng ta thấy, tu theo pháp Đại thừa là không trụ tướng, tuy Bồ tát thị hiện các hành động bất chính tà vạy, thuận cảnh, nghịch cảnh, thế nhưng tâm vẫn thanh tịnh vô sự, không đắm trước chấp thủ, nhiễm ô như chúng sinh. Nếu người tâm không thanh tịnh, mạo miệng xưng ta đây là Đại thừa, không trụ tướng, rồi hành động các nghịch cảnh Bồ tát, thì người này không tránh được A Tỳ địa ngục, vì luật nhân quả vốn không sai khác. Vì thế, đã là người học Phật, chúng ta phải luôn luôn có chánh tri kiến, phải luôn luôn nhận thức đâu là tà, đâu là chánh, pháp nào phù hợp hay không phù hợp với mình, không nên chê bai phỉ báng pháp môn này hay pháp môn kia dở. Có như thế mới không đắc tội với chư Phật, chư Tổ, phù hợp với tông chỉ của người học Phật.
Phật pháp chú trọng ở chỗ giải ngộ, song thực chứng vẫn quan trọng hơn hết. Cho nên, Lục Tổ có nói: “Thấy nghe tụng đọc là Tiểu thừa”, vì tụng đọc, chỉ là học rộng nghe nhiều, chỉ tăng thêm phần tri kiến, đối cảnh tâm vẫn khởi niệm, tâm còn vọng động, cho nên gọi là Tiểu thừa. “Ngộ pháp liễu nghĩa là trung thừa”, vì Phật pháp vốn có ý nghĩa thậm thâm, cho nên hiểu được ý nghĩa đã có công đức, thế nhưng tuy có hiểu, mà không tu hành thì sự hiểu biết vẫn không đạt đến hiện thực, cho nên gọi là trung thừa. “Y Phật pháp tu hành là Đại thừa”, vì Phật pháp, Pháp pháp vốn bình đẳng, vốn không có đại, tiểu. Tất cả các pháp môn đều lấy tu hành làm căn bản. Nếu có thể y theo Phật pháp tu hành từ đầu chí cuối thì có thể thành tựu đạo quả, cho nên gọi là Đại thừa. “Muôn pháp trọn thông, muôn pháp đầy đủ, tất cả không nhiễm, ly các pháp tướng, một cũng không có, gọi là tối thượng thừa”. Nếu có thể ngộ được thật tướng vốn là vô tướng, thông đạt tất cả các Pháp, không lìa các Pháp, ở trong các Pháp mà không bị các Pháp làm ô nhiễm, chuyển đổi, không có sở cầu cũng không có sở đắc, lìa ngôn thuyết gọi là tối thượng thừa. Qua bốn thừa mà Lục Tổ đã trình bày ở trên thì hai thừa đầu không có thực hành, không có thân chứng, cho nên đối với cảnh giới hiện thực và thực tiễn của Phật pháp không có kinh nghiệm. Vì vậy, y theo Phật pháp tu hành là điều căn bản của người học Phật, giả như có hiểu biết Phật pháp mà không thực hành, hoặc thực hành mà không y theo Phật pháp, thì có hiệu quả gì.
Đã là người học Phật, không luận là theo tông phái nào đều được gọi là đệ tử Phật. Thế nhưng, có người tự mình đã không y theo Phật pháp tu hành, lại còn phân biệt đại tiểu. Hiện tại chánh pháp suy vi như thế, cũng là do hạng người này. Đã là đệ tử Phật, chúng ta phải trừ khử hạng người này ra khỏi Giáo hội, nhằm mục đích Phật pháp xương minh. Chúng ta phải luôn y theo Pháp và giới luật mà tu hành, không luận là tâm giới hay thân giới, chỉ cần chúng ta trì giữ là chánh đạo, không trì giữ không phải là chánh đạo. Lục Tổ có nói: “Muốn được thấy đạo chân chính, phải hành đạo chân chính”, hành đạo chân chính là phải xuất phát từ tâm chân chính. Đối với hay hoặc dở cũng không nên phân biệt, vì các pháp vốn bình đẳng. Đối với người cũng không nên hủy báng, với chính mình cũng không được ca ngợi. Ngay thời Phật còn tại thế, Phật còn bị người hủy báng, huống hồ gì là hàng phàm phu chúng ta. Hơn nữa, bị người hủy báng chính là cơ hội cho chúng ta tiêu nghiệp, không lợi cũng không có hại gì. Nên xem những lời hủy báng đó như pháp vị cam lồ, đón nhận nó một cách vui vẻ, không nên có tâm sân hận. Chúng ta tu pháp môn tâm địa, lấy lợi tha, vô ngã làm tâm niệm, cần gì phải chú ý đến việc khen chê của người khác.
Tóm lại, có thể thấy được rằng, người được gọi là Đại thừa, người đó phải có tâm nguyện lớn, trí tuệ lớn, hạnh nguyện lớn, công đức lớn, không chấp tướng. Bằng ngược lại, tâm lượng nhỏ hẹp, hạnh nguyện nhỏ, trí tuệ nhỏ, lại hoan hỷ chấp trước sự tướng, tuy tu Đại thừa cũng trở thành Tiểu thừa.
BẢY NGÀY KHAI THỊ PHẬT THẤT
Hòa thượng Diệu Liên
NGÀY THỨ NHẤT
Núi non đêm ngày thanh tỉnh,
Danh hiệu Phật rửa sạch trần tâm.
1.- Trời cao không phụ công lao người khổ nhọc
Chư vị về chùa Linh Nham tu Phật thất, ngày nay chỉ là ngày đầu tiên của khóa tu. Chư vị biết niệm Phật rất tốt, song trong khi niệm Phật cần phải giữ nhịp độ ổn định, không nên niệm cao quá, sẽ tổn hao thần lực, cũng không nên niệm nhỏ quá, sẽ bị hôn trầm. Nhịp độ niệm phải vừa phải, không nhanh cũng không chậm. Vì thời gian chúng ta còn dài, chúng ta niệm Phật làm sao phải như dòng suối tuôn chảy, êm đềm mà không gián đoạn. Có như thế thân tâm mới an tịnh, nghiệp chướng mới tiêu trừ, phước đức mới tăng trưởng. Nếu có thể niệm niệm không gián đoạn thì đạo nghiệp nhất định sẽ mau thành tựu.
Cách dụng công niệm Phật phải như thế nào? Chúng ta phải có thời gian, công phu tu tập phải trường kỳ khổ nhọc mới có thể thành tựu, cho nên tục ngữ có câu: “Trời cao không phụ người khổ nhọc” ý là thế. Đây là ngày khởi điểm của khóa tu, chư vị phải dụng công cho tốt, có như thế những ngày còn lại mới có kết quả. Điều đáng sợ nhất của người tu niệm Phật là không có tâm thành kính.
2.- Trong cung kính ngoài mới chí thành
Phật pháp có thành tựu hay không cũng ở tâm chí thành, cho nên người xưa có nói: “Trong cung kính, ngoài mới chí thành”. Nội tâm nếu có thành kính sẽ biểu hiện ra bên ngoài sự cung kính. Hiện tại, chư vị đang chắp tay nghe khai thị, hành động chắp tay là hành động biểu hiện cho sự cung kính của nội tâm. Nếu chư vị có tâm thành kính, không bảo chư vị chắp tay, chư vị cũng tự nhiên chắp tay, không bảo chư vị quỳ, chư vị cũng tự quỳ. Chắp tay là hành động thể hiện cho sự cung kính. Nếu chư vị thấy chắp tay là việc khó nhọc thì tạm thời có thể bỏ xuống. Hiện tại, chúng tôi nghiêm khắc bắt chư vị chắp tay, là muốn cho chư vị có hành động cung kính. Hành động chỉ là biểu hiện của thân, chẳng những thân cung kính, mà miệng phải niệm niệm rõ ràng, tai nghe rõ ràng, tâm cũng thấu suốt rõ ràng, tâm miệng nhất như. Nếu chư vị mặc niệm, tuy miệng không niệm, tâm phải luôn luôn niệm, tai cũng nghe rõ ràng. Tai và tâm nhất như, niệm Phật một thời gian dài, thân tâm sẽ an nhiên, lúc đó chư vị sẽ không còn thấy chắp tay là việc khổ nhọc nữa.
Chắp tay chỉ là phương tiện, song trong khi ngồi công phu, nhất định mọi người cần phải ngồi xếp bằng, tối thiểu nhất là phải ngồi được bán già, vì sao? Vì chân không chịu đau được thì thời gian công phu sẽ ít, dẫn đến công phu tâm lực không tương ưng, tâm khó an định. Vì thế, chư vị phải nhẫn nhịn chịu đau một thời gian thì công phu mới có thể tiến bộ vào sâu được, sự nhẫn nhịn đó cũng phải xuất phát từ tâm thành kính. Vạn sự khởi đầu nan. Ban đầu chư vị thấy khó chịu nhưng dần dần sẽ quen thôi, chúng ta có ý chí quyết tâm hay không đó mới là quan trọng.
3.- Người học đạo như kẻ chèo thuyền ngược nước
Người tu đạo thuận duyên không có, thế nhưng chướng duyên lại nhiều. Đơn giản nói về thân thể thôi, nếu không được khỏe một tí, công phu tu hành đã bỏ bê, ngồi thiền một chút đã không chịu được, hà huống là làm công việc gì lớn, đó là do nghiệp chướng của chúng ta từ vô thỉ đến nay. Nghiệp chướng thì dày trong khi thiện căn lại mỏng. Chúng ta đã tạo tác nghiệp chướng rất nhiều. Song, người có thiện căn, tuy biết dụng công tu hành là khổ nhọc, biết nghiệp chướng tuy nặng, thế nhưng họ lại không sợ chướng ngại mà lại còn phát tâm tu hành, để tiêu trừ nghiệp chướng, hạng người này rất có hy vọng. Ngược lại, người biết nghiệp chướng của mình đã nặng rồi, thấy tu hành khó khăn, lại nản chí, dù có gặp được thiện duyên đi chăng nữa, cũng khó phát tâm tu hành. Do đó, chúng ta phải xét lại mình là người có thiện căn hay không, phải dùng trí tuệ chiếu soi lại chính mình. Đã biết mình là người có nghiệp dày phước mỏng, nếu không phát tâm tu hành nghiệp chướng khó mà tiêu trừ được, nghiệp chướng không tiêu trừ làm sao dám nói đến việc liễu sinh thoát tử. Chư vị! Cần phải nỗ lực tinh tấn quyết tâm hạ thủ công phu thì không có việc gì khó. Trong thế gian không có việc gì là khó, mà sợ lòng người không có quyết tâm. Cho nên tục ngữ có câu: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.
Giống như học sinh cùng học một bài văn, thế nhưng đứa có trí thông minh, đọc hai, ba lần, thậm chí nghe qua liền thuộc. Còn đứa không thông minh thì phải đọc đi đọc lại ba bốn mươi lần mới có thể thuộc. Người dụng công niệm Phật cũng như thế.
Phật pháp giảng nói ba đời nhân quả. Nếu đời trước chư vị là người nghe pháp nhiều, tu hành nhiều, thiện căn dày, tu hành phước báo nhiều mà đời nay không gặp được Phật pháp, thậm chí sinh ra một xứ sở hoàn toàn không có Phật pháp thì thiện căn của các bạn cũng không bao giờ bị thối chuyển, cũng không tạo tác việc ác. Các bạn chỉ cần nhìn cảnh mùa Xuân trăm hoa đua nở, mùa Thu lá vàng rơi lả tả, thấy được cảnh sinh diệt vô thường của vạn vật, các bạn có thể khai ngộ, hay minh tâm kiến tính liền. Giống như thời Phật còn tại thế, các vị nghe Phật giảng pháp, rồi y theo pháp thập nhị nhân duyên mà ngộ được đạo, gọi là “Duyên giác”. Còn có một số vị sinh ra đời không gặp Phật, không được nghe pháp, thế nhưng họ nhờ vào việc quán sát sự thay đổi vô thường của vạn vật mà ngộ được, gọi là “Độc giác”, những người này có thiện căn không thể nghĩ bàn mới được như thế.
Người có thiện nghiệp dày, ác nghiệp mỏng, tu hành rất thuận lợi. Thế nhưng, chúng ta ở đây toàn là những người có phước mỏng nghiệp dày, cho nên con đường tu của chúng ta như khách lữ hành chèo thuyền ngược nước, nếu chúng ta không vững tay chèo, không có nỗ lực tinh tấn, chắc chắn sẽ bị nước cuốn trôi. Vì thế, cổ đức có nói: “Người tu đạo như người chèo thuyền ngược dòng, không tiến sẽ bị lùi”. Chúng ta phải dụng công hết mình, thậm chí phải dùng hết sức mình họa may mới không bị trôi theo dòng sông sinh tử. Người thế gian, đa phần là buông mình theo dòng sinh tử, nên đối với họ không còn gì phải nói. Chúng ta là người tu đạo, là người đang lội ngược lại dòng sinh tử, cho nên khó khăn rất nhiều, do đó xin chư vị hãy dụng công, vào đây niệm Phật rồi không nên lãng phí thời giờ.
4.- Gia công tinh tấn tiêu nghiệp chướng
Người có phước đức nhân duyên, nếu gia công tu hành tốt, dễ dàng được cảm ứng. Cho nên họ xưng niệm Bồ tát Quán Thế Âm, cầu tài được tài, cầu con được con, cầu tam muội được tam muội, cầu Bát Nhã được Bát Nhã, nói chung cầu chi được nấy. Cho nên nói: “Có cầu ắt sẽ có ứng” là vậy. Song, đối với người không có phước đức dù cầu nguyện bất cứ điều gì cũng không có cảm ứng. Nói như vậy Quan Âm Bồ tát có thiên vị không? Xin thưa là không! Bạn cầu nguyện cũng có cảm ứng. Vậy cảm ứng cái gì? Cảm ứng nghiệp chướng tiêu trừ, một khi nghiệp chướng của bạn tiêu trừ hết rồi, thì bạn cầu gì đều được nấy. Bằng ngược lại, nghiệp chướng chưa tiêu trừ thì dù bạn có cầu nguyện đến đâu cũng không có cảm ứng, một khi nghiệp chướng được tẩy sạch, bạn không cần cầu cũng tự nhiên có cảm ứng.
Những người lần đầu tiên vào đây dụng công tu hành, tâm lý có loạn động, liền nghĩ: “Không hiểu tại sao ở nhà bình thường mình niệm Phật ít thấy có vọng tưởng, tâm lý lại được định tĩnh, thế nhưng vào đây niệm Phật, cứ một khi khởi niệm Phật lại thấy vọng tưởng quá nhiều, tâm lý lại không an, nguyên nhân đó xuất phát từ đâu? Chỉ vì ở nhà niệm Phật không có tập trung, niệm Phật một cách mơ mơ hồ hồ, vọng tưởng suy nghĩ cái này, nhớ nghĩ việc kia, vọng khởi triền miên, lại thêm ngoại cảnh ồn ào, nhộn nhịp nên khó nhận thấy được vọng tưởng. Vào đây thì cảnh núi non yên tĩnh, nương nhờ ánh sáng từ bi của chư Phật, tâm cảnh được sáng suốt, trí tuệ phát sinh, tự nhiên nhận thấy được vọng tưởng tạp niệm nhiều. Chư vị nhờ vào đây mới có cảm nhận như vậy, nếu nói ở nhà niệm Phật tốt hơn, là chư vị không có lương tâm rồi.
5.- Phải cầu diệu pháp xuất thế gian
Như trên vừa nói, người niệm Quan Âm Bồ tát cầu tài được tài, cầu làm thân trai được thân trai, cầu thân gái được thân gái... Như vậy, chúng ta là người học Phật có phải cầu tài không? Xin thưa là có! Nhưng tài ở đây là công đức pháp tài. Lại nữa, có nên cầu thân trai hay thân gái không? Cũng có, nhưng cầu trí tuệ phước đức của người nam, cầu tướng đoan chính của người nữ, thế nhưng quan trọng hơn hết vẫn là cầu pháp xuất thế gian.
Như Phật Đà “ba kỳ tu phước đức, trăm kiếp mới có tướng đoan nghiêm”. Do đó, chúng ta phải có trí tuệ, có phước đức mới có thể độ chúng sinh được. Có trí tuệ, có phước đức, lại phải có tướng tốt; tướng nếu không tốt, mọi người nhìn thấy khó mà khởi tâm cung kính. Như thời Đức Phật còn tại thế, mọi người một khi được nhìn thấy ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm của Ngài, tự nhiên liền sinh tâm cung kính, Ngài rất dễ dàng hóa độ. Cho nên người học Phật cũng có cầu nguyện, nhưng cầu nguyện ở đây phải cầu nguyện thật tướng diệu pháp xuất thế gian, chứ không phải cầu nguyện pháp hư vọng đối đãi của thế gian.
6.- Lìa tướng tu tất cả thiện pháp
Mọi người cần phải chú ý! Tuy nói chúng ta cầu nguyện, song phải cầu như thế nào cho hợp với Phật pháp đây? Phải cầu với nhận thức không có tướng ngã, tướng nhân và tướng chúng sinh. Tuy là không tướng, nhưng phải tu tất cả thiện pháp, nếu ngộ nhận rằng, đã không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, từ đó không chú trọng đến nhân quả, xả bỏ tu sự mà chuyên tu lý thì có hại cho bản thân bạn vô cùng.
Cần phải biết, Phật pháp giảng nói nhân quả sự lý cần phải phối hợp hài hòa. Nếu thiên lệch về lý mà phế bỏ nhân quả, không tu sự tướng nhân quả thì không thể nào đạt được chân lý thực tiễn của Phật pháp. Tuy là không có tướng ngã, tướng nhân, lìa tất cả pháp, lìa tất cả tướng, nhưng đứng trên mặt sự tướng cần phải tu tất cả các pháp. Muốn tu được tốt, chúng ta phải có tinh tấn, thành khẩn tha thiết, trong tương lai chúng ta sẽ cảm ứng quả báo vô vi. Quả báo vô vi thì không sinh, không diệt, đó mới chính là Phật pháp thiết thực. Nếu lấy tâm hữu tướng tu hành tất cả các pháp thì sẽ cảm ứng quả báo hữu vi. Tất cả quả báo hữu vi đều là vô thường, sinh diệt. Tu thiện cảm ứng quả báo thiện, một khi hưởng hết rồi lại hoàn không. Tạo ác nghiệp phải thọ ác báo, quả khổ thọ rồi cũng trở nên không. Tất cả đều vô thường sinh diệt.
Chánh nhân vô thường, cho nên “sinh” vẫn mãi mãi sinh, “chết” cũng vĩnh viễn chết. Chánh nhân đã như vậy, sinh không ngừng, chết cũng không đoạn, sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh, mãi mãi chịu khổ không cùng tận. Chúng ta phải tu hành thôi, tại sao phải tu? Chỉ có tu thì chúng ta mới có trí tuệ Bát Nhã thấu rõ các pháp vốn không có sở hữu, tuy không có sở hữu, nhưng phải luôn tu hành sự tướng cho viên tròn, tôi không bảo chư vị phải lìa xa chúng sinh trong thế gian để mà tu, vì Phật pháp vốn không xa lìa thế gian. Đức Phật Bổn Sư cũng là chúng sinh, từ chúng sinh mà thành tựu đạo quả. Do đó, chúng ta không thể xa lìa chúng sinh trong thế gian mà tu hành được. Ngược lại còn phải rộng kết thiện duyên với họ mới có thể độ được họ. Chư vị có hiểu không?
7.- Có không trong mộng đều là hư giả
Phật pháp giảng “vô ngã” có thật là vô ngã không? Nếu tất cả các pháp đều là vô ngã rồi thì tu hành làm gì? Nếu đã là vô ngã thì tạo nghiệp ác ai là người thọ khổ địa ngục? Nếu quả thật vô ngã, tu phước tu thiện ai là hưởng thọ? Cho nên nói “hữu ngã” mới có thể thông được, nếu nói “vô ngã”, Đức Phật giảng nhân quả “nhân” ai tạo, “quả” ai hưởng?
Như vậy làm sao giảng cho chư vị tiếp thọ được đạo lý vô ngã đây? Vì đây là đạo lý không dễ dàng gì nghe qua có thể hiểu được. Nay xin đơn cử thí dụ cho chư vị hiểu được. Chư vị! Chúng ta ai cũng có nằm mộng. Trong mộng tất cả chúng sinh hữu tình, đại địa vô tình, chung quy có hay không? Nếu có thì không thể nói là không được. Tuy nói có, song tất cả là hư giả, huyễn hóa không có thật. Nếu tất cả trong mộng đều là thật, khi nằm mơ bạn thấy mình mua vé số trúng, khi tỉnh dậy, bạn có phát tài hay là không? Trong mộng vui không có, khổ cũng không. Trong giấc mơ bạn thấy mình bị rắn cắn, sợ quá liền thức dậy, bạn thấy thân thể mình có bị rắn cắn hay không? Trên giường có con rắn nào không? Đó chẳng qua tự ý thức của bạn khởi vọng tưởng mới thấy có thật, nói theo góc độ Duy thức học thì những hình ảnh đó hoàn toàn do Độc Đầu Ý Thức tạo nên, tất cả đều là hư giả không có thật, như vậy bạn làm sao nhận cái giả cho là thật được? (Lời chú giải của người dịch: Ý thức là thức thứ sáu trong tám loại thức tâm vương, thức này tác dụng rộng sâu hơn năm thức trước và làm chủ năm thức trước. Thức này duyên với các tâm sở, căn bản phiền não và tùy khởi phiền não mà tạo nên nghiệp. Vì nó có tác dụng suy đoán, phân biệt và quyết định đưa đến thể hiện hành động cụ thể của thân và miệng, hoặc bằng hành động tình cảm như: Yêu ghét, tham muốn... Về suy nghĩ làm việc phải thức này đứng đầu, còn tính toán tạo việc ác thức này cũng hơn các thức còn lại. Cho nên trong Duy thức có nói: “Công vi thủ, tội vi khôi”, chính là nói đến hoạt dụng của thức này vậy. Thức này có đủ ba tính: Thiện, ác và vô ký. Khi nó duyên với 51 món tâm sở thì nó được chia thành hai loại: Độc đầu ý thức và Ngũ câu ý thức. Ý thức độc đầu là ý thức hoạt động độc lập, không cộng tác với năm thức trước. Ý thức độc đầu lại được chia thành năm loại: 1. Ý thức tán vịlà ý thức phát khởi trong trạng thái phân tán. 2. Ý thức trong mộng là hoạt động trong trạng thái mê ngủ hoặc nằm chiêm bao. Vì trong mộng mị, người ta thường nghĩ rằng thế giới trong mộng là thế giới có thật, thật ra những cảnh tượng đó chỉ là những phát hiện của chủng tử độc ảnh trong kho chứa A lại da thức. 3. Ý thức cuồng loạnlà ý thức phát khởi khi điên loạn. 4. Ý thức trong địnhlà ý thức trong trạng thái thiền định, ý thức này chỉ có những người tu thiền định mới có kinh nghiệm. 5.Ý thức tán loạn là ý thức bị loạn động phát khởi. Chúng ta làm việc quá sức, cũng gọi là trạng thái lơ đãng, hoảng hốt... (Hòa thượng Diệu Liên đang nói đến loại thứ hai của ý thức độc đầu).
Theo bạn, những cảnh tượng trong mộng có hay là không? Nếu nói có thật, thì trong mộng có sợ hãi, lúc tỉnh dậy tâm cũng vẫn còn sợ hãi, trong mộng vui sướng lúc tỉnh dậy tâm cũng còn vui sướng, như vậy cứu cánh có hay là không? Kỳ thật “chẳng có cũng chẳng không”. Nói có nói không đều rơi vào biên kiến, không còn trung đạo. Từ góc độ tục đế mà nói thực tại của vạn vật vừa có lại vừa không. Nhưng đứng từ góc độ chân đế, phải xa lìa thực tại, lìa ngôn ngữ thì đó mới là cứu cánh. Nếu chư vị có thể hiểu được bản chất thực tại, lý giải được tính không hữu thật tướng của vạn pháp, trì danh với cái nhận thức như thế chắc chắn vãng sinh thượng phẩm.
Phật pháp nói tất cả đều vô ngã, là muốn nói tất cả vạn vật không có tướng hay một cái ngã cố định, vì bản chất của vạn vật là duyên sinh, do nhiều yếu tố hợp lại mà thành không có gì gọi là thật ngã. Nếu bạn không hiểu được điều đó thì chứng tỏ bạn là người kém phước đức trí tuệ. Vì vậy, bạn phải tu phước và trí tuệ, một khi phước trí viên mãn bạn sẽ nhận thức được vạn vật là hư giả, thế gian là mộng huyễn. Trong kinh có nói: “Vô ngã thì không có người tạo và người thọ, nghiệp thiện nghiệp ác cũng đều không”. Do đó, kính khuyên chư vị đối với Phật pháp hãy đọc nhiều, nghe nhiều, suy tư cho sâu, siêng năng lễ bái và niệm Phật cho nhiều thì nhất định đến một ngày nào đó quý vị tự nhiên sẽ đại ngộ.
8.- Cuộc sống Ta Bà tất cả đều là mộng
Chư vị! Khi chúng ta ngủ nằm mộng liền sực tỉnh, khi tỉnh rồi thì những cảnh mộng không có thật nữa. Song hằng ngày tuy chúng ta thức nhưng tất cả đều như nằm mộng, có lúc nào là thật sự tỉnh đâu! Thật thương thay cho chúng ta, đã bao kiếp sống như mộng, mà cứ ngỡ mình đang tỉnh, khổ đau chúng ta thọ nhận không ngừng mà vẫn chưa có ngày nào sực tỉnh. Nói thì như vậy, thế nhưng là người tu hành chúng ta không nên sợ khổ đau, mà phải luôn luôn dụng công niệm Phật. Một khi chúng ta được vãng sinh đến thế giới Tây phương rồi, đến lúc đó chúng ta mới thật sự tỉnh. Thế giới Ta Bà tất cả vốn là giả danh, mộng huyễn, bản lai của nó vốn không có khổ vui, mà khổ vui đó do chúng ta tạo nên rồi trở lại thọ nhận lấy nó. Do vui khổ mà chúng ta đã tạo ra biết bao nhiêu tội chướng. Đến một lúc nào đó chúng ta tỉnh ngộ rồi mới nhận được tất cả đều không.
Chúng ta phải thấy tất cả mọi vật trên thế gian không có cái gì trường tồn bất diệt, không có gì là có ngã, tất cả như mộng như huyễn. Có nhận thức như thế mới có đầy đủ nhân duyên thành Phật. Nếu thấy tất cả đều là thật thì mãi mãi chịu khổ đau. Tại sao? Vì thấy tất cả vạn vật trên thế gian đều là thật, tất nhiên là thấy không biến đổi, không dao động thì làm sao có thể dụng công tu hành và cũng làm sao có thể thành Phật được. Đó là đạo lý quan trọng mà mọi người cần phải giác ngộ. Hiện tại, chúng ta đã biết và đang tu thì làm sao chúng ta phải chứng được đạo lý vô ngã đó. Có như thế mới có thể phóng hạ vạn duyên thành tâm niệm Phật, cầu phước đức chân thật. Không nên nhàn rỗi, tán gẫu, suy nghĩ tà vạy, chỉ thêm mang nghiệp chứ không có lợi ích gì. Phải giác ngộ vạn pháp là vô ngã, chân thật dụng công tu niệm Phật, có như thế đời nay mới mong được giải thoát. Cổ đức có nói: “Thân này đời nay không độ, biết có khi nào độ được thân”.
NGÀY THỨ HAI
Trí tuệ Bát nhã đủ phước đức,
Niệm Phật vãng sinh trọng trì danh.
1.- Vô tướng là chân thật tướng
Mọi người đến đây dự Phật thất, chủ yếu là niệm Phật. Có bốn phương pháp niệm Phật: Thật tướng niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật, Quán tượng niệm Phật và Trì danh niệm Phật. Tu Thật tướng niệm Phật phải có trí tuệ Bát nhã và sự hỗ trợ của phước đức. Thật tướng là vô tướng, vô tướng là thật tướng. Vì phàm phu chúng ta có sự nhận thức mâu thuẫn, cho vô tướng là không có gì, đã không có làm sao nói là chân thật được. Ví như nhà bếp không có gạo làm sao nấu cơm, trong nồi không có cơm thì những người hành đường lấy cơm ở đâu châm thêm cho các bạn? Phàm phu chúng ta cho rằng, đã là vật có sự tướng thì nhất định là có thật, nói như vậy là mê lầm. Phật pháp chân thật là không, vạn pháp tuy là giả tướng, song bản thể cứu cánh của nó là bất khả đắc, không thể thông qua hình tướng mà có thể nhận thức được, phải trải qua quá trình văn, tư, tu mới có thể hội nhập được, không niệm Phật, không giữ giới thì không thể lãnh hội được. Đó là một điều xin chư vị cần phải chú ý!
2.- Y theo lời Phật dạy mà tín thọ phụng hành
Bản thể của Phật pháp vốn thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn, nếu không học hỏi nghiên cứu cho thấu đáo chắc chắn sẽ có sự nhận thức mâu thuẫn. Đối với hạng người thế trí biện thông trong thế gian, họ không thể nào tiếp nhận được Phật pháp. Thế trí biện thông là chỉ cho những bậc học giả, hoặc những người có địa vị chức quyền, giàu sang phú quý. Đối với hạng người này họ chỉ ưa luận bàn những triết lý sâu xa, cái hiểu biết của họ không có dính dáng gì đến đời sống của họ. Họ là những học giả có kiến thức uyên thâm về thế gian pháp, nên khi nghe Phật pháp có thể sinh ra hủy báng, hay chê bai, cho Phật pháp là cao xa, là huyễn hoặc, là mê tín, là bi quan yếm thế, chán đời, chỉ toàn nói đến khổ đau. Đối với hạng thế trí biện thông này, là người con Phật, chúng ta nếu có gặp họ cũng không nên luận bàn hay tranh biện làm chi cho vô ích. Vì sao? Vì từ xưa đến nay họ đâu có được phước duyên nghe Phật pháp như chúng ta. Từ chỗ không nghe, không hiểu biết nên trong tàng thức của họ không có hạt giống Phật pháp, cho nên đối với họ, việc chê bai chánh pháp là điều không thể tránh được. Hãy thương yêu họ vì họ không thể lãnh thọ được Phật pháp để tu hành như chúng ta.
Người có thiện căn, mặc dù có nghe Phật pháp không hiểu được, thế nhưng đối với họ vẫn đủ niềm tin để tiếp thọ Phật pháp, vẫn có nhận thức Phật pháp vốn là điều chân thật, không phải là lời nói hư dối. Họ vẫn khẳng định rằng, những lời Phật nói họ vẫn đủ đức tin và vẫn thực hành. Tuy nhiên, nếu lý họ không thể hội nhập được, họ vẫn tin kiên cố y theo sự để thực hành. Đối với hai hạng người trên, chúng ta nên nương theo hạng người có thiện căn với Phật pháp để học hỏi và tu tập, không nên học theo người Thế trí biện thông mà bị dính mắc vào sở tri chướng, để rồi muôn kiếp phải luân hồi sinh tử. Chỉ nên nương theo lời Phật dạy mà thực hành.
3.- Mượn giả tu chân cần hiểu lý
Tu trí tuệ Bát nhã phải từ tướng hư giả mà khởi tu, từ tướng hư giả mới có thể đạt đến tướng chân thật. Giả tướng là pháp hư vọng, làm sao có thể đạt đến tướng chân thật được. Từ tướng hư giả bạn phải liễu giải được tính duyên khởi “không” của vạn pháp. “Không” tức là chân thật tướng. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có nói: “Nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng, tức thấy Như Lai”. Như Lai tức chỉ cho thật tướng pháp thân vậy.
Chúng ta đắp tượng Phật nhằm mục đích gì? Nhằm giúp chúng sinh nương nơi tướng tốt của Phật mà phát khởi tâm cung kính tu hành, nếu không mượn tượng Phật hư giả thì chúng sinh nương ở đâu, lấy cái gì lễ bái cúng dường, làm mô phạm cho chính mình. Tất cả đều phải từ tướng hư giả mà khởi tu hành. Nói duyên khởi là hư giả, thế nhưng không thể xa lìa tướng hư giả mà tu đạo xuất thế được.
Vì vậy, chúng ta cần phải phát tâm tu tập theo sự tướng. Phải liễu giải được thật tướng sự tướng của vạn pháp vốn là không, sự tướng vốn là vô tướng, vô tướng chính là phước Bát nhã, phước vô tướng. Phước Bát nhã vô tướng là gì? Đó là loại phước khi chúng ta tạo mà không có sự chấp trước. Ví như khi làm phước, bạn còn thấy mình là người cho, thấy kia là người nhận, và chấp trước vào công đức đó, đó là bạn dụng tâm thế gian tu thiện để cầu phước báo rồi. Phước báo của việc làm đó đương nhiên là có, có gieo nhân tất phải có quả. Song phước báo đó chỉ là phước báo của trời người, là Đệ nhị nghĩa đế. Nếu bạn lấy phước đó mà mong liễu sinh thoát tử, muốn thành Phật thì không thể nào có được. Như vậy, chúng ta phải tu phương pháp nào mới có thể liễu sinh thoát tử? Chúng ta phải lấy vô ngã tướng, vô nhân tướng và vô chúng sinh tướng, mà tu tất cả thiện pháp, thì mới có thể thành tựu việc liễu sinh thoát tử.
4.- Tu thật tướng phải nương vào trí tuệ
Như thế nào mới là Thật tướng niệm Phật chân chính? Đứng về phương diện duyên khởi mà nói, như đã nói ở trên, hư tướng là không có tướng chân thật, tất cả đều do nhân duyên hợp lại mà thành. Bản thân của nó không có tướng chân thật. Y theo lý duyên khởi nhất tâm chỉ quán, đó là niệm Phật thật tướng. Dù bạn có lý giải như thế nào đi chăng nữa, tuy nhiên hư giả vẫn là hư giả. Thế nhưng vẫn phải tu cái chân thật, nếu nói hư giả không có tu thì hoàn toàn sai lầm, nếu không từ sự mà khởi tu thì làm sao thể nhập được Thật tướng niệm Phật. Bạn không thâm nhập Thật tướng niệm Phật, làm sao có thể liễu đạt đến chỗ chân thật “phàm những vật có hình tướng, tất cả đều hư vọng” (Kinh Kim Cang). Như khi bạn ăn cơm, nếu thấy cơm là hư giả không chịu ăn thì làm sao bạn có thể giữ gìn thân để tu hành vãng sinh được. Tuy cơm là duyên sinh, là vô ngã, là giả, nhưng nó có thể nuôi dưỡng thân xác của bạn. Bạn có thân thể khỏe mới có thể tu hành tự lợi, lợi tha và làm tất cả các việc. Cho nên, tuy là hư giả nhưng nó cũng có công năng; nếu bạn cho nó là hư giả rồi không ăn, bạn không ăn chắc chắn sẽ chết. Phật pháp giảng “không” là muốn cho bạn nhận thức được nguyên lý chân thật. Nói có là muốn cho bạn tu tập tất cả các thiện pháp, không xa lìa sự tướng. Do đó Tổ Huệ Năng có nói: “Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian mà giác ngộ”. Chúng ta phải ở tại thế gian mà tu hành mới có thể thành tựu các pháp.
Nếu nói các pháp xuất thế gian là hư vọng, như thế thì pháp của phàm phu có hư vọng hay không? Đương nhiên là càng thêm hư vọng. Chúng ta cần phải chú ý: “Phàm những vật có hình tướng đều là hư vọng”, nếu bạn có thể “thấy các tướng chẳng phải là tướng, tức thấy Như Lai”. “Không”, không phải là không có, cũng không phải lìa sự tướng mới là không. Bạn phải liễu đạt tất cả các pháp chỉ là một khối duyên sinh giả tướng, không có tính chân thật, như vậy mới liễu giải được tính không. Tuy là không, nhân ngã là giả tướng, thế nhưng phải y theo nhân quả mà tu hành, thuận theo nhân quả mà tạo tác. Có nhân tất phải có quả, làm ác phải đọa tam đồ. Vì vậy, lý sự cần phải hiểu rõ mới có đủ trí tuệ để tu niệm Phật Thật tướng. Trong thật tướng có vô tướng, trong vô tướng có thật tướng. Không là Chân đế, có là Tục đế. Muốn hiểu rõ Chân đế, chư vị phải dụng công nghiên cứu tu hành mới có thể thấu hiểu được.
5.- Đệ nhất nghĩa đế cứu cánh là không
Nếu y theo Đệ nhất nghĩa đế mà nói, thật tướng chân như cứu cánh là không. Nói nhiều thì lại càng sai, nói đúng hơn “tâm suy nghĩ tức là sai”. Tâm phải không có một mảy may trụ chấp vào bất kỳ một pháp nào, ngay cả danh từ “không” cũng không trụ, cũng phải bỏ đi, đó mới gọi là niệm Phật Thật tướng, niệm Đệ nhất nghĩa đế không, cũng là niệm mà vô niệm, mọi người nghe qua khó mà hiểu được. Học Phật pháp điều đáng sợ nhất là không hiểu, vì không hiểu sẽ đưa đến hiểu lầm rồi sinh ra hủy báng, nhưng chúng ta nghe dần dần sẽ liễu giải được thôi. Nếu không giảng, mãi mãi chư vị sẽ không thể hiểu được. Hiện tại trong khóa tu, chúng ta không dùng phương pháp Thật tướng niệm Phật, mà chỉ chú trọng Trì danh niệm Phật thôi. Niệm Phật Thật tướng là chuyên nhờ vào tự lực, trong khi đó căn cơ chúng ta ở đây còn thấp kém nên chỉ chú trọng Trì danh niệm Phật là chính, vì Trì danh niệm Phật là nhờ vào tha lực. Thời đại mạt pháp ngày nay, nếu không nhờ vào tha lực sẽ không bao giờ có ngày liễu sinh thoát tử, chư vị nên chú ý điều đó!
Phật pháp giảng bản thể muôn vật là không. Song tất cả hiện tại sự vật là có. Giống như hư không, bản chất của nó vốn là không, song trời đất, sông, núi, tất cả các tinh cầu, nhân vật đều trụ trong hư không, từ hư không mà lưu xuất. Bản thể hư không không có cái gì nên gọi là không. Chính vì bản thể vốn là không đó mới có năng lực chứa tất cả các pháp. Không có một pháp nào mà không trụ trong hư không, nếu lìa “không” sẽ có pháp gì nữa? Chúng ta hằng ngày theo tập quán, chỉ cho rằng “không” là không có gì cả. Song, “không” không phải là không có gì. Như chư vị xem, hiện tại trong niệm Phật đường này, bản chất là không, nếu không có “không” thì làm sao có thể dung chứa được tượng Tam Thánh? Làm sao có thể chứa đựng được những thứ trang nghiêm khác? Lại nữa, làm sao có chỗ cho chúng ta niệm Phật, lạy Phật? “Không” chính mới có thể dụng, “không” có không thì không có thể dụng. Do đó, chư vị nghe qua trí tuệ có thể phát khởi rồi, hy vọng từ đây chư vị không còn ngộ nhận cho “không” là không có gì nữa. Xin chư vị hằng ngày cứ lấy hư không quán sát làm thí dụ, chắc chắn trí tuệ sẽ phát sinh. Một lúc nào đó, chư vị sẽ liễu giải được nghĩa lý vi diệu chân không của Phật pháp. Chúc chư vị thành công!
6.- Vô thường biến các pháp thành không
Phật pháp giảng vạn pháp là vô thường. Thế giới có thành, trụ, hoại, không; con người có sinh, lão, bệnh, tử; tâm có sinh, trụ, dị, diệt, tất cả các pháp đều là vô thường. Trong Kinh Bát Đại Nhân Giác, Phật có dạy chúng ta rằng: “Quốc độ hư giả, mạng sống vô thường”. Quốc độ thuộc về khí thế gian, con người thuộc về hữu tình thế gian. Tất cả vũ trụ là khí thế gian, hữu tình thế gian đều ở trong vũ trụ. Vũ trụ dung chứa tất cả vạn pháp, song vạn pháp thì không thường trụ, niệm niệm biến diệt, từng giây từng phút sinh diệt không ngừng. Thân thể con người chúng ta, các tế bào cũng sinh sinh, diệt diệt biến đổi trong từng sát na. Một người không phải sống đến tám mươi, chín mươi tuổi chết rồi mới gọi là diệt, mà ngay cả những khi còn nằm trong bào thai cũng đã sinh diệt không ngừng rồi.
Chẳng những hữu tình là vô thường, mà tất cả vạn vật trong vũ trụ, chỉ là giả danh tạm thời, không có thường trụ chân thật. Niệm niệm biến diệt, đều là vô thường, đến một lúc nhất định nào đó cũng phải tiêu diệt. Bạn thử tìm xem có một vật nào là trường tồn bất diệt không? Không có một vật nào trên thế gian này trường tồn bất diệt cả. Tất cả đều biến đổi không ngừng, bản chất của chúng thay đổi trong từng sát na. Trong một phút thôi, thân thể của bạn không hoàn toàn giống một phút trước đó nữa, mà các tế bào biến đổi không ngừng. Tế bào này chết, tế bào khác lại sinh, cứ luân phiên nhau thay đổi không có lúc nào dừng nghỉ. Vì thế, Phật mới dạy cho chúng ta, thế gian này không có gì gọi là trường tồn cả, mà ngược lại tất cả đều bị luật vô thường chi phối. Tất cả vạn vật đều phải chịu quy luật tự nhiên đó là sinh, trụ, dị, diệt, hoặc thành, trụ, hoại, không. Đối với chúng hữu tình thì phải chịu quy luật sinh, lão, bệnh, tử. Do bản thể các pháp vốn là vô thường nên nó vốn là không, không có thật ngã mà tất cả đều là vô ngã, là duyên sinh thôi.
Bản tính của chúng ta vốn thanh tịnh như thái không, nhưng chỉ vì hiện tại chúng ta khởi nhiều vọng tưởng nên mới bị phiền não, khổ đau, luân chuyển trong biển khổ phàm phu. Một khi còn ở địa vị phàm phu, chúng sinh chắc chắn không thể nào tránh khỏi tạo nghiệp luân hồi. Còn nếu chúng ta nhớ Phật, niệm Phật tức là chúng ta đang đi trên lộ trình tiến đến quả vị Phật. Như vậy, tại sao cần phải niệm Phật? Vì niệm Phật là đình chỉ vọng tưởng. Vọng tưởng dừng tâm liền thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì ba nghiệp thanh tịnh. Ba nghiệp thanh tịnh, tức đồng Phật vãng sinh Tây phương.
7.- Một câu A Di Đà đầy đủ vạn đức
Bậc thiền giả tham thiền, cũng thuộc vô tướng. Mục đích của người tham thiền là thể nhập được chân tính. Thông thường, họ lấy các câu thoại đầu như: “Người niệm Phật là ai?”, “Trước khi cha mẹ chưa sinh ra, ta là ai?”... Đứng về lý mà nói, tại sao cần phải tham thiền hoặc tham thoại đầu? Cổ đức có nói: “Vì căn tính con người vốn hạ liệt, không đủ trí tuệ, không đủ năng lực thâm nhập được bản tâm, nên chư Tổ từ bi mà lập ra các phương tiện như vậy”. Giống như người già cả, người bệnh hoạn không thể tự mình nỗ lực đi một mình được nên cần phải mượn cây gậy, nhờ vào cây gậy mới có thể đi được.
Hiện tại chúng ta đang niệm Phật, thì “tâm là Phật, Phật là tâm”. Thế nhưng, có một số người dám mạo muội cho tâm là Phật, vì thế họ không cần phải niệm Phật hay tu hành làm chi cho nhọc xác. Song tuy tâm là Phật, nhưng bạn phải biết chúng ta hiện đang là phàm phu nghiệp chướng rất nặng nề, tâm còn đầy dẫy ô nhiễm, cho nên cần phải niệm Phật. Vì danh hiệu Phật A Di Đà vốn đầy đủ vạn đức trang nghiêm. Phật thường an trụ trong pháp thân thanh tịnh, tất cả các nghiệp ác và tội chướng của Ngài đều đã tiêu trừ, tất cả các công đức tu hành đều đã viên mãn. Nếu có người nào dám mạo muội tự xưng họ đã là Phật rồi, chứng tỏ người này không có thiện căn. Hạng người này dù có gặp được nhân duyên tốt cũng không thể nào tu tập được, vì không có chủng tử của Phật pháp.
Chúng ta không cần phải lý luận làm gì sâu xa, mà chỉ cần luôn biết an phận, lão thật niệm Phật. Cứ niệm Phật giống như đứa bé chăm chú mớm sữa mẹ, ngày qua ngày đứa bé sẽ lớn dần. Cứ niệm Phật như ăn cơm. Có ăn thân thể mới có sức khỏe để làm việc. Việc niệm Phật cũng như vậy. Chúng ta không cần phải lý luận làm gì cho mất thời gian, chỉ cần có tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên, chắc chắn sẽ dần dần đạt được nhất tâm bất loạn, tâm bất loạn liền được vãng sinh. Kính thỉnh chư vị hãy chí thành mà niệm Phật.
NGÀY THỨ BA
Chấp trì Thánh hiệu nhất tâm,
Đời nay quyết định không lầm vãng sinh.
Có người hỏi: “Chấp trì Thánh hiệu có thể đạt được nhất tâm hay không? Niệm Phật có chắc chắn được vãng sinh không?”. Trong Kinh A Di Đà yếu giải có nói: “Tán loạn xưng danh gieo giống Phật, chấp trì danh hiệu đăng bất thối”. Bạn phải biết rằng Phật có công đức không thể nghĩ bàn, danh hiệu A Di Đà Phật cũng có công đức không thể nghĩ bàn. Nếu bạn niệm Phật tâm bị tán loạn sẽ tạo thành chủng tử. Như trong Kinh Pháp Hoa có nói: “Nếu người tâm tán loạn, đi vào trong bảo tháp, nhất tâm xưng niệm Nam Mô Phật, đều được thành Phật đạo”. Do đó có thể biết, lấy tâm tán loạn mà xưng niệm danh hiệu Phật công đức còn thù thắng, hà huống gì là chấp trì danh hiệu Phật được nhất tâm bất loạn, công đức lớn lao biết dường nào!
Kỳ thật có được vãng sinh Cực Lạc hay không, tất cả đều phụ thuộc nơi bạn. Nếu bạn hỏi tôi: “Tôi có thể vãng sinh hay không?”. Tôi cũng xin thành thật trả lời với bạn rằng: “Điều đó hoàn toàn phụ thuộc nơi bạn”. Chỉ cần bạn chân thật nhận thức và có quyết tâm: “Thân này đời nay không độ, đời sau làm sao độ được thân”, đồng thời tin sâu, nguyện thiết, cầu vãng sinh Tây phương thì nhất định đời nay quyết định được vãng sinh. Cho nên, bạn không cần phải phân vân tán tâm hay nhất tâm, chỉ cần bạn thường biết an phận, xưng niệm danh hiệu Phật cho thành tâm là tốt rồi.
1.- Thường hằng chấp trì đặng bất thối
Tóm lại, bạn chỉ cần “chấp trì” danh hiệu Phật không quên là tốt. Thế nào gọi là “chấp trì”? Giống như việc bạn nắm một vật quý giá trong tay, chẳng những bạn phải nắm giữ cho chắc mà tâm phải trông chừng nó không cho nó rơi rớt, nếu rớt e rằng sẽ bị bể. Cho nên đòi hỏi bạn phải chú ý tập trung gọi là “trì”. Nói tóm lại, chấp trì chính là “niệm niệm tương tục không gián đoạn”. Trước ngọ cũng niệm Phật, sau ngọ cũng niệm Phật; ngày nay niệm Phật thì ngày mai cũng niệm Phật, đó chính là chấp trì. Bình thường phải niệm, đến khi có bệnh hay gặp khó khăn cũng phải niệm, cứ niệm Phật cho đến khi nào giải thoát hết mọi khổ nạn mới dừng.
Nếu bạn không niệm Phật, tham, sân, si trong tâm bạn sẽ khởi lên. Song trong tâm bạn có niệm Phật thì tham, sân không thể nào khởi lên được. Vì bản chất của tam độc không phải là chân hữu, mà chúng chỉ là pháp huyễn tưởng, hư vọng mà thôi. Duy chỉ có niệm Phật mới là công đức chân thật. Những pháp hư huyễn làm sao có công đức được. Vì vậy, bạn không cần phải quan tâm đến việc tán tâm hay nhất tâm, mà chỉ cần bạn tin sâu, nguyện thiết, chấp trì một câu A Di Đà Phật. A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật... không kể là đi, đứng, nằm, ngồi, hoặc may vá hay ăn uống. Từ sớm đến chiều, một câu Phật hiệu không cho gián đoạn, dù có bệnh khổ hoành hành hay dù gặp việc bất như ý, chỉ có một lòng niệm Phật, bạn cần gì phải lo sợ có được vãng sinh hay không.
Như thế nào mới là người chân chính chấp trì danh hiệu? Giống như có người khen bạn tốt, bạn đáp “A Di Đà Phật”, hoặc có người đến phá hoại bạn, hoặc chửi bới bạn, bạn cũng đáp lại “A Di Đà Phật”. Không kể gặp thuận cảnh hay nghịch cảnh, cứ một câu A Di Đà Phật bạn chấp trì đừng cho gián đoạn, thì không bao giờ bị hoàn cảnh dẫn dắt, lại giữ được chánh niệm vãng sinh Tây phương.
Không những bạn phải bảo trì mà còn phải nhậm trì nữa. Nhậm tức là chỉ cho trạng thái tự nhiên, để tâm tự nhiên mà niệm Phật. Lúc bình thường bạn chấp trì, dần dần lâu ngày sẽ tự nhiên trở thành nhậm trì, tức là không niệm mà niệm. Chấp trì danh hiệu là “nhân”, vãng sinh Tây phương là “quả”. Một khi bạn được sinh Tịnh độ rồi thì không còn sợ thối chuyển nữa. Vì vậy, nếu có người nào hỏi tôi: “Tôi có được vãng sinh hay không?”. Tôi cũng xin hỏi lại bạn: “Bạn có niệm Phật hay không?”. Nếu bạn có niệm Phật thì có vãng sinh, bằng ngược lại không có thì không được vãng sinh. Định luật nhân quả quy định rõ ràng như vậy.
2.- Có chí thành tức có thể nhất tâm
Một câu Thánh hiệu chỉ cần bạn chấp trì không gián đoạn. Tán loạn mặc cho tán loạn, cái tột cùng là tự nhiên có thể đạt đến nhất tâm bất loạn. Nếu bạn không chấp trì Thánh hiệu, làm sao có thể nói đến nhất tâm? Không gieo nhân làm sao có quả cảm ứng? Có người một khi niệm Phật liền muốn nhất tâm, điều đó làm sao nói dễ dàng như vậy? Nếu bạn không gieo nhân dụng công niệm Phật thì làm sao cảm quả nhất tâm? Điều đó chẳng qua là vọng tưởng mà thôi. Tôi nói như thế sẽ có nhiều người dị nghị rằng tôi không dạy quý vị niệm Phật nhất tâm. Nếu tôi không dạy quý vị niệm Phật nhất tâm là trái ngược với kinh điển, trái ngược với lòng từ bi của cổ đức. Tôi dạy nhất tâm là có từng lớp.
Đứng về phương diện lý mà nói, phàm phu muốn nhất tâm là phải có tâm tàm quý, có tâm chí thành. Nếu không có hai loại tâm trên không nên nói đến nhất tâm làm gì cho vô ích. Trong Kinh Di Giáo, Phật có dạy: “Người có hổ thẹn là có thiện pháp, người không có hổ thẹn cùng với loài cầm thú không khác chút nào vậy”. Nếu bạn không có tâm hổ thẹn và chí thành, đối với việc thế tục khó mà thành tựu, hà huống gì nói đến việc xuất thế gian. Một người cần phải làm gì để đối trị ba độc phiền não? Chỉ cần người đó dụng tâm chí thành và hổ thẹn mà niệm Phật, lạy Phật. Con người chúng ta một khi khởi niệm đã là vọng tưởng rồi. Do đó, chúng ta thời thời, khắc khắc phải có tâm cảnh giác. Một khi tham, sân, si và các phiền não khởi lên, không nên tùy trước theo nó mà tạo nghiệp, cần phải tức thời tỉnh ngộ, phát tâm hổ thẹn, chớ nên đem tâm phiền não đối xử với người, mà tự mình cần phải từ bi tha thứ cho người. Bạn phải nghĩ rằng: “Bản thân mình đã không thể giúp người liễu sinh thoát tử, sao lại còn tạo nhân đưa người vào tam đồ ác đạo?”. Chỉ cần bạn có suy nghĩ như thế thì cũng đủ giúp bạn không tạo thêm ác nghiệp rồi.
3.- Thánh hiệu A Di Đà diệt ngũ dục
Thế giới Ta Bà này là cả một thế giới đầy dẫy ma quỷ. Những loại ma quỷ đó không phải là loại ba đầu sáu tay, lưỡi dài, móng sắc... Ma quỷ tôi muốn nói đây chính là ma ngũ dục: Tài của, danh lợi, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghỉ. Năm loại ngũ dục này được ví như rắn độc, hổ dữ. Thế nhưng, rắn độc hay hổ dữ cắn thì chúng ta chỉ có chết một đời này thôi, còn nếu bị ngũ dục dắt dẫn thì chẳng những làm chướng ngại cho việc vãng sinh, mà chúng còn khiến chúng ta mãi mãi đọa lạc trong tam đồ ác đạo. Đây là một điểm mà mọi người cần phải đặc biệt lưu ý, không thể không cảnh giác được. Hiện tại chúng ta tu hành là đang cùng ma quỷ giao chiến, là đang chiến đấu lại ma ngũ dục. Nếu chúng ta không anh dũng, không quyết tâm hạ thủ nó, chắc chắn nó sẽ dẫn dắt chúng ta đi vào tam đồ.
Bình thường, đối với người cần phải từ bi. Song, đối với thất tình lục dục không nên tùy thuận theo nó mà bị dẫn dụ. Nhất là người học Phật tại gia rất đáng thương, vì sống giữa trần lao, nhìn trước ngó sau đều bị ngũ dục bao vây chi phối. Thảo nào trong kinh Ưu Bà Tắc Giới Khinh, Đức Phật có nói: “Có hai hạng Bồ tát: Bồ tát tại gia tu hành thì khó, Bồ tát xuất gia tu hành thì dễ”. Bạn xem, hiện tại bạn về đây tu tập, nhất cử nhất động đều an trụ trong câu niệm Phật, lại được nhất tâm tu hành. Nếu có phạm oai nghi tế hạnh hay nội quy hoặc phạm giới, đều được người khác nhắc nhở. Chẳng những không tạo ác nghiệp mà còn gieo thiện duyên nữa. Ngược lại sống giữa đời thường, một khi bạn sai lầm, có ai ở cạnh bạn để nhắc nhở đâu?
Người tại gia tu hành thuận duyên thì ít mà ác duyên lại nhiều. Do đó, bạn là Bồ tát tại gia phải tự mình nỗ lực tu hành, đồng thời phải cúng dường Tam Bảo, rộng làm các phước lành. Nếu bạn là người có gia đình thì trách nhiệm cũng lớn. Bạn phải cần tận lực hiếu thuận, lại hành từ bi, mọi việc trước sau, trên dưới cần phải chu toàn. Một khi mắc phải lỗi lầm, được người nhắc nhở nên vui vẻ đón nhận, không nên oán trách. Đối với mọi việc cần phải nhẫn nhục, chịu thương chịu khó mới có thể thành tựu được công đức.
Tôi thường nói, người xuất gia tu hành là người đại trượng phu. Thế nhưng, nếu người tại gia chân chính tu hành cũng là một người đại trượng phu, vì hằng ngày phải đối diện với ngũ dục, chướng duyên khó khăn vô cùng. Vậy bạn phải làm gì để có thể thắng được ma ngũ dục? Không gì tốt hơn là niệm Phật. Cứ một câu A Di Đà Phật, bạn chấp trì không cho gián đoạn, không luận là tán tâm hay nhất tâm, chẳng những tiêu trừ được ngũ dục mà bạn lại còn thành tựu đạo nghiệp, được vãng sinh Tây phương.
4.- Tình không trừ, sinh tử khó thoát
Con người và trời đất gọi là tam tài. Người xuất gia tu hành là Tăng. Phật, Pháp, Tăng được gọi là Tam Bảo. Con người thuộc hạng cao quý nhất, thế nhưng chỉ vì vọng tưởng điên đảo mà trở nên thấp kém, quên mình vốn cao quý. Khi có người lôi kéo bạn làm ác, hoặc tìm bạn làm phiền, việc đó không quan trọng, chỉ cần bạn niệm A Di Đà Phật, mọi việc trở nên vô sự. Song, việc đáng sợ nhất là mọi người đối xử với bạn tốt, từ đó phát sinh tình cảm luyến ái, luyến ái một khi phát sinh rồi thì khó mà đoạn trừ được.
Vì vậy, phàm phu chúng ta nhất định phải phá bỏ quan hệ tình cảm. Nếu không phá bỏ khó mà liễu sinh thoát tử được. Căn bản sinh tử là ô nhiễm. Ô nhiễm cái gì? Đó là ngũ dục. Học Phật là việc lớn của người đại trượng phu. Đối với quan hệ tình ái nam nữ, phải dùng kiếm trí tuệ Bát nhã mà chặt đứt nó đi, có như vậy mới có thể liễu sinh thoát tử. Nếu chỉ còn một mảy may tình cảm cũng vẫn còn bị trói buộc. Thế nhưng ai là người trói buộc bạn? Chính bạn chứ ai.
Tình cảm ở đây không đơn thuần là tình cảm nam nữ. Nếu bạn chân thật muốn cầu giải thoát sinh tử, hành Bồ tát đạo không chướng ngại, tôi thành thật bảo với bạn rằng, ngay cả quan hệ cha mẹ, anh em cũng phải đoạn trừ. Đạo xuất thế gian hoàn toàn khác với đạo thế tục. Thế tục người ta lấy tình cảm luyến ái làm trọng, chính sự luyến ái đó là căn bản của sinh tử. Đạo xuất thế gian hoàn toàn ngược lại, là con đường liễu sinh thoát tử, cho nên ái dục cần phải đoạn trừ. Đó là “chân lý vô tình”, mọi người cần phải chú ý.
5.- Đạo Bồ tát đại nhân đại nghĩa
Đứng về phương diện thế tục, làm con nhất thiết phải vâng lời cha mẹ, vì cha mẹ là người có công dưỡng dục. Bổn phận làm con là phải hiếu thuận. Cha mẹ sai bạn làm gì bạn phải vâng làm cái đó, có như vậy mới đúng với lời dạy của thiên kinh. Song, bạn muốn tu hành để liễu sinh thoát tử thì đối với quan hệ gia đình bạn nhất định cũng phải cắt đứt, bạn mới có thể hành đạo Bồ đề, đạo nghiệp mới viên thành được. Bạn có độ cha mẹ phước tuệ viên mãn mới là đại hiếu chân chính. Bằng ngược lại bạn không có quyết tâm, một khi bạn đến chùa xuất gia, họ sẽ tìm mọi cách đưa bạn trở về thế tục. Vì vậy, đòi hỏi bạn phải có ý chí của kẻ xuất trần thượng sĩ, phải dũng mãnh cắt đứt tình cảm luyến ái đó, mong ra mới có thể liễu sinh được.
Bạn phải suy nghĩ rằng, tự mình sinh tử là việc nhỏ, cha mẹ bị sinh tử mới là việc lớn. Hơn nữa, không những cha mẹ hiện đời của bạn bị sinh tử mà còn cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp, đang chờ đợi bạn đến độ cho họ. Do đó bạn phải có chí, phải có trí tuệ tư duy của người xuất thế gian, không nên chỉ vì chướng ngại của cha mẹ hiện đời mà làm ảnh hưởng đến việc liễu sinh thoát tử của cha mẹ nhiều kiếp. Tạm thời hiện đời bạn phải nhẫn nhục, chịu khổ chịu cực thì tương lai mới có giải thoát. Nếu bạn không nỡ xa rời cha mẹ thì bạn đã cắt đứt con đường Bồ đề của chính mình, lại làm cho cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp tiếp tục chìm đắm trong sinh tử. Bạn tha thiết liễu sinh thoát tử, phải chí thành mà niệm Phật, phải xuất gia, đồng thời cắt đứt mọi quan hệ tình ái thì mới mong có ngày ra khỏi sinh tử.
Mọi người về đây tham dự Phật thất, tất cả đều có nghiệp chướng nặng nề, đều bị quan hệ tình cảm làm chướng ngại. Cho nên, các bạn muốn trừ nó không gì hơn là câu A Di Đà Phật, niệm cho chí thành khẩn thiết, nhất định nghiệp chướng sẽ tiêu trừ, lại thành tựu việc vãng sinh Tịnh độ.
NGÀY THỨ TƯ
Sinh đại tàm quý phát tâm chí thành
Như vậy niệm Phật mới đạt nhất tâm.
1.- Tâm chúng sinh đầy đủ bảo tạng
Mọi người về đây tham dự Phật thất, sớm, trưa, chiều đều được nghe khai thị. Nói đến khai thị thật là hổ thẹn, vì tôi không đủ trình độ, chẳng qua lấy kinh nghiệm tu hành của chính mình mà nói cho chư vị nghe thôi. Nếu chư vị thấy được thì giữ lấy, không được thì bỏ đi. Đương nhiên nếu có sai lầm, xin chư vị chỉ giáo cho.
Hai chữ “khai thị” nghĩa là gì? “Khai” nghĩa là mở, là hiển bày, hiển bày cái gì? Đó là hiển bày bản tâm vốn thanh tịnh nơi mỗi người, mà bản tâm này cùng với chư Phật vốn không khác. Người người trong tâm đều có bảo tạng, không phải chỉ riêng Phật mới có. Chỉ vì bản tâm chúng ta bị trói buộc bởi tham sân, phiền não, nên bảo tạng không thể chiếu soi được. Tuy nó không được phát hiện, nhưng nó vẫn ẩn chứa trong tâm của mọi người, không bao giờ hư hoại. Điều đó thật đáng tiếc cho chúng ta.
Đức Phật có vô lượng trí tuệ. Ngài biết chúng sinh cũng có bảo tạng như Ngài, biết rằng chúng sinh không thể biết được bảo tạng quý báu đó, do đó Đức Phật vì muốn cho chúng sinh khai thị ngộ nhập Phật tri kiến nên từ trong Thường Tịch Quang mà hạ sinh đến thế gian, từ bi “khai thị” cho chúng sinh, chỉ cho chúng sinh thấy được bảo tạng quý giá của chính mình. Mỗi chúng sinh trong tâm đều có đầy đủ gia tài quý báu đó, không cần tìm kiếm bên ngoài. Song, phải tự mỗi người thâm nhập, phát huy bản tâm diệu dụng đó. Đức Phật không thể thay thế cho chúng sinh làm hiển lộ chân tâm được.
Chúng ta hiện tại, tuy là chúng sinh đang khổ não, song, chúng ta phải biết rằng bảo tạng của Phật với mình vốn giống nhau. Đức Phật là người đã đạt được bảo tạng mà tại sao chúng ta vẫn chưa đạt được? Nói ra thật hổ thẹn, chỉ vì chúng ta quá giải đãi, quá lười biếng, không có quyết tâm giải quyết sinh tử, cho nên nói “ông tu ông đắc, bà tu bà đắc” là vậy. Nếu bạn không tu thì lấy gì để đắc. Chúng ta ngày nay, có đủ thiện duyên nghe được Phật pháp rồi, đã hiểu được lý đạo rồi, cần phải theo đó mà tu hành thì sự hiểu biết Phật pháp mới có lợi ích. Chỉ có tu là tốt, nếu bạn không tu sẽ bị ác nghiệp làm chướng ngại. Cho nên có nói “nghiệp lực không thể nghĩ bàn” là vậy. Song bạn cần phải biết bên cạnh nghiệp lực đó có Phật lực, lại càng không thể nghĩ bàn hơn. Mọi người niệm Phật không nên sợ nghiệp chướng nặng, chỉ cần mọi người có tâm thành khẩn tha thiết mà niệm Phật, lão thật lễ lạy, đến một lúc nào đó công phu thành tựu, nhân duyên đầy đủ, quả báo sẽ thành tựu viên mãn.
2.- Chuyển tâm phàm phu thành tâm Phật
Chư vị về đây đả thất, cần phải khéo dụng hoàn cảnh thanh tịnh mà tinh tấn dụng công niệm Phật, không nên như người thế tục quanh năm suốt tháng chỉ sống say chết ngủ trong vòng giả danh mộng huyễn, cũng không nên quá yêu thương, chăm sóc cho thân thể này. Tại sao? Chỉ vì lo cho nó mà chúng ta đã tạo biết bao nhiều tội lỗi. Chính vì nó mà cha mẹ chúng ta đã khổ nhọc biết bao để thành tựu như ngày nay, chúng ta phải mượn nó tinh tấn dụng công niệm Phật để báo đáp công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ. Hy vọng mọi người phóng hạ thân tâm, tập trung dụng công niệm Phật. Có như thế công phu mới thành tựu, mới không phụ công sức của chư vị bỏ hết việc nhà về đây niệm Phật.
Chúng ta tham dự Phật thất cần phải khắc kỳ thủ chứng. Trước tiên, thân và tâm cần phải giữ gìn không cho nó loạn động cũng không nên nói chuyện tạp, chuyện thị phi thế gian, phải giữ gìn thân tâm, có như thế bảy ngày mới có thành tựu. Sở dĩ gọi là “đả thất”, đứng trên mặt văn tự mà giải thích, “thất” là bảy, là chỉ cho thức thứ bảy, nghĩa là chúng ta phải đem thức thứ bảy mà chuyển thành “Bình Đẳng Tính Trí”. Vì sao? Vì thức thứ bảy là cội gốc của chấp ngã, là đầu mối của tham, sân, si. Giả như bạn muốn bố thí, chính thức này sẽ cản trở không cho bạn làm phước. Thức thứ bảy chấp vào kiến phần của thức thứ tám là thức A lại da làm ngã. Ngoài ra, phải chuyển tiền ngũ thức thành Thành Sở Tác Trí, thức thứ sáu thành Diệu Quan Sát Trí, chuyển thức thứ tám thành Đại Viên Cảnh Trí. Vì thế, tác dụng của Phật thất là chúng ta đem tám thức mà chuyển thành bốn trí. Có như thế, mới biến đổi tâm phàm phu thành tâm Phật được. Bạn niệm Phật chính là đang chuyển tâm phàm phu của chính mình thành tâm Phật vậy.
Như thế nào là tâm Phật? Tâm Phật chính là tâm thanh tịnh, tâm không thanh tịnh chính là tâm phàm phu. Cho nên tâm Phật và tâm chúng sinh vốn không hai, chỉ khác nhau ở chỗ là thanh tịnh hay không thanh tịnh mà thôi. Tại sao tâm chúng ta không thể thanh tịnh? Chỉ vì chúng ta không có tâm hổ thẹn và tâm chí thành. Một người làm việc ác như sát sinh, trộm cắp, tà dâm... toàn thân đều có tội chướng, song chỉ cần người đó sinh tâm đại hổ thẹn, chí tâm sám hối, phát tâm đại chí thành, nguyện không tái phạm, đồng thời ra sức làm việc thiện thì tội chướng liền tiêu trừ. Cho nên nói: “Ngày ngày hướng phía Đông, quay đầu là hướng Tây” hay “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Vì thế, phát tâm đại hổ thẹn, đại chí thành chính là nương vào giới. Công đức niệm Phật thật vô lượng, có thể khiến cho tội chướng tiêu trừ, một khi tội chướng tiêu trừ tâm trở nên thanh tịnh, tâm thanh tịnh sẽ khiến lục căn được viên minh, biến thành lục thông tự tại. Nếu bạn có thể phát tâm đại tàm quý, đại chí thành mà dụng công niệm Phật nhất định có thể vãng sinh Tây phương, viên thành quả Bồ đề, rộng độ chúng sinh đồng vãng sinh Tịnh độ.
3.- Vãng sinh Tây phương viên chứng tam bất thối
Vãng sinh đến thế giới Cực Lạc có một điểm rất tốt là chứng tam bất thối: 1. Vị Bất Thối, 2. Hạnh Bất Thối, 3. Niệm Bất Thối. Tức là một khi được vãng sinh đến Tây phương liền chứng một lần ba loại tam bất thối. Không giống như một số kinh điển nói rằng chứng tam bất thối phải có thứ lớp.
Hành giả tu tập tại thế giới Ta Bà phải phá trừ ngã chấp, đoạn phiền não kiến tư hoặc, chứng quả A la hán liền dự vào dòng Thánh, không còn rơi lại địa vị phàm phu đó là Vị Bất Thối. Người chứng được sơ quả nhất định sẽ chứng được quả A la hán. Chứng được sơ quả thì không còn rơi vào ba đường ác mà chỉ luân hồi trong hai cõi trời và người. Những người này tu chậm nhất là bảy đời mới có thể thoát khỏi tam giới, tuy nhiên, nếu tinh tấn tu hành thì không nhất định là bảy đời mà có thể ba hoặc năm đời. So sánh giữa họ và phàm phu chúng ta, phàm phu chúng ta đáng thương vô cùng, vì chỉ lui tới trong sáu nẻo luân hồi, nếu người nào làm ác, phạm giới thì lại rơi vào ba đường ác.
Người muốn chứng được Hạnh Bất Thối cần phải phát tâm đại Bồ tát hành Bồ tát đạo, đồng thời phải đoạn trừ kiến tư hoặc và trần sa hoặc, trên cầu Phật đạo dưới độ chúng sinh thì mới được xem thành tựu Hạnh Bất Thối. Người muốn chứng Niệm Bất Thối thì niệm niệm phải an trụ trong thanh tịnh chân như, phải phá trừ vô minh, đồng thời chứng được pháp thân thì mới đạt được Niệm Bất Thối.
Người được vãng sinh Tịnh độ, không nhất định phải đoạn trừ nghiệp cảm, chỉ cần người đó có tin sâu, nguyện thiết, nhất tâm niệm Phật, chỉ mười niệm tâm không vọng tưởng thôi cũng được đới nghiệp vãng sinh. Một khi vãng sinh Tịnh độ người đó được sống chung với các bậc thiện nhân và chư đại Bồ tát, người đó nhất định sẽ không còn bị duyên xấu lôi kéo, cho nên chứng được Vị Bất Thối. Lại nữa, người được vãng sinh Tịnh độ do nhân duyên được gần chư Thánh nhân, nên ngày ngày được nghe Phật pháp để tu tập, công phu ngày càng cao nên không còn bị chướng duyên làm trở ngại nữa, liền chứng được Hạnh Bất Thối. Người được đới nghiệp vãng sinh Tịnh độ, hóa sinh trong hoa sen, một khi hoa nở liền thấy Phật, do nhân duyên được thấy Phật nên niệm niệm tâm mong cầu thành Phật, do đó không có chướng duyên làm thối tâm hướng về quả Bồ đề vô thượng nữa, người này liền chứng được Niệm Bất Thối. Thật vậy, khi người nào được vãng sinh Tịnh độ sẽ chứng được tam bất thối, được vào hàng nhất sinh bổ xứ, thật thù thắng vô cùng.
4.- Trì niệm Phật Thánh hiệu Tất cánh bất thối
Trong kinh chỉ có đề cập đến tam bất thối, chớ không nói đến Tất cánh bất thối. Tất cánh bất thối là gì? Đó là chỉ cho việc chuyên trì danh hiệu, viên mãn vô ngại không thể nghĩ bàn. Không luận là định tâm niệm, hay tán tâm niệm, có niệm hay không niệm, chỉ cần bạn niệm tai nghe rõ ràng. Mặc dù bạn không niệm nhưng danh hiệu Phật cũng tự nhập vào tàng thức của bạn làm thành chủng tử không bao giờ mất. Giả như đời nay bạn không được liễu sinh thoát tử, trải qua vạn kiếp về sau, đến một lúc nào đó chủng tử này sẽ thành thục, chắc chắn bạn nhờ vào công đức niệm Phật đó sẽ được liễu sinh tử và thành Phật.
Niệm Phật công đức không thể nghĩ bàn. Thí như vào thời Phật còn tại thế, một hôm Phật ở tại tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô Độc, có một ông già không biết từ đâu đến xin vào gặp Phật để xin xuất gia, lúc đó đệ tử lớn của Phật là ngài Xá Lợi Phất liền nhập định quan sát thử ông này trong vòng tám vạn đại kiếp trở lại có nhân duyên lành gì để xuất gia hay không. Sau khi nhập định xong, ngài liền bảo với ông già: “Ông không có thiện căn gì làm sao có thể xuất gia được?”. Nghe xong ông già buồn bã, khóc lóc van xin thảm thiết. Phật nghe được tiếng khóc, liền hỏi chúng đệ tử có việc gì mà ông già khóc lóc như thế. Sau khi nghe chúng đệ tử trình bày sự việc, Đức Phật liền nói: “Ông có thể xuất gia, vì tám vạn đại kiếp về trước ông có thiện căn”.
Thiện căn gì? Trước tám vạn đại kiếp về trước, ông là người tiều phu chuyên đốn củi trên núi. Một ngày nọ ông bị cọp rượt, trong lúc nguy nan, vội leo lên cây, chỉ niệm “Nam mô Phật”. Từ đó trải qua vô lượng kiếp, nay nhân duyên của ông đã thành thục và có thiện căn để xuất gia, đồng thời về sau cũng có thể chứng được quả A La Hán. Điều đó trong Kinh Pháp Hoa cũng được Phật nói đến: “Nếu người tâm tán loạn, đi vào trong bảo tháp, chỉ niệm Nam mô Phật, cũng được thành Phật đạo”. Thật vậy, người trong thế gian cũng thế, tuy họ không có tin Phật, thế nhưng khi gặp thiên tai hoặc nguy hiểm, miệng niệm “A Di Đà Phật” hay “Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát”. Chỉ cần niệm danh hiệu Phật một lần cũng đã có chủng tử rồi, trải qua vô lượng kiếp và đến một ngày nào đó nhất định thiện căn của họ thành thục, cũng có thể thành Phật như mọi người, đó chính là Tất cánh bất thối.
Hiện tại chúng ta về đây tham dự Phật thất, mỗi ngày có ít nhất mười hai tiếng công phu, niệm Phật tối thiểu là mấy vạn câu, lễ Phật năm trăm lạy, công đức không đó thể vãng sinh được hay sao? Nhất định chúng ta được vãng sinh! Không cần phải niệm đến nhất tâm bất loạn mới được vãng sinh. Trong kinh có đề cập đến hai loại nhất tâm bất loạn: 1. Lý nhất tâm, 2. Sự nhất tâm. Người chứng được sự nhất tâm tức được Vị Bất Thối, sẽ sinh vào Phương Tiện Hữu Dư Độ. Chứng được lý nhất tâm tức được Niệm Bất Thối, sẽ sinh vào Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Phàm phu chúng ta hiện tại không thể đạt đến cảnh giới sự và lý nhất tâm. Song chỉ cần chúng ta niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” là đã được Tất Cánh Bất Thối, sớm muộn gì chúng ta cũng được vãng sinh Tây phương. Do đó, mọi người chỉ cần thành tâm mà chấp trì danh hiệu là có thể vãng sinh rồi. Vì thế, không cần phải sợ mình niệm Phật có được vãng sinh hay không, tâm tán loạn làm sao có thể vãng sinh? Quan trọng nhất là bạn có chấp trì danh hiệu hay không, có đầy đủ tín, nguyện để niệm Phật hay không. Nếu bạn có đầy đủ tín, nguyện thì nhất định bạn được vãng sinh. Được vãng sinh hay không là do nơi bạn vậy.
5.- Thánh hiệu Di Đà là nước cam lồ
Thế gian thường nói: “Chính thắng tà”, song cũng có lúc tà thắng chính. Giống như thời đại mạt pháp hiện nay, tà thuyết của ngoại đạo rất thịnh hành, lắm lúc người học đạo lấy giả làm chân, nhận chân cho là giả. Thế nhưng tà thì luôn có giới hạn, nó không thể nào thắng chính được. Tại sao? Tục ngữ có nói: “Thiện như thân tùng, ác như loài hoa, hoa nở tùng không động, một ngày sương tuyết đổ, thấy tùng không thấy hoa”.
Chúng ta là người biết đạo, giống như nước nhất định sẽ tưới tắt được lửa, nhưng nếu nước chỉ có một bát làm sao có thể dập tắt được một xe củi đang cháy. Thời đại mạt pháp hiện nay, tà thuyết ngoại đạo rất thịnh hành trong khi chúng sinh thiện căn lại kém cỏi, nghiệp chướng lại sâu dày, lấy một ít nước thiện căn làm sao dập tắt được ngọn lửa ác nghiệp sâu dày của nhiều đời. Vì thế, mọi người khi niệm Phật mới có vọng tưởng, lúc lạy Phật mới có tạp loạn, đau lưng.
Tuy là như vậy, song nhiều nơi lửa rất lớn, nước không thể dập tắt được, chỉ có dùng nước cam lồ mới rưới tắt được lửa lớn. Cũng vậy, khi chúng ta niệm Phật, có vọng tưởng tạp loạn không nên sợ nó. Chỉ cần bạn niệm một câu A Di Đà Phật, A Di Đà Phật... cứ câu này nối tiếp nối câu kia không cho gián đoạn, vọng tưởng làm sao khởi lên. A Di Đà Phật chính là dòng nước cam lồ thanh tịnh, có công năng tiêu trừ vọng tưởng trần cấu cho chúng sinh, giúp chúng sinh tiêu trừ tội chướng từ vô thỉ cho đến ngày nay.
Mọi người về đây tham dự Phật thất, cần phải dụng công tinh tấn mà niệm Phật, hãy dùng dòng nước cam lồ A Di Đà Phật mà tưới tắt hết tất cả phiền não tham sân. Lửa có thể đốt ở phạm vi sơn hà đại địa chớ không đốt được hư không, cho nên chung quy chính luôn thắng tà là vậy. Tà có thể thắng một thời chớ không thể tồn tại lâu dài được. Thiện giống như cây tùng, ác giống như loài hoa. Tùng tồn tại bốn mùa, hoa chỉ nở được trăm ngày rồi cũng rụng. Cho nên, người làm ác không bao giờ tồn tại lâu dài, gieo nhân ác rồi cũng gặt quả ác. Chúng ta là người tu hành phải xót thương cho họ, vì bản tâm của họ vốn cũng có thiện căn như chúng ta, chỉ vì một niệm vô minh, bất giác mà tạo ra tội ác như vậy. Nếu có thiện duyên trợ giúp, chung quy họ cũng giác ngộ, xả bỏ tà mà quay về chính.
6.- Một đời nhất tâm niệm Thánh hiệu có thể thành Phật đạo
Chư vị nghe qua mười phần cũng đã có lòng tin được một phần. Nếu như biết mình thiện căn kém cỏi, nghiệp chướng sâu dày, không có phước báo, nhất định phải niệm Phật cho nhiều, tinh tấn mà dụng công thì nghiệp chướng mới có thể tiêu trừ, mới có an vui được. Duy chỉ có niệm Phật cho nhiều thì nghiệp chướng mới tiêu, phước tuệ mới tăng trưởng. Một bát nước làm sao có thể dập tắt được một xe củi đang cháy? Chúng ta cần phải có lòng tin kiên cố, tin rằng “chỉ xưng Nam mô Phật, đều có thể thành Phật đạo”, quyết định đời nay vãng sinh để được thọ hưởng vui sướng. Có nên cầu đời sau vãng sinh không? Một đời chúng ta đã chịu biết bao thống khổ hà huống gì là phải trải qua tám vạn đại kiếp như lão già Tu Bạt Đà La. Thọ sinh nhiều đời phải chịu nhiều khổ não. Vì thế, chúng ta phải quyết định đời nay vãng sinh thôi, nhất định Phật A Di Đà từ tôn sẽ tiếp dẫn, kính thỉnh chư vị phải tự mình quyết tâm vậy.
Mọi người mỗi ngày niệm Phật đều có đọc hai câu kệ “Bốn mươi tám nguyện mong độ chúng, hoa sen chín phẩm rước lên ngôi”. Vãng sinh Tây phương được chia thành ba hạng là thượng, trung và hạ. Mỗi hạng lại chia thành ba phẩm, cộng lại tất cả là chín phẩm. Do sự dụng công của chúng sinh khác nhau nên mới cảm quả vị không đồng. Người niệm Phật được lý nhất tâm thì được vãng sinh thượng phẩm, được sự nhất tâm thì sinh vào trung phẩm. Người niệm Phật tuy chưa đạt nhất tâm cũng có thể vãng sinh hạ phẩm. Người phạm tội ngũ nghịch, thập ác, nếu có thể thành tâm niệm Phật sám hối, cũng có thể vãng sinh hạ hạ phẩm. Đó là nhờ vào nguyện lực của Phật A Di Đà và đới nghiệp vãng sinh, đây cũng là một điểm rất đặc biệt của pháp môn Tịnh độ. Đối với chín phẩm, cũng được gọi là người gieo một phần nhân thì hưởng một phần quả. Giống như trong thế gian, người có tiền ít thì mua đồ rẻ, có tiền nhiều thì mua đồ đắt, nếu có tiền ít mà muốn mua đồ dùng cao cấp làm sao có thể mua được? Cho nên, người giải đãi nếu có thể tinh tấn niệm Phật đến nhất tâm cũng được sinh thượng phẩm, đạo quả Bồ đề viên mãn cũng có thể thành Phật như Phật.
Do đó, mọi người cần phải chí tâm lạy Phật, niệm Phật, thì có được vãng sinh hay không? Chẳng những được vãng sinh mà còn được sinh ở phẩm vị cao nữa. Nên biết “thân này đời nay không độ, biết đến khi nào độ được thân”. Hy vọng chư vị tinh tấn dụng công mà niệm Phật, cầu sinh Tây phương.
NGÀY THỨ NĂM
1.- Dừng tâm cầu phú quý, chỉ cầu vô thượng đạo
Trước khi vào vấn đề xin chư vị niệm tình tha thứ cho! Vì thời đại ngày nay là thời đại mạt pháp, cách Phật diệt độ rất xa. Hiện tại Phật Di Lặc chưa đản sinh nên chúng ta hiện đang kẹt trong bát nạn. Thế nhưng, chư vị ngày nay được nghe đạo vô thượng, gặp được pháp môn Tịnh độ để tu tập, lại gặp được đạo tràng thanh tịnh như thế này, chứng tỏ chư vị là người đã có gieo nhân lành trong vô lượng kiếp.
Chúng ta học Phật, điều quan trọng nhất là phải có chánh tri kiến, người không có chánh tri kiến học Phật cũng không có lợi ích thiết thực gì. Chánh tri kiến như kim chỉ nam định hướng cho chúng ta con đường đi đúng đắn. Mọi người đã là người biết đạo, là người niệm Phật tu hành, không nên giống người trong thế tục chỉ cầu giàu sang phú quý, thăng quan phát tài, mà mục đích chúng ta học Phật là cầu giải thoát khổ đau, thoát ly luân hồi sinh tử. Nếu người học Phật với mục đích chỉ cầu phú quý thì chẳng khác nào ngoại đạo. Nói như thế, Phật pháp có giảng cầu phú quý không? Đương nhiên, Phật pháp cũng có nói đến việc cầu phú quý, song cầu xuất thế gian mới là chân thật phú quý.
Giàu sang phú quý của thế gian thường làm chướng ngại cho đạo nghiệp, chúng ta phải xả bỏ nó. Trong kinh thường nói: “Giàu sang học đạo là khó”. Người giàu sang có tiền tài, phú quý, có danh vọng. Tài và danh là hai loại trong năm thứ ngũ dục. Chúng giống như hai sợi xích trói buộc con người, đưa con người vào đọa lạc. Người có tài, có danh vọng thật khó xả bỏ để tu hành. Do đó, người tu hành chúng ta chỉ cần thân thể mạnh khỏe, ăn mặc vừa đủ là được rồi. Nếu như ăn mặc không đầy đủ, đương nhiên sẽ khó mà tu hành, vì ăn mặc không đủ dẫn đến thân thể không an, thân thể không an thì tâm khó an định, thân thể không an làm sao tu hành được.
Chúng ta sinh vào thời đại ngày nay, phương tiện ăn mặc không đến nỗi thiếu thốn. Chúng ta sinh được vào hoàn cảnh tốt như thế này, không cần phải tranh danh đoạt lợi. Vì cầu danh tranh lợi ắt hẳn làm chướng ngại cho việc tu hành. Mọi người nhất định phải xả bỏ tâm mong cầu giàu sang phú quý thì mới có thể học đạo được.
Trên sự thật, người giàu sang phú quý đa số là làm ác, tạo nghiệp nhiều. Chúng ta cứ quan sát xem, người giàu sang phú quý có được mấy người chân chính cống hiến cho xã hội, cho đất nước? Có được bao nhiêu người giàu sang mà không kiêu ngạo, không mê muội? Một người đã giàu sang rồi khó mà tránh khỏi sự tham đắm ngũ dục. Tài, sắc, danh, thực, thùy là chỗ y cứ cho địa ngục, cho nên chúng ta không nên có tâm mong cầu phú quý trong thế gian.
Phật pháp giảng nói điều cao quý nhất là
gì? Tu lục độ vạn hạnh là giàu sang nhất, giải thoát khỏi Nhị tử là phú quý nhất. Nhị tử bao gồm những gì? Đó là Phân đoạn sinh tử và Biến dịch sinh tử. Sinh sinh, tử tử trong lục đạo luân hồi gọi là Phân đoạn sinh tử. Phàm phu tu đạo chứng được quả A la hán, tức được giải thoát khỏi Phân đoạn sinh tử. Chứng quả A la hán lại phát Bồ tát tâm hành Bồ tát đạo, phá trừ vô minh chứng được pháp thân, Phật đạo viên thành, đó là giải thoát khỏi Biến dịch sinh tử. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, cùng vô lượng chư Phật là những vị đã giải thoát khỏi Nhị sinh tử, tự do tự tại qua lại trong chín giới cứu độ chúng sinh, đó mới là cao quý nhất.
Đức Phật được gọi là Thế Tôn, là thầy của trời người, là do người thế gian tôn quý Ngài mà gọi tên như vậy. Vì Ngài có đại từ bi, đại trí tuệ, có thể cứu khổ chúng sinh thoát khỏi khổ não, đạt được an lạc giải thoát. Chúng ta thử xem người giàu sang trong thế gian có bao nhiêu người làm được vậy? Chúng ta là người học Phật, phải noi gương Phật mà học tập, phải hướng tâm cao thượng cầu đạo xuất thế gian, đó mới là phú quý chân thật nhất, mới là người Phật tử chân chính.
2.- Tận tình thọ trì, chí thành xưng niệm
Mọi người học tập, tu pháp môn Tịnh độ, trước tiên phải có đầy đủ tư lương tín, nguyện, hạnh. Trong Kinh A Di Đà yếu giải có nói: “Không có tin thì không thể phát nguyện, không có phát nguyện thì không có thực hành”. Chúng ta tham dự Phật thất niệm Phật bảy ngày là chú trọng thực hành. Phương pháp dụng công niệm Phật phải như thế nào? Bình thường có bốn phương pháp niệm Phật. Hiện tại, tôi xin đơn cử nói đến phương pháp được nhiều người thực hành nhất, một phương pháp dễ thực hành, lại dễ thành công nhất, đó là phương pháp Trì danh niệm Phật. Trì danh, thế nào là trì danh? Là trì niệm danh hiệu A Di Đà Phật vạn đức hồng danh. Đương nhiên, trì niệm danh hiệu của các Đức Phật khác công đức cũng không thể nghĩ bàn, vậy thì tại sao Đức Phật Thích Ca lại đề cử Phật A Di Đà là tôn quý nhất trong vô lượng chư Phật? Tại sao Ngài lại khuyên chúng ta thành kính mà niệm danh hiệu Ngài? Vì Phật A Di Đà có nguyện lực rất lớn, Ngài phát bốn mươi tám lời nguyện độ tất cả chúng sinh. Do đó, chúng ta không cần phải trì niệm bất cứ một danh hiệu Phật nào nữa để dễ chuyên tâm. Vì thế, cổ đức có nói: “Chuyên tu thì vạn người tu vạn người được” là vậy.
Chúng ta khi dụng công niệm Phật, không kể là niệm bốn chữ hoặc sáu chữ, phải niệm sao cho từng câu từng chữ rõ ràng. Danh hiệu phải lưu xuất từ tâm thành kính, tai phải nghe từng câu từng chữ rõ ràng, tâm phải lưu xuất chú ý vào danh hiệu. Một câu danh hiệu niệm như vậy, nghìn câu vạn câu cũng niệm như vậy, ngày nay niệm như vậy, ngày mai cũng niệm như vậy, năm này niệm như vậy, năm tới cũng nên niệm như vậy, cho đến trăm năm cũng niệm như vậy. Điều quan trọng là tâm phải thường hằng, không được ngày nay niệm ngày mai lại phế bỏ, tâm không chuyên nhất khó mà được vãng sinh, lại phí công sức nữa.
Chúng ta nên niệm bốn chữ hay sáu chữ? Kỳ thật, niệm bốn chữ hay sáu chữ công đức đều giống nhau, không phải niệm sáu chữ là tốt hơn bốn chữ. Trong kinh điển thường dạy người chấp trì “A Di Đà Phật”, song tại sao cần phải niệm thêm hai chữ “Nam mô”? “Nam mô” có nghĩa là quy mạng, là quy y, cũng có ý nghĩa là “nhất tâm”. Chúng ta nhất tâm quy mạng A Di Đà, nếu bạn muốn niệm chậm thì niệm sáu chữ, muốn niệm nhanh thì niệm bốn chữ, cái nào cũng tốt.
Chúng ta niệm Phật cũng phải như ăn cơm vậy. Mỗi ngày đều phải ăn, từ khi lọt lòng mẹ đã ăn rồi, hiện tại ngày nào cũng phải ăn. Vậy đến khi nào mới ngừng ăn? Chỉ có khi nào Diêm vương đến rước bạn mới ngừng ăn thôi. Chúng ta niệm Phật cũng phải giống như vậy. Phải niệm cho rõ ràng, niệm đến khi nào Phật A Di Đà đến tiếp dẫn mới thôi niệm. Không nên cho rằng niệm một ngày, hai ngày, hoặc một Phật thất hay hai Phật thất là được, mà phải niệm Phật, niệm đến lúc nào thành thục mới thôi. Giống như một em tiểu học, học thuộc lòng văn chương, học một lần không thuộc lại học hai lần, ba lần vẫn không thuộc thì phải đọc đến trăm lần, học đến khi nào thuộc mới thôi. Chúng ta niệm Phật cũng phải như vậy, niệm đến khi nào Phật A Di Đà đến tiếp dẫn mới có thể dừng nghỉ được.
Chúng ta một khi được vãng sinh rồi thì không còn lo sợ không thành Phật nữa. Phàm phu sinh đến Tây phương, đầu tiên là tạm trú tại cõi Phàm Thánh Đồng Cư, sau đó lại đến ở tại Phương Tiện Hữu Dư độ, Thật Báo Trang Nghiêm độ, sau cùng là tiến nhập vào Thường Tịch Quang Tịnh độ mà thành Phật. Chúng ta tại sao cần phải niệm Phật? Vì muốn được thành Phật, thành Phật để làm gì? Vì độ chúng sinh. Do đó chúng ta cần phải phát Bồ đề tâm mà niệm Phật, hành Bồ tát đạo mà niệm Phật, có như thế mục đích mới chính xác. Nếu bạn xả bỏ tâm Bồ đề mà niệm Phật tức là kim chỉ nam của bạn đã sai hướng rồi. Một khi vãng sinh Tịnh độ rồi cần phải trở lại Ta Bà để độ chúng sinh, độ chúng sinh đến khi nào mới dừng nghỉ? Đến khi nào chúng sinh hết, giác hạnh viên mãn mới thôi.
3.- Bối trần hợp giác hướng Phật đạo
Chúng ta niệm Phật cứu cánh là niệm cái gì? Cái được gọi là “tâm tức Phật, Phật tức tâm”, tâm chúng ta niệm Phật A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính là tâm chúng ta. A Di Đà Phật ở thế giới Tây phương, thế giới Cực Lạc cũng đều ở trong tâm chúng ta, thậm chí ngay cả thế giới pháp tạng, hư không cũng ở trong tâm chúng ta. Hư không là không có giới hạn, tâm chúng ta cũng chính là vũ trụ hư không. Vũ trụ là gì? Trên dưới, phải trái, bốn phương gọi là vũ, tức là chỉ cho không gian, từ xưa đến nay gọi là trụ, tức là chỉ cho thời gian, nói tóm lại vũ trụ tức là chỉ không gian và thời gian. Chúng ta nói tâm bao trùm cả thái hư, tức chỉ cho sự vô biên, vô thủy vô chung của tâm. Vì vậy, tâm không phải do duyên sinh, nếu tâm do duyên sở sinh thì cũng phải tùy duyên mà diệt, tức là không chân thật. Chân tâm chúng ta, tức là chỉ cho tâm thanh tịnh, tâm này vốn vừa là Phật, vừa là chúng sinh, là tâm chân thật không sinh không diệt.
Phật A Di Đà là người đã đoạn trừ hết tất cả phiền não, không còn tạo nghiệp, thanh tịnh vô vi giải thoát tự tại, chẳng những tự lợi đã viên mãn mà công đức lợi tha của Ngài cũng đã viên mãn. Nói tóm lại, phước tuệ của Ngài cứu cánh viên thành, đã chứng được pháp giới tàng thân, cũng đã chứng được bản tâm thanh tịnh. Thật ra, tất cả chúng sinh vốn có đầy đủ bản tâm thanh tịnh, có năng lực chứng được pháp giới tàng thân. Song, chỉ vì chúng ta không có ý chí, không phát tâm tu hành nên khiến cho bản tâm thanh tịnh của chính mình không hiển phát được, chớ nào phải do một đấng thượng đế có quyền hạn giáng họa cho chúng ta đâu. Chỉ vì chúng ta không nỗ lực tu hành, chỉ vì chúng ta quá ư giải đãi mới ra nông nỗi như thế.
Thân của Đức Phật là thân được tạo nên từ các công đức thanh tịnh, còn thân chúng ta là thân do tạo ác nghiệp mới có. Vì Phật là người bối trần hợp giác, tu tất cả các pháp thanh tịnh, phàm phu chúng ta, ngược lại, bối giác mà hợp trần, mê muội trong trần lao. Trần ở đây chính là ngũ dục, là tài, sắc, danh, thực, thùy, những thứ mà chúng sinh tìm kiếm để rồi bị đọa lạc. Nếu như chúng ta muốn chuyển phàm thành thánh, chuyển nhiễm thành tịnh, thì không gì hơn là niệm Phật. Chúng ta sở dĩ tạo các ác nghiệp sát sinh, trộm cắp, dâm dục, và làm các việc ác khác, chỉ vì chúng ta đã có sẵn những hạt giống này trong tàng thức, vì nó đã được huân tập nhiều đời nhiều kiếp, trở thành tập khí quá nặng nên khó mà chuyển đổi được. Là người học Phật, cần phải chuyển đổi những tập khí đó trở thành những hạt giống thanh tịnh, mà muốn chuyển đổi nó không có gì hơn là chư vị hãy thành tâm niệm Phật sám hối.
4.- Niệm Phật tức là niệm tự tâm
“Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm”. Chúng sinh tức là Phật, Phật tức là chúng sinh; tâm Phật và tâm chúng sinh không hề sai biệt. Khi chúng ta niệm Phật tức là niệm tự tâm. A Di Đà Phật là Phật trong tâm chúng sinh, Phật không lìa khai tâm chúng sinh, cho nên khi chúng ta niệm Phật chính là niệm tự tính Phật trong tâm chúng ta, đã niệm Phật trong tự tâm rồi thì có Phật nào nữa mà cảm ứng, lúc đó tự tâm cảm ứng tự tâm. Chẳng những Phật A Di Đà ở trong tâm chúng sinh mà mười phương chư Phật cũng ở trong tâm chúng sinh. Chúng sinh như đứa con thơ trong tâm chư Phật, đã là đứa con thơ ở trong tâm Phật thì Phật nào mà chẳng từ bi tiếp dẫn, chẳng thương nhớ chúng sinh. Vì thế Đức Phật A Di Đà luôn thương nhớ chúng sinh, Ngài luôn hy vọng những đứa con lầm đường lạc lối của mình sớm trở về ngôi nhà Cực Lạc, sớm thành tựu ba đức của Ngài, đó là Trí đức, Ân đức và Đoạn đức, cũng là đức Pháp thân, đức Giải thoát, đức Bát nhã.
Chúng ta trăm ngàn đại kiếp đã lầm đường lạc lối mê lầm, cho nên ngày nay vẫn còn trôi lăn trong vòng sinh tử. Vì thế ngày nay cần phải phát tâm chí thành, lão thật niệm Phật, nếu tâm nhớ đông nhớ tây, tư tưởng loạn động, làm sao niệm Phật có cảm ứng được?
5.- Chuẩn bị tư lương vãng sinh Tây phương
Chúng ta tham dự Phật thất chú trọng ở chỗ thực hành, nếu có điều chi nghi ngờ phải nên thỉnh giáo, dụng công có thông mới có lợi ích thiết thực, nếu có trở ngại thì công phu khó mà thành tựu được. Đối với chúng ta điều thiết yếu quan trọng nhất là phải dụng công niệm Phật cho nhiều, lễ Phật cho nhiều!
Chúng ta học Phật phải chú trọng ở điểm thực hành, nếu tu hành mà chỉ nghiêng về nghiên cứu kinh sách, dù cho bạn thông suốt đến đâu cũng không được vãng sinh, đôi khi còn bị mắc vào sở tri chướng. Nếu muốn vãng sinh, bạn cần phải nhờ vào công đức của danh hiệu, lấy đó làm tư lương. Chúng tôi hy vọng mọi người không nên vì việc làm công quả mà phế bỏ việc niệm Phật. Cần phải từng giây, từng phút chấp trì Thánh hiệu chuẩn bị tư lương vãng sinh Tây phương. Thời gian thấm thoát thoi đưa, không chờ đợi một ai, kính thỉnh chư vị niệm Phật cho thật nhiều, nhất tâm cầu sinh Tây phương.
NGÀY THỨ SÁU
Niệm Phật chú trọng cầu vãng sinh,
Xả bỏ pháp này khó giải thoát.
1.- Chỉ y theo niệm Phật độ sinh tử
Ấn Quang Đại sư có nói: “Đời mạt pháp chỉ có chấp trì danh, niệm A Di Đà Phật mới có thể giải thoát. Tu hành các pháp môn khác khó mà được giải thoát”. Nói như thế, người không hiểu lý sẽ không bao giờ chịu phục. Tại sao chỉ vì một câu A Di Đà đơn giản lại dám phế bỏ đi tất cả những lời dạy khác của Đức Phật mà Ngài đã dạy trong cả một thời đại? Nói như thế chứng tỏ bạn là người không thông hiểu Phật pháp, đạo pháp cũng có thời đại của nó. Giống như người nông dân trồng trọt cũng phải y theo thời tiết, nếu gieo giống không đúng mùa làm sao giống có thể mọc được. Thời đại nào cũng có ảnh hưởng của thời đại đó. Phật pháp cũng phân chia thành ba thời kỳ là chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp. Thời đại chúng ta hiện đang là thời kỳ mạt pháp, nếu bạn không thành tâm niệm Phật mà cho rằng các pháp là tốt, đương nhiên các pháp môn khác cũng tốt, song không hợp thời cơ.
Phàm một sự vật hay sự việc gì dù tốt đến đâu cũng có thời hạn sử dụng của nó, nếu hết thời hạn sử dụng chất lượng sẽ không có. Cũng như trời đông lạnh giá, bạn nói mặc áo lụa cho mát mẻ thì sai rồi. Áo lụa chỉ thích hợp cho mùa hè mà thôi. Ngược lại, vào ngày hè thời tiết nóng nực, bạn lại nói mặc áo da, áo bông là tốt. Áo bông, áo da chỉ có tác dụng chống lạnh. Đương nhiên mặc nó cũng tốt, song chỉ tốt cho ngày đông, bạn không thể mặc nó vào mùa hè mà cho là tốt được, chứng tỏ bạn là người không hiểu rõ thời tiết. Vì thế, tất cả các pháp không kể là thế gian hay xuất thế gian đều lệ thuộc vào nhân duyên và thời tiết mà sinh sinh diệt diệt.
Pháp môn đã thuộc vào đệ nhất nghĩa đế, đương nhiên cũng tùy thuộc vào thời tiết nhân duyên mà có tác dụng, đó là điểm mọi người cần phải nhận thức cho rõ. Vào thời đại ngày nay, chỉ có một câu “A Di Đà Phật” mới có thể liễu sinh thoát tử. Bạn muốn vãng sinh Tây phương không còn thọ nhận khổ đau thế gian thì bạn cần phải có chánh tri kiến, có tín tâm mới có thành tựu được. Bạn không nên nghe người khác nói pháp môn này tốt, pháp môn kia vi diệu rồi tin theo. Bạn cần phải biết rằng: “Thiên kinh vạn luận, xứ xứ đều quy hướng Tịnh độ, Tổ Tổ Thánh hiền xưa nay chỉ quy hướng Tây phương”, đó là điểm các bạn cần phải chú ý. Vào thời đại này duy chỉ nương theo niệm Phật mới được độ thoát, trừ niệm Phật ra, tu các pháp môn khác khó mà được giải thoát. Tôi thường giới thiệu cùng chư vị lời dạy của Tổ Ấn Quang, vì sao? Vì lời của Tổ dạy từng câu từng chữ đều khế hợp với kinh điển, đều được Tổ căn cứ trên kinh điển mà nói. Thí dụ như Tổ có nói: “Thời đại hiện nay, xả bỏ pháp môn niệm Phật không thể giải thoát, không thể liễu sinh tử”, lời nói này rất hợp với lời Phật dạy trong Kinh Đại Tập: “Thời đại mạt pháp ức ức người tu ít có người đắc đạo, duy chỉ y theo pháp môn niệm Phật mới được độ thoát”. Đó là một sự thật, vì thời đại ngày nay, là thời đại mạt pháp, căn khí của chúng sinh không còn sâu dày lanh lợi như thời tượng pháp và chánh pháp, nếu tu tự lực thật khó mà giải thoát, khó có được một người thành tựu, duy chỉ có nương theo pháp môn niệm Phật mới có thể giải thoát, chỉ vì pháp môn niệm Phật dễ thực hành, đơn giản mà lại dễ thành tựu, bất cứ hạng người thuộc căn cơ nào cũng tu được.
Lời dạy của Phật trong kinh điển mọi người cần phải tin, nếu không tin thì không phải là người Phật tử. Nhất là thân làm người xuất gia, ăn cơm Phật mặc áo của Phật, bạn không thể tuyên dương chánh pháp là điều không thể nói rồi, nếu ngay lời Phật dạy cũng không tin, thậm chí lại còn hủy báng pháp môn niệm Phật, không tin lời Phật, lời Tổ tức bạn là quyến thuộc của ma, như vậy làm sao tránh khỏi quả báo, làm sao đủ chánh tri kiến học Phật được?
2.- Một câu niệm Phật đủ lục độ
Phật thường dạy: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Thật vậy, chúng ta là người học Phật, cố nhiên không phải chỉ học một pháp môn mà cần phải học tất cả các pháp môn khác. Thế nhưng, bạn phải biết pháp môn niệm Phật là pháp môn tổng trì, có đầy đủ vô lượng vô biên các pháp. Tôi thường thí dụ danh hiệu A Di Đà Phật giống như thức ăn duy trì thân mạng, nếu bạn không ăn thân thể sẽ trở nên tiều tụy. Vì một câu A Di Đà Phật đầy đủ tứ nhiếp pháp, lục độ vạn hạnh. Liên Trì Đại sư cũng có nói: “Một khi khởi niệm danh hiệu đã đầy đủ vạn đức, một khi trì danh đã đầy đủ trăm hạnh”, nói như thế người không có trí tuệ sẽ không thể nào lãnh thọ, không thể hiểu được, đồng thời cũng không tin.
Bình thường có một số người ngộ nhận rằng: “Một câu A Di Đà Phật đã đầy đủ lục độ vạn hạnh, tứ nhiếp, như vậy chúng ta tu lục độ và hành tứ nhiếp pháp thì không cần phải niệm Phật nữa”. Bạn cần phải biết chúng ta niệm Phật là để cầu sinh Tây phương. Trong Kinh A Di Đà, Phật có
dạy: “Không thể nào lấy một chút ít phước đức nhân duyên mà được sinh sang nước ấy”. Chúng ta nhất định phải có lòng tin kiên cố, trước tiên lấy câu A Di Đà Phật trì niệm cho chí thành, có như thế nghiệp chướng mới tiêu trừ, trí tuệ mới phát sinh, sau đó mới tu tập các pháp khác. Vì sao trước tiên chúng ta phải chấp trì Thánh hiệu? Vì trong Thánh hiệu đã có đầy đủ công đức tứ nhiếp pháp và lục độ vạn hạnh, nên chúng ta cần phải niệm Phật cho nhiều, nhờ vào công đức của niệm Phật làm cơ sở, nền móng cho chúng ta, sau đó mới tu tứ nhiếp và lục độ, có như thế con đường tu đạo mới thông, từ chỗ thông rồi, dụng công mới nhẹ nhàng, mới có an ổn được.
Tuy nói cần tu lục độ vạn hạnh, song, chúng ta là người niệm Phật cần phải chú trọng ở việc cầu sinh Tây phương. Sinh Tây phương chứng được vô sinh pháp nhẫn rồi, sau đó mới trở lại đạo tràng trong mười phương thế giới, rộng độ chúng sinh, viên mãn hạnh nguyện Bồ đề, có như thế mới xứng đáng là người tu niệm Phật.
Những lời nói trên đều đã được chư Tổ nói trong quá khứ. Lời Tổ nói đều căn cứ theo kinh điển, tôi chỉ đem lời nói của các ngài mà phân tích, diễn bày cho chư vị dễ hiểu. Thật ra lời nói đó không khác gì lời dạy của chư Tổ. Tại sao tôi lại dám biến đổi lời dạy của chư Tổ? Vì muốn khế lý khế cơ theo thời đại. Nếu nói hoàn toàn giống lời văn trong kinh điển, e rằng sẽ có người không thể hội được, vì thế cần phải tùy theo hoàn cảnh, tùy theo căn cơ của mọi người mà nói. Song dù trăm thuyết ngàn thuyết cũng không lìa nghĩa lý, giống như các nhà khoa học y khoa hiện tại rất tiến bộ, đã phát hiện ra nhiều chất dinh dưỡng để duy trì mạng sống nhân loại, cho nên tôi cũng lấy thí dụ danh hiệu A Di Đà vạn đức hồng danh dạy người cho dễ hiểu, quý vị có nhận thức được không?
3.- Hạnh Đại thừa bất não chúng sinh
Bình thường có một số người cho rằng, nếu người tu theo Đại thừa, thì người đó phải ở tại thế giới Ta Bà, hành Bồ tát đạo, rộng độ chúng sinh mới đúng là Đại thừa, nếu nói cầu sinh Tây phương tức là Tiểu thừa. Bạn nói như vậy không sai, người tu theo Phật pháp là cần phải độ chúng sinh, phải xả tự kỷ để hành lợi tha, chỉ có độ chúng sinh mới có thể báo đáp ân đức của Phật, mới có thể thành Phật đạo. Song bạn phải tự suy xét mình có đủ năng lực độ chúng sinh hay không? Nếu có, bạn cứ lấy lợi tha để làm tự lợi cho việc tu hành. Chúc bạn độ tha sớm thành Phật đạo.
Chúng ta hiện nay là tội chướng phàm phu, sinh vào thời đại mạt pháp, nhưng được may mắn gặp được Phật pháp, lại có đủ lòng tin để tu hành. Điều đó chứng tỏ chúng ta là người đã nghe Phật pháp trong nhiều đời nhiều kiếp, là người có thiện căn; người không có thiện căn chắc chắn không thể gặp được Phật pháp. Chỉ vì chúng ta có nghiệp chướng nặng nề nên đến ngày nay chưa được giải thoát. Tuy là tu thiện, thế nhưng không thể tránh hẳn được làm ác, thiện cũng chưa thuần. Một mặt tu đức, một mặt thì làm tổn đức; hoặc tuy giữ giới, song chưa tu phước tuệ, không kết thiện duyên với người. Vì thế, chúng ta muốn độ chúng sinh cần phải có thứ lớp, trước tiên cần phải trì giới cho tốt, lấy giới làm cơ sở, tự cầu giải thoát, tiếp theo là tu hạnh Bồ tát rộng độ chúng sinh, cho nên mới nói “leo cao ắt phải từ dưới thấp, đi xa ắt phải từ chỗ gần”.
Phải có thứ lớp như thế bạn mới có an ổn, nếu không nhất định bạn sẽ gặp phải sai lầm. Tại sao? Trong luận có nói: “Tự thân chưa độ mà độ người, tức là không có”. Bạn nói độ chúng sinh tốt, song cần phải cảnh giác, phải thấy mình có đầy đủ đạo lực hay không, nếu không chẳng những bạn không độ được chúng sinh mà ngược lại bị chúng sinh độ nữa là khác. Kỳ thật người niệm Phật là người đang hành đạo Bồ đề, cầu sinh Tây phương, một khi hoa nở liền thấy Phật, ngộ vô sinh pháp nhẫn, sau đó trở lại khắp mười phương rộng độ chúng sinh, theo bạn thì như vậy đúng hay là sai? Chẳng lẽ lời dạy của chư Phật, chư Tổ lại cần bạn chấn chỉnh hay sao? Nếu bạn là người chân thật có trí tuệ, sao lời nói của bạn không tương ưng với lời dạy của chư Phật.
Hiện tại chúng ta không hại chúng sinh là tốt, là quý lắm rồi. Nếu bạn không muốn làm hại chúng sinh thì bạn cần phải giữ giới hạnh cho thanh tịnh, bạn hại chúng sinh tức là phạm giới. Nếu bạn không muốn làm hại chúng sinh, gây khổ đau sầu não cho chúng sinh, bạn cần phải trì giới cho thanh tịnh, nếu không làm sao bạn có thể tu lục vạn hạnh độ chúng sinh hay đạt được sự thanh tịnh viên mãn được. Quý vị ở đây những người có chí, có tâm thiết tha tu hành, kính xin chư vị không nên nói pháp môn niệm Phật không tốt, rồi đánh mất đi nhân duyên hy hữu được vãng sinh của chính mình.
4.- Tưởng nhớ Pháp sư xin niệm Phật
Ấn Quang Tổ sư có khuyên người xuất gia, nếu có nhớ đến ngài xin hãy tha thiết dụng công mà niệm Phật. Nếu bạn niệm Phật cho tốt, tương lai nhất định cũng có năng lực như Pháp sư. Nếu bạn không tu trì phước đức lại muốn nghiên cứu kinh điển, học làm Pháp sư, vì làm Pháp sư thăng tòa uy phong ai mà chả thích, song việc đó bạn có làm được hay không? Nếu trong quá khứ bạn không có trồng nhân đó, không có năng khiếu và năng lực, nhân duyên không đầy đủ thì cũng không nên luống phí tâm lực, hoang phí thời gian làm gì, mà cần phải chí tâm niệm Phật, lạy Phật. Vì “lễ Phật một lễ tội diệt hà sa, niệm Phật một câu phước tăng vô lượng”. Bạn cứ như vậy mà dụng công tám năm, mười năm sau, muốn làm Pháp sư cũng chưa muộn. Thật ra không cần học, tự nhiên bạn cũng có thể giảng kinh thuyết pháp được, cũng có thể độ chúng sinh được. Vì thế bạn cần phải theo thứ lớp mà học tập, giống như ban đầu vào chùa làm tiểu sa di, năm năm đầu phải tinh chuyên giới luật, năm năm sau mới nghe pháp tham thiền học đạo, niệm Phật, có như thế nghiệp chướng mới tiêu trừ, về sau thành tựu mới lớn. Nếu không học căn bản, cứ học những điều cao xa, làm sao thành tựu được. Hy vọng chư vị học giả sơ phát tâm phải nên như vậy, không nên hy vọng cao xa, mà phải lão thật dụng công mới tốt.
Tổ sư Ấn Quang sở dĩ khăng khăng không nhận đệ tử xuất gia cũng vì nguyên nhân đó. Ngài e ngại rằng nếu nhận người xuất gia thì họ sẽ học đòi làm Pháp sư, sợ họ không đủ giới đức tu hành, luống thọ của đàn na ắt hẳn sẽ đọa lạc. Hiện tại đa số người xuất gia đều như vậy, cứ vào chùa cạo đầu, chỉ biết lo thụ hưởng, không nghĩ đến bổn phận cao quý của người xuất gia, chỉ tu tập cho qua ngày đoạn tháng, chớ không bao giờ nghĩ đến việc giải quyết sinh tử, cứu độ chúng sinh, thậm chí còn làm mất chánh kiến cho hàng Phật tử tại gia, làm cho đạo pháp ngày càng đi vào con đường suy đồi. Thảo nào cổ đức có nói: “Người xếp hàng trước cửa địa ngục nhiều nhất là Tăng chúng”. Ngày nay thậm chí những người làm sư phụ cũng đều như vậy, bản thân không có thân giáo, lại nhận đệ tử, tự mình không có gì để làm nơi nương tựa tu tập, không có kinh nghiệm, làm sao dạy đạo hạnh, công phu cho hàng đệ tử. Từ chỗ thầy không tốt, cho nên dẫn đến đệ tử không làm sao tốt được.
Nếu bạn có thể noi theo gương Hòa thượng Quảng Khâm mà học tập thì tốt nhất. Học Hòa thượng ở cái gì? Học cái khổ hạnh của ngài, mấy mươi năm tu tập trên núi không thọ nhận của đàn na đã đành, thế nhưng sau khi trở về thế gian được thí chủ cúng dường ngài không bao giờ có tâm tham trước, ngài ăn mặc rất đạm bạc thô sơ giản dị, bao nhiêu của ngon ngọt của đàn na cúng dường cho ngài, ngài đều chia cho đại chúng, đều lo cho Phật sự. Vì thế bạn muốn học đạo cho tốt, hãy nên xem ngài là tấm gương mà học tập. Nếu bạn không học, không khổ công tu hành, lại vọng tưởng làm cái này cái nọ thật chẳng khác nào bỏ gốc mà theo ngọn, giống như người nông dân không có cày bừa, không cần cù siêng năng mà lại muốn lúa khai hoa kết nhụy. Vì thế kính thỉnh chư vị sơ phát tâm, phải khổ luyện cho vững chắc, có khổ luyện mới có thành tựu lớn, như vậy mới không phụ công lao học Phật của chính mình.
Hòa thượng Quảng Khâm không hề thuyết pháp hay giảng kinh, thế nhưng ngài lại là một đại Pháp sư, mọi người thấy ngài đều quy kính, lễ lạy, ngài không có học vị tiến sĩ, thạc sĩ hay bác sĩ, nhưng thành phần đệ tử quy y với ngài đều là những hạng người đó. Chúng ta thử xem, Hòa thượng Quảng Khâm không có giảng kinh mà đã có thể độ nghìn vạn người, hà huống gì ngài thuyết pháp giảng kinh sẽ độ biết bao nhiêu người? Ngài dựa vào cái gì? Dựa vào công đức trì giới trang nghiêm, dựa vào công phu thiền định tịch tịnh, dựa vào niệm Phật. Chư vị nên biết, Hòa thượng không phải là không giảng kinh được, song chỉ vì ngài không lấy đó làm nhu yếu, ngài chỉ lấy giới đức trang nghiêm, lấy công phu chân thật là đã đủ độ người rồi. Cho nên nói thân giáo bao giờ cũng quan trọng hơn khẩu giáo. Như vậy tại sao chúng ta không thể noi theo học tập Hòa thượng được? Chỉ vì chúng ta quá ư giải đãi. Bạn có bao giờ thấy người nào giải đãi mà đạo nghiệp hay học vấn thành tựu không? Do đó, chúng ta chỉ có tinh tấn niệm Phật mới có thành tựu vãng sinh Tịnh độ được.
5.- Tâm, miệng niệm Phật dễ tương ưng
Chư vị về đây tham dự Phật thất, thông thường mà nói, niệm Phật chỉ dụng tâm niệm, mà không dụng miệng niệm. Song, chúng ta tu pháp môn Tịnh độ chú trọng Trì danh niệm Phật, pháp Trì danh là từ kim khẩu của Đức Thế Tôn thuyết, cho nên lấy miệng chấp trì danh hiệu cũng rất trọng yếu. Như trên đã nói, niệm Phật là dụng tâm niệm, không cần dụng miệng niệm; nên biết rằng tâm niệm đương nhiên là trọng yếu, song không thể phế bỏ miệng niệm. Người xưa căn tính rất lanh lợi nên khi dụng tâm niệm, niệm Phật Thật tướng đương nhiên là có thể được. Song, hiện tại chúng ta đang ở thời đại mạt pháp, căn tính không thể sánh với người xưa được. Cho nên, chúng ta không thể phế bỏ miệng niệm, miệng niệm nếu có thể tương tục không gián đoạn, niệm niệm rõ ràng, tuy tu Trì danh nhưng cũng có thể đạt đến Thật tướng.
Mọi người cần phải biết, chữ “niệm” trong hai chữ “niệm Phật” là do hai chữ “kim, tâm” hợp lại mà thành. Chúng ta tu Trì danh niệm Phật, cố nhiên là phải dùng miệng niệm, song không phải là quên tâm đi, mà nhất định dụng tâm để niệm. Dụng tâm như thế nào? “Kim, tâm”, chữ “kim” chỉ cho hiện tại, là giây phút hiện tại, giây đầu tiên là hiện tại, thế nhưng khi bước sang giây thứ hai, thì giây thứ nhất đã trở thành quá khứ rồi. Giây đồng hồ chạy tích tắc, tích tắc rất có quy luật. Tâm chúng ta niệm Phật cũng như giây đồng hồ vậy, từng giây từng giây, tích tắc tích tắc, không ngừng niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật... câu này tiếp nối câu kia, niệm không cho gián đoạn, câu này qua liền chú ý vào câu kế tiếp, niệm niệm phải từ tâm mà lưu xuất. Nếu tâm không chú ý tức tâm bạn đã tán loạn, tâm tán loạn làm sao mà thành tựu việc vãng sinh được?
Chúng ta niệm Phật là nhờ vào tha lực, tức là nhờ vào nguyện lực đại từ bi của Phật A Di Đà. Song, trong khi niệm bạn không được quên tâm chí thành, tâm cung kính, mỗi câu danh hiệu từ tâm thành kính mà lưu xuất, miệng niệm từng câu từng chữ rõ ràng, tai nghe từng câu từng chữ rõ ràng. Nếu miệng bạn niệm mà tâm không chú ý tức bạn sẽ bị vọng tưởng khởi lên, cho nên điều quan trọng là bạn phải dụng tâm mà niệm. Mọi người phải chú ý, nếu không dụng tâm mà niệm, thì giống như Đại sư Hám Sơn có nói: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, chỉ luống phí mất công”. Cho nên khi niệm Phật mà bạn không dụng tâm chú ý vào câu Thánh hiệu, tán loạn sẽ khởi lên. Nếu có chú ý thì tâm khó mà tán loạn được. Khi công phu niệm Phật, chúng ta phải tùy trước vào thời gian, không lo ngại đến tán tâm hay hôn trầm. Nếu bạn có thể chân thật dụng “kim, tâm” mà niệm, thì càng niệm tâm bạn sẽ càng an lạc, càng niệm tâm càng thanh tịnh. Một giờ công phu là một giờ an lạc, một giờ công phu là một giờ giải thoát. Bạn niệm Phật mà cảm thấy khổ đau hay khó chịu, không thích thú, chứng tỏ trong quá trình dụng công niệm Phật tâm bạn có nhiều vọng tưởng, do có vọng tưởng nên tâm không an, tâm không an tức là tâm tán loạn, tâm tán loạn thì làm sao có an lạc được.
Bạn cần phải biết “Phật” có nghĩa là giác. Chúng ta niệm Phật tức là chúng ta thời thời giác ngộ. Bạn có thể dụng “kim, tâm” mà niệm, từng giây từng phút niệm niệm rõ ràng, bạn sẽ có được an lạc và tự tại. Bạn muốn có pháp lạc chỉ cần bạn niệm niệm tương ưng, tương tục là có thể đạt được pháp lạc của việc tu hành, không có một thú vui nào trong thế gian có thể sánh bằng.
Nếu bạn có thể dụng “kim. tâm” mà niệm, thì một ngày công phu bạn có thể đạt đến mười vạn câu. Thế nhưng đối với người sơ phát tâm, một ngày công phu niệm được bốn hay năm vạn câu là khá lắm rồi. Chư vị sơ phát tâm phải chú ý điều đó, vì chúng ta là người mới tập tểnh bước vào công phu, chư vị chỉ cần quy định bốn hay năm vạn câu là khá nhiều, không nên học đòi theo những người có công phu thành thục, mong muốn mình như họ niệm mười vạn câu. Thế nhưng, khi vào công phu chúng ta mới thấy được, mình không thể làm được việc đó, lý do vọng tưởng mình quá nhiều. Từ chỗ công phu không thành tựu như người thành thục sẽ dẫn đến tâm lý bức xúc, đó là kinh nghiệm tu hành xin chư vị sơ phát tâm chú ý cho. Điều thiết yếu, công phu niệm Phật không chú trọng ở nhiều hay ít, mà là ở chỗ tâm có an định hay không.
6.- Hữu tình, vô tình niệm niệm sinh diệt
Nói đến tâm, chúng ta chung quy là có tâm hay không? Thực tế là không có tâm, tại sao lại không có tâm? Vì không kể là hữu tình hay vô tình đều có bốn giai đoạn sinh, trụ, dị, diệt. Kỳ thật nói là “trụ” nhưng thực thể của nó vốn niệm niệm biến diệt. Lấy thí dụ cái bàn chẳng hạn, tuy nhìn bên ngoài bình thường như thế, nhưng thực thể bên trong của nó biến diệt không ngừng, một sát na trôi qua, nó đã không còn như trước nữa. Bất kể là sơn hà đại địa, hữu tình hay vô tình đều phải chịu bốn quy luật sinh, trụ, dị, diệt. Ngay như con người của chúng ta cũng vậy, nó cũng phải chịu bốn quy luật sinh, lão, bệnh, tử.
Tâm chúng ta thay đổi so với vật chất nhanh hơn nhiều, nhanh đến tốc độ nào? Trong kinh luận thường nói: “Trong một cái khảy móng tay có chín mươi sát na, trong một sát na có chín trăm niệm sinh diệt”. Tốc độ đó nhanh không? Lấy thí dụ cho dễ hiểu, như máy cắt giấy chẳng hạn, chỉ cần bấm máy một cái “cạch” thôi, trong nháy mắt đã có một nghìn trang giấy bị cắt, thời gian máy cắt là một sát na, còn một nghìn trang giấy bị cắt là biến đổi của một sát na. Trong một sát na sinh diệt cũng có sát na sinh diệt quá khứ, hiện tại và tương lai. Cũng là một lần cắt, thế nhưng trang này cắt trước, trang kia cắt sau, tuy không được cắt đồng thời một lần, nhưng có chung một sát na.
Tốc độ biến đổi của một sát na cực nhanh, cực ngắn, nhãn quan phàm phu chúng ta không thể nhìn thấy được. Duy chỉ có nhãn quan của Phật mới nhìn thấy được thôi. Hiện tại các nhà khoa học nghiên cứu chưa đạt đến trình độ đó. Chúng ta cũng biết tốc độ điện đàm của máy điện thoại nhanh đến mức độ nào, chỉ cần chúng ta bấm số thôi, trong giây lát đã có thể nói chuyện với người mình cần gặp, như đang đối diện trước mặt, dù cách xa nhau đến hàng nghìn cây số. Sự hiểu biết chúng ta có giới hạn không được thông suốt như Phật. Bạn muốn đạt được nhãn quan như Phật, muốn thấy được bản lai của các pháp, xin hãy tinh tấn mà niệm Phật.
7.- Tu hành theo đệ nhất nghĩa đế
Bạn phải biết rằng vui thế gian là nguồn gốc của đau khổ, nếu bạn không hiểu biết điểm này, mà lại tham đắm vào tài của, sắc đẹp, danh lợi, ăn ngon, ngủ nghỉ thì không bao giờ có ngày liễu sinh thoát tử. Đã không biết thú vui thế gian là nguồn gốc của đau khổ, thì làm sao có thể xả bỏ nó được? Không xả bỏ nó làm sao có được tự tại? Hưởng thọ tình ái, ngũ dục thế gian có bao giờ tìm thấy được chân hạnh phúc. Bạn nên biết rằng ngũ dục trong thế gian như nước muối vậy, bạn càng uống càng khát, cho nên người học Phật chúng ta nên giác ngộ mà xả bỏ nó đi, nếu không thì mãi mãi chìm đắm trong bể khổ sinh tử, làm sao có ngày giải thoát được. Vì thế, mọi người hãy đem thế gian tình mà đoạn trừ nó đi. Phật pháp không có giảng nói thế gian tình, mà chỉ nói đến tình xuất thế gian, đó là liễu sinh thoát tử. Vì thế chư vị tự mình phải giác ngộ mới có thể tu hành được.
Phật pháp giảng nói đệ nhị nghĩa đế, đương nhiên cũng có nói đến trung hiếu, nhân nghĩa... Song, chúng ta chân chính tu hành thì không thể y theo đệ nhị nghĩa đế, hay thế gian tình được, mà chỉ có y theo đệ nhất nghĩa đế tu hành mới có thể giải thoát, cho nên mới có nói: “Không y đệ nhất nghĩa đế, không thể đắc Bát nhã giải thoát”. Nếu có thể như vậy mà dụng công tu hành thì đạo nghiệp mới thành tựu, mới có thể trở lại độ chúng sinh được, mới chân chính được gọi là: “Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian mà giác ngộ, nếu lìa thế gian mà tìm Bồ đề, chẳng khác đi tìm lông rùa sừng thỏ”. Bạn muốn độ chúng sinh nhất định đạo nghiệp phải viên thành, phước tuệ viên mãn, phải liễu sinh thoát tử mới trở lại độ chúng sinh được. Bằng không, mơ mơ hồ hồ, không theo thứ lớp, không phân biệt được trước sau, thì càng tu càng hỏng bét. Làm sao có thể liễu sinh thoát tử? Muốn liễu sinh thoát tử, kính thỉnh mọi người nên chí tâm mà niệm Phật.
NGÀY THỨ BẢY
Dụng công có diệu pháp gì?
Trì danh niệm Phật tối thượng thừa.
Đối với phương pháp niệm Phật, giả như bình thường mọi người đã có phương pháp thực hành rồi, lại thấy phương pháp đó thích hợp, công phu có thành tựu thì cứ nên theo đó mà thực hành. Những người sơ phát tâm nếu chưa có phương pháp nào thực hành thì xin hãy lắng tâm nghe tôi nói đây.
1.- Ba nghiệp tương ưng công phu thành tựu
Công phu niệm Phật không phải một ngày, hai ngày mà có thể thành tựu. Làm sao cho nhanh chóng? Nếu ngày nay dụng công không tốt, thì ngày sau lại dụng công, nếu ngày sau nữa lại không tốt thì lại tiếp tục ngày ngày sau nữa, cứ thế dụng công đến khi nào thấy tốt mới dừng. Dụng công như thế nào là tốt? Đó là ba nghiệp thân, khẩu, ý có thể tương ưng với Phật, không loạn tưởng, ngày đêm an lành, tâm nhớ Phật, miệng niệm Phật, thân lễ Phật, có thể chấp trì danh hiệu không quên không gián đoạn như vậy mới tốt.
Trước tiên nói về thân nghiệp. Khi ngồi cần phải thẳng thắn, thân không cúi về phía trước hay ngã về phía sau, luôn giữ cho lưng thẳng đứng. Chân cần phải ngồi xếp bằng, bán già hoặc kiết già tùy theo năng lực. Đầu không nghiêng qua phải, qua trái mà luôn giữ cho thẳng thắng, không nên cúi tới trước, hoặc ngã về phía sau. Đối với tay, lấy tay phải để lên tay trái đặt trên đùi. Mắt không liếc trái, liếc phải, mà nhìn theo sống mũi, cách chỗ ngồi khoảng ba hoặc bốn tấc. Nếu thấy trong người mệt mỏi, hoặc buồn ngủ nên mở mắt, nếu nhắm mắt sẽ đưa đến hôn trầm. Trong khi công phu nếu thấy tinh thần sảng khoái nên khép mắt lại. Chú ý toàn thân các cơ luôn buông thả, chỉ giữ sao cho cột sống luôn thẳng đứng, lưng không được cong, vì cong sẽ dẫn đến đau lưng, cũng không được ưỡn về phía trước quá, vì ưỡn quá sẽ dẫn đến tức ngực.
Đối với khẩu nghiệp, không kể là niệm thầm, niệm lớn hay niệm trung bình, Kim cang niệm hay mặc niệm tất cả đều tốt, chỉ quý ở chỗ là làm sao “niệm niệm tương tục”, không cho gián đoạn.
Trong quá trình công phu, bạn thấy mình bị hôn trầm hay tán loạn nên niệm lớn, niệm lớn không có nghĩa là bạn niệm quát tháo lên, để cho tổn hao thần lực, mà niệm ở đây là niệm vang rền từng câu từng chữ rõ ràng, âm thanh vừa đủ tai nghe. Âm thanh niệm không nên cao quá, cũng không nhỏ quá, mà nên trung bình. Đó là những phương pháp, bạn xem thử mình thích hợp với phương pháp nào, rồi chọn lấy một mà thực hành. Song, hiện tại chư vị đang tu tập theo đại chúng, nhất nhất đều nên theo chúng. Không nên chúng niệm nhanh mình lại niệm chậm, chúng niệm chậm mình lại niệm nhanh, mà cần phải hòa đồng với chúng, cùng chúng dị khẩu đồng âm mới dễ thu nhiếp thân tâm, tâm mới có thanh tịnh được.
Kim cang niệm, tức là niệm chỉ có một mình bạn biết, người bên cạnh không thể thấy biết được. Nếu miệng không động, chỉ niệm trong tâm gọi là mặc niệm, mặc niệm là niệm không ra tiếng. Tuy không niệm ra tiếng, song tự tâm của bạn phải niệm từng chữ từng câu cho rõ ràng, tai cũng nghe từng chữ từng câu rõ ràng, có như thế mới dễ tương ưng.
Như thế nào là ý nghiệp tương ưng? Trong khi niệm Phật bạn cần phải chú ý, nắm lấy câu danh hiệu mà niệm. Ý niệm từng câu, từng chữ rõ ràng, như vậy bạn niệm nghìn vạn câu mà trong tâm không có tạp loạn, dụng công lâu ngày ắt sẽ có tự tại và an lạc, không hôn trầm, không tán loạn, công phu trở nên thành thục tương ưng “một niệm tương ưng một niệm Phật”. Công đức niệm Phật như thế không thể nghĩ bàn, kính thỉnh mọi người thành tâm dụng công niệm Phật. Mỗi câu danh hiệu có thể niệm như trên, thì mỗi một câu niệm Phật ba ngàn thế giới đều có thể nghe được, âm thanh chu biến khắp ba ngàn thế giới, công đức như thế có lớn không? Nếu có thể “niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật” thì mười phương các nước chư Phật đều nghe được, như vậy một câu danh hiệu, âm thanh chu biến khắp pháp giới, công đức đó mới chân thật là lớn. Kính thỉnh chư vị chí tâm niệm Phật, nếu không thời gian trôi qua thật tiếc thay! Thật tiếc thay!
2.- Phật thủ bất tận dụng bất kiệt
Chúng ta mở mắt ra thấy tượng Phật, nhắm mắt lại thấy tượng Phật đó là Quán tượng niệm Phật. Hiện tại ở đây chúng ta chỉ chú trọng Trì danh niệm Phật, nên quán tưởng như thế nào? Quán nghĩa là quán chiếu, cũng có nghĩa là chú ý, tập trung tâm lực lại một chỗ. Chúng ta tu trì danh là tập trung chú ý vào danh hiệu, niệm từng câu từng chữ sao cho rõ ràng, chú ý vào âm thanh câu thánh hiệu, dụng nhĩ căn quán chiếu. Nếu miệng niệm mà tâm không chú ý, đó là tâm bạn đã bị loạn tưởng rồi. Người niệm Phật là đem âm thanh danh hiệu tập trung lại, phản quan nghe lại âm thanh, tức là tu nhĩ căn, từng tiếng từng tiếng rõ ràng tâm nhớ không quên đó là bạn nhớ Phật niệm Phật. Niệm Thánh hiệu là Phật A Di Đà, tai nghe rõ ràng là Quán Thế Âm, nhớ Phật là Đại Thế Chí, như vậy người niệm Phật là lấy Tây phương Tam thánh làm cảnh giới y chính trang nghiêm, làm cảnh giới cho chánh niệm.
Danh hiệu Phật phải lưu xuất từ đâu? Phải lưu xuất từ tâm của bạn, lưu xuất từ tâm mới có thể trì niệm lâu dài, như thế mới có thành tựu. Vì tâm là chủ thể của các pháp, tâm được ví như nguồn nước không bao giờ cạn. Bạn thấy giếng nước có những mạch nước luôn luôn chảy không gián đoạn, nó cung cấp nước cho chúng ta, có bao giờ bạn xài hết giếng nước không? Cho nên tục ngữ mới có câu “thủ chi bất tận, dụng chi bất kiệt” là vậy.
“Thủ chi bất tận” chỉ cho tự tính Phật, “dụng chi bất kiệt “ chỉ cho âm thanh câu Thánh hiệu A Di Đà Phật mãi mãi chuyển biến khắp mười phương, hiện nay các nhà khoa học cũng đã chứng minh được điều đó. Lấy thí dụ cho dễ hiểu, khi bạn ở bờ Tây biển Thái Bình Dương, bạn lấy tay khuấy động lên mặt biển lập tức sẽ có một làn sóng chạy đến bờ Đông, tuy khuấy nhẹ như vậy mà làn sóng chuyển biến khắp nơi. Cũng giống như vậy, khi chúng ta niệm Phật, công đức A Di Đà Phật chu biến khắp pháp giới, cho nên một câu Thánh hiệu cũng là viên chứng pháp giới, và một câu A Di Đà Phật cũng chính là pháp giới, pháp giới cũng chính là Thánh hiệu A Di Đà Phật. Hiện tại âm thanh niệm Phật của chúng ta không chỉ giới hạn trong phạm vi niệm Phật đường này, không chỉ có những người trong niệm Phật đường nghe thôi, mà các thế giới khác cũng nghe được. Danh hiệu Phật chu biến khắp pháp giới thì mười phương thế giới chư Phật cũng nghe được.
Như vậy, hiện tại sao chúng không nghe được âm thanh niệm Phật của các địa phương khác? Vì nhĩ căn chúng ta có giới hạn, giống như người điếc làm sao có thể nghe được? Nếu nhĩ căn chúng ta viên thông như Quán Thế Âm Bồ tát thì mười phương thế giới không có âm thanh gì mà không thể nghe được. Cao hơn nữa, lục thông viên thông, chẳng những nghe thấy, mà có thể ngửi, có thể nếm được nữa là khác. Vì lục căn chúng ta bị che đậy đầy dẫy bởi lục trần, lục trần không trừ lấy năng lực gì để nghe?
3.- Lợi ích niệm Phật có thể thành Phật
Chúng ta niệm Phật có công dụng gì? Có công dụng nghiệp chướng được tiêu trừ, phước tuệ tăng trưởng, cao hơn nữa là được giải thoát sinh tử, độ chúng sinh thoát khỏi luân hồi. Phật pháp giảng nói muốn khai mở trí tuệ Bát nhã, phải phát tâm Bồ đề, phải có đại bi đại nguyện, phát đại hạnh. Hiện tại chúng ta có thể thực hành được đại trí của Văn Thù Bồ tát, đại bi của Quan Âm Bồ tát, đại hạnh của Bồ tát Phổ Hiền, đại nguyện lực của Bồ tát Địa Tạng không? Hiện tại, bản thân chúng ta không có những năng lực đó, song nếu bạn nhờ vào tha lực cũng có thể làm được, nhờ vào tha lực gì? Đó là nhờ vào công đức niệm Phật A Di Đà.
Phàm phu chúng ta bản thân vốn khổ não vô lượng, tự mình không có công đức bố thí hết cho mọi người được. Song, Phật A Di Đà là đại từ bi, danh hiệu của Ngài vốn có công đức vô lượng, một câu Thánh hiệu đầy đủ tất cả các phước đức, cho nên chúng ta đem công đức của niệm Phật mà hồi hướng đến khắp cả mười phương thế giới chúng sinh, đó là hành đại bố thí. Công đức bố thí đó so với công đức làm bố thí hằng ngày của bạn rộng lớn hơn nhiều, lại trường tồn tại bất diệt. Nói như thế sẽ có nhiều người hiểu lầm cho rằng công đức niệm Phật đã lớn rồi cần gì phải làm các việc thiện khác nữa. Bạn phải biết rằng công đức niệm Phật là chánh nhân để giải thoát, còn bố thí làm phước mà bạn tạo mỗi ngày là trợ nhân cho giải thoát. Nếu bạn có khả năng nên làm cả hai thì công đức sẽ rất lớn, nếu không đủ khả năng nên làm cách bố thí như trên. Song, bạn nên biết rằng công đức tối cao của niệm Phật vẫn là giúp cho chúng ta thoát khỏi luân hồi sinh tử, thành tựu Phật đạo, độ chúng sinh, vì thế các bạn nên chí thành mà niệm.
4.- Đoạn nghi, sinh tín vãng sinh Tây phương
Phật pháp giảng nói duy tâm: “Tâm tức là Phật, Phật tức là chúng sinh”, tâm bạn nhớ Phật thì bạn là Phật, tâm bạn nhớ nghĩ đến chúng sinh, trộm cắp, dâm dục, thì “tâm là địa ngục, địa ngục cũng là tâm”. Trong Kinh Địa Tạng có nói đến tám địa ngục nóng, tám địa ngục lạnh, và vô gián địa ngục. Những địa ngục đó đều do tâm biến hiện, tâm tạo ác mà có cảm ứng như vậy. Nếu như tạo ác nghiệp sát, đạo, dâm, làm ô uế già lam, phá hoại ngăn cản mọi người làm thiện, trợ giúp người khác làm ác hạnh, thì những ác nghiệp đó đều do tâm tưởng tâm tạo, tâm tạo địa ngục thì tâm cũng cảm ứng địa ngục, địa ngục cũng do tâm tạo. Quốc độ của Phật A Di Đà cũng là do tâm tạo, tại sao Phật A Di Đà tạo nên quốc độ Tây phương? Vì Ngài muốn cứu độ tất cả chúng sinh đồng thoát khỏi luân hồi sinh tử, cho nên Phật Thích Ca thấy chúng sinh ở cõi Ta Bà quá khổ đau nên Ngài mới chỉ dạy cho chúng ta phát nguyện vãng sinh Tây phương để không còn chịu khổ đau nữa.
Phật A Di Đà có phát ra lời nguyện rằng: “Nếu có chúng sinh nào nghe được danh hiệu tôi, chí tâm tin mến, muốn sinh về nước tôi, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sinh, tôi thề không thành Chánh giác”. Đó là nguyện lực của Phật A Di Đà, cho nên mọi người muốn được vãng sinh cần phải có lòng tin kiên cố, phát tâm chí thành, nếu có đầy đủ lòng tin, tin sâu, tất nhiên công phu sẽ được viên mãn mà thành tựu việc vãng sinh. Nói đến việc vãng sinh, có nhiều người không đủ lòng tin, không dụng công niệm Phật, lại nghi ngờ rằng thế giới Tây phương không có thật, hoặc cho mình nghiệp chướng nặng nề không có khả năng vãng sinh, không thể thành Phật. Suy nghĩ như vậy là sai lầm. Vì có nghi là có chướng ngại, nghi là căn bản phiền não, vì thế chúng ta nhất định phải đoạn nghi mà sinh tín. Đức Phật Thích Ca đích thân lấy kim khẩu bảo với chúng ta niệm Phật là có thể vãng sinh, nhất định chúng ta tin sâu lời Phật, quyết không nghi ngờ, có bao giờ Phật Bồ tát lại nói dối không?
PHẬT THẤT VIÊN MÃN
Chúc mừng chư vị! Chúng ta có đầy đủ phước duyên tham gia Phật thất bảy ngày, công đức bảy ngày đến đây đã viên mãn, có gieo nhân ắt sẽ gặt được quả, chúng ta gieo nhân xuất thế gian thì nhất định sẽ lìa khổ mà được an lạc. Chúng ta cùng nhau hồi hướng công đức niệm Phật bảy ngày đến tất cả chúng sinh đồng sinh về Tịnh độ.
Ngày nay chư vị sẽ trở lại thế gian, điều mà chúng tôi muốn nhắn nhủ cùng chư vị, là phải luôn nhớ bài kệ cảnh tỉnh của ngài Duy Ma: “Ngày nay đã qua, mạng sống giảm dần, như cá cạn nước nào có chi vui, đại chúng hãy cùng nhau tinh tấn tu tập hết mình, nhớ đến vô thường chớ nên phóng dật”.
Ngày mai đây chúng ta về lại tổ ấm gia đình, trở lại công việc thế gian. Chư vị phải luôn nhớ rằng mạng sống chúng ta mỗi ngày mỗi ngày trôi qua là tiến dần đến cái chết. Chúng ta phải luôn nghĩ mình như con cá đang ở trong một hồ nước vào mùa nắng hạn, mỗi ngày trôi qua là mỗi ngày nước cạn. Những con cá ở trong đó làm sao vui để mà sống được, vì mạng sống của chúng như đèn treo trước gió, có gì là vui. Chúng ta cũng như vậy, đã mang thân người tức phải chịu bốn quy luật, sinh, lão, bệnh, tử không có một ai tránh khỏi định luật đó, sự chết sống chúng ta nào ai biết được, mà chỉ biết rằng mình rồi cũng chết. Cổ đức có nói: “Sinh hữu hạn, tử vô kỳ” là vậy.
Phật dạy chúng ta cảnh đời này là vô thường giả tạm, thân này do ngũ uẩn hợp lại mà thành, đủ duyên là hợp lại, hết duyên phải phân ly, không có gì là thật cả. Thân đã không thật, vạn vật trong vũ trụ này cũng không có gì trường tồn bất diệt, mà tất cả đang thầm lặng biến đổi không ngừng, đến một lúc nào đó rồi cũng bị diệt thôi. Cho nên chư vị phải có chánh kiến thấy được thế gian là như vậy, để rồi làm sao? Để rồi phải cố gắng mà nỗ lực tu hành, không nên phóng dật như người thế gian. Chúng ta là đệ tử Phật, Phật nghĩa là giác ngộ, giác ngộ về cái gì? Giác ngộ về vũ trụ nhân sinh là vô thường, vô ngã, thế gian này là khổ đau, tất cả vạn vật không có trường tồn, mạng sống con người như điện chớp, như sương sớm, như dây leo thành giếng, không thể trường tồn mãi. Phải giác ngộ như vậy thì mới có được tâm buông xả để lo chuyên niệm Phật. Người thế gian sở dĩ họ khổ đau cũng do chấp trước thân này là thật, tất cả đều là thật, cho nên lo tham đắm tạo nghiệp, rồi mãi mãi trôi lăn trong vòng sinh tử khổ đau, không ngày giải thoát. Chúng ta là người tu theo Phật pháp, phải nương theo chánh pháp mà giác ngộ.
Mai đây chư vị về nhà rồi, cần phải luôn ghi nhớ những điều đó. Nhớ không được tham đắm như người thế gian, hãy mau mau công phu niệm Phật, phát tâm chí thành xưng niệm danh hiệu Phật. Bảy ngày công phu ở đây tuy rất ngắn ngủi, song cũng có thể giúp được chư vị phần nào trong việc phát khởi tín tâm mà niệm Phật. Thời gian trôi qua không đợi chờ một ai cả, mỗi ngày trôi qua là mạng sống giảm dần, chúng ta càng tiến dần đến cái chết, cho nên kính thỉnh chư vị hãy mau mau gấp rút tu trì, vì thân người khó được, một khi mất thân rồi biết có tìm lại được không. Chúng ta phải chí thành tin sâu, nguyện thiết mà niệm Phật, vì đời mạt pháp này chỉ có niệm Phật mới giải quyết được sinh tử thôi. Chúc chư vị niệm Phật thành tựu vãng sinh, chúng ta hãy cùng nhau hẹn gặp lại tại thế giới Tây phương vậy.
Nam mô A Di Đà Phật!