Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đời Vô Thường

15/11/201204:21(Xem: 6759)
Đời Vô Thường
lotus_54

ĐỜI VÔ THƯỜNG
Toàn Không

1) – SINH TỬ LUÂN HỒI:

Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ. Một hôm, đức Phật bảo bốn chúng (Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cư sĩ Nam, Cư sĩ Nữ):

- Nên tu tưởng (nhớ nghĩ) vô thường, nên quảng bá (phổ biến rộng rãi) vô thường. Đã tu tưởng vô thường quảng bá tưởng vô thường, thì đoạn diệt ái dục giới, ái sắc giới, ái vô sắc giới, đoạn hết vô minh, đoạn hết kiêu mạn, ví như đốt cháy cỏ cây, dẹp trừ sạch hết, đây cũng vậy, nếu tu tưởng vô thường, thì đoạn trừ hết tất cả kết sử, vì sao?

Ngày xưa về lâu xa, có một vị Trời (Thiên Tử) đem vô số (500) Ngọc Nữ đến dạo chơi trong vườn Nan Đà (Vườn Đại Hỉ phía Bắc cung Thiện Kiến của Vua Trời Đế Thích thuộc cõi Đạo Lợi) chơi đùa, dần dần đến cây đại thụ Ca Ni (cao 100 do tuần = 1,800 cây số), tự vui năm dục dưới gốc cây. Rồi Thiên tử này leo lên cây chơi, hái hoa, cười rỡn, lúc ấy tâm ý rối loạn nên rơi xuống mà chết. Các Ngọc Nữ thương tiếc lăn lóc kêu gào khóc than không dứt!

Chết rồi, Ông tái sinh đầu thai trong nhà Trưởng giả giàu có trong thành Xá Vệ, qua chín tháng sinh một bé trai đẹp đẽ khôi ngô. Con Trưởng giả dần dần lớn lên ăn học chăm chỉ thông minh tài giỏi. Khi trưởng thành, cha mẹ liền tìm con nhà danh giá đẹp đẽ nết na, hỏi cưới vợ cho con. Đôi trai tài gái sắc đẹp đẽ biết nhường nào, ai cũng khen lứa đôi hạnh phúc của đôi trẻ, nhưng cưới vợ chưa được bao lâu, người con lại chết, bỏ lại vợ đẹp bơ vơ. Bấy giờ cả nhà Trưởng giả, họ hàng thân quyến đều tiếc thương than khóc lăn lóc sầu khổ không ngừng!

Chết rồi, người con trai ấy tái sanh trong biển lớn, làm thân Thiên Long (Rồng Trời), sau một thời gian, Rồng Trời trưởng thành, Thiên Long thường vui đùa quấn quýt với các Long Nữ (Rồng Cái). Một hôm, Thiên Long bị Thiên Điểu (Chim Trời) cánh vàng bắt ăn, lúc ấy các Long Nữ thương tiếc sầu thảm vô cùng!

Khi Thiên Long ấy bị Chim Trời giết chết ăn, liền tái sanh vào Địa Ngục!

Ta đã dùng Sinh Tử Thông nhìn thấy rõ đường đi luân hồi sinh tử của con Trưởng giả kia như thế. Rồi Ngài nói kệ:

Trời kia lúc hái hoa,

Tâm ý loạn không an,

Như nước trôi thôn xóm,

Tất chìm không cứu được.

Bấy giờ chúng Ngọc Nữ,

Vây quanh mà khóc lóc,

Mặt mày rất đoan chính,

Yêu hoa mà mạng chung.

Loài người cũng than khóc,

Mất khúc ruột của ta,

Vừa bụng lại mạng chung,

Bị vô thường tan hoại.

Long Nữ theo sau tìm,

Các Rồng đều tu tập,

Bảy đầu thật dũng mãnh,

Bị Chim cánh vàng hại.

Chư Thiên cũng lo buồn,

Loài người cũng như thế,

Long Nữ cũng sầu lo,

Địa ngục chịu khổ đau,

Diệu pháp Tứ Đế này,

Như thật mà chẳng biết,

Có sinh thì có chết,

Chẳng thoát biển sông dài.

Thế nên hãy khởi tưởng,

Tu các pháp thanh tịnh,

Tất sẽ lìa khổ não,

Lại chẳng bị tái sinh.

LỜI BÀN:

Đức Phật nói: bốn đời của một chúng sanh, từ cõi Trời tới cõi Người, rồi cõi Thiên Long (tức là cõi Thần), và sau là cõi Địa ngục. Qua bài Kinh trên, chúng ta thấy rõ sự vô thường chuyển biền từ kiếp này sang kiếp khác, bốn đời như thế, nhưng không phải đến Địa ngục là hết. Chúng sinh ấy, sau khi hết hạn ở Địa ngục, lại tiếp tục tái sinh ở một cõi nào đó trong sáu cõi, mà chúng ta không thể thấy biết được, chỉ có bậc giác ngộ, hoặc các vị có Sinh Tử Thông mới thấy được đường đi luân hồi của chúng sanh mà thôi.

Đức Phật bảo: “Nên Tu tưởng vô thường, nên quảng bá tưởng vô thường, Đã tu tưởng vô thường, quảng bá tưởng vô thường thì đoạn ái dục giới, ái sắc giới, ái vô sắc giới, đoạn hết vô minh, đoạn hết kiêu mạn”.

Nghĩa là đã suy xét, đã thấy rõ, đã tưởng nhớ, đã biết như thật sự vô thường rồi thì không còn dính mắc, không còn tham đắm vào nhục dục, không còn bị sắc đẹp lôi kéo, không còn bị ý thức tưởng tượng mê hoặc. Như vậy đoạn trừ được sự ngu si mê muội, tức dứt vô minh, khi hết vô minh thì tâm kiêu mạn ngã mạn sẽ diệt.

Đức Phật nói tiếp: “Ví như đốt cháy cỏ cây, dẹp trừ sạch hết, đây cũng vậy, nếu tu tưởng vô thường thì đoạn trừ hết tất cả kết sử”.

Đức Phật ví: vô thường như cây cỏ, nếu tu tưởng vô thường cũng giống như đốt cây cỏ, sẽ cháy rụi sạch hết, mà tu tưởng vô thường thì sạch hết các kết sử, kết sử là gì?

Kết là tụ lại, Sử là sai sử, ràng buộc, Kết sử là bị trói cột. Kết sử có 5 loại, đó là: tham lam, sân giận, hôn trầm uể oải, phóng dật không yên, nghi ngờ do dự. Nếu đã thấy như thật sự vô thường rồi, thì không còn tham lam bỏn sẻn, không còn ghen tị đố kị hờn giận, không còn lười biếng uể oải, không còn phóng dật buông lung, không còn do dự nghi ngờ mình, nghi ngờ người, nghi ngờ đủ thứ nữa, khi đã tu tưởng vô thường thì sạch hết tất cả các kết sử ấy.

Đức Phật đã làm nhiệm vụ của bậc Tôn Sư, chúng ta là học trò phải học phải hiểu và hành, có làm hay không là tùy chúng ta tự định liệu lấy tương lai của chúng ta vậy.

--- :: ---

Có nhiều nhà Thơ nói về vô thường đau khổ của kiếp người, như nhà Thơ DƯƠNG HUỆ ANH trong bài “Bờ giá, trở về...” có đoạn Ông viết:

Thoáng....cuộc đời....qua....như bóng mây,

Gặp nhau đôi phút đã chia tay,

Xe luân chuyển biến dòng sinh tử,

Từng phút đau buồn chuyện đổi thay.

Cũng nói về vô thường, nhà Thơ CHU TOÀN CHUNG, cũng có bài thơ “Sự thực ở đời” như sau:

Hôm nay biết được hôm nay,

Ngày mai ai biết ngày mai thế nào,

Đời người thoảng giấc chiêm bao,

Sinh rồi tử đấy làm sao nói cùng,

Trần đời là cõi tạm dung,

Cuối cùng cát bụi về chung khác gì.

--- :: ---

Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn, chẳng thể thực hành được cái “không”, nên chúng ta vẫn bị sinh tử luân hồi theo ta như hình với bóng vậy.

--- :: ---

2) - TRÁNH CHẾT ĐƯỢC KHÔNG?

Một thời đức Phật ngự tại vườn trúc Ca Lan Đà thuộc thành La Duyệt, nước Ma Kiệt với 500 chúng Tỳ Kheo. Bấy giờ có bốn Phạm chí đã lớn tuổi thường tu pháp lành, đã đắc ngũ thông. Một hôm bốn người này bàn với nhau rằng: “Lúc thần chết đến chẳng tránh một ai, dù là người mạnh khỏe; chúng ta hãy đi ẩn nấp chỗ kín đáo để thần chết không thấy không biết chỗ ẩn nấp của chúng ta, thì sẽ không chết.

Lúc ấy một Phạm chí dùng thần thông bay lên không trung, người thứ hai lặn xuống dưới đáy biển lớn, người thứ ba chui vào hang núi rồi bít cửa hang lại, người thứ tư tự chui xuống đất “độn thổ”.

Bốn người trốn thần chết như thế một thời gian chẳng bao lâu người thứ nhất trốn trong không chết trong không trung, người thứ hai trốn dưới đáy biển chết dưới đáy biển, người thứ ba trốn trong hang núi chết trong hang núi, người thứ tư trốn dưới đất chết trong đất.

Bấy giờ đức Phật dùng Thiên nhãn xem thấy bốn Phạm chí tránh chết đều chết hết, nên Ngài nói kệ trước các Tỳ Kheo:

Không phải hư không biển,

Không hang núi dưới đất,

Không có một nơi nào,

Thoát khỏi không bị chết.

Rồi đức Phật kể câu chuyện bốn Phạm chí bàn luận và trốn chết như trên để khỏi chết, nhưng tất cả đều đã chết; rồi Ngài giảng cho các đệ tử muốn khỏi chết phải suy nghĩ tư duy bốn pháp:

1- Tất cả hành vô thường.

2- Tất cả hành khổ.

3- Tất cả pháp vô ngã.

4- Ba pháp trên tận diệt là Niết Bàn.

Nên: cùng tư duy thực hành bốn pháp trên sẽ thoát sinh già bệnh chết, sầu lo khổ não, các Ông nên học điều này.

LỜI BÀN:

Các Phạm Chí ngoại đạo tu cao nhất chỉ đạt năm Thần thông (ngũ thông), tức là “Thần túc thông (biến hóa), Thiên nhãn thông (nhìn thấu suốt), Thiên Nhĩ thông (nghe thông suốt), Tha tâm thông (biết tâm ý người khác), Túc mệnh thông (biết sinh tử luân hồi của mình)”; còn Phật giáo đạt thêm “Sinh tử thông (biết sinh tử luân hồi của chúng sinh) và Lậu tận thông (tự biết như thật sạch hết ô uế, sạch hết vô minh lậu, biết đã giải thoát khỏi sinh tử luân hồi).

Bài Kinh trên đây nói về không ai trốn khỏi chết đã rõ ràng. Nhưng phần chót của bài Kinh, đức Phật khuyên nên tư duy thực hành bốn pháp, chúng ta thử phân tích dưới đây:

1- Tất cả hành vô thường:

Hành là suy nghĩ, tạo tác, người biến chuyển, trải qua, vật biến dịch chuyển động, vô thưòng là thay đổi không cố định, nay thế này mai thế khác; vô thường là tính chất căn bản của đời sống. Tất cả mọi người, mọi sự vật sinh ra đều biến chuyển, đều có tính chất của bốn giai đoạn “sinh, già, bệnh, chết”, hay “thành, trụ, hoại, diệt”. Tất cả lời nói, ý nghĩ việc làm đều biến đổi, chẳng thường hằng, bởi vậy đức Phật nói: “Tất cả hành vô thường”.

2- Tất cả hành khổ:

Tất cả sự suy nghĩ tạo tác đều đưa đến khổ, vì thay đổi vô thường nên sinh ra khổ, như già yếu làm khổ, bệnh tật làm khổ, chết làm khổ, tất cả các sự biến đổi làm khổ chúng sinh. Cái xe, cái bàn, cái nhà lâu ngày cũ hỏng làm cho lo buồn, vì sự chuyển đối biến dạng ấy gây nên biết bao lo âu buồn rầu, nên đức Phật nói “Tất cả hành khổ”.

3- Tất cả pháp vô ngã:

Pháp ở đây là sự việc sự vật, vô ngã là quên hẳn mình, không thấy mình, không thấy tư tưởng mình, tất cả sự việc chẳng phải ngã, chẳng phải ta, vì chấp cái này cái kia là ta là của ta nên mới khổ. Như cái xe, cái bàn, cái nhà của ta, khi nó cũ nó hư nên ta buồn, nếu không chấp nó là của ta thì đâu có buồn khổ vì nó biến dạng hư hỏng. Ngay cả cái thân người gồm sắc và tâm, sắc là thân do tứ đại “đất nước gió lửa” hợp lại mà thành, bốn thứ này luôn luôn thay đổi, nên chẳng có cái nào là ta cả. Tâm gồm bốn thứ: “thọ tưởng hành thức”, mỗi thứ đều biến đổi khi có khi không, nên chẳng cái nào là ta được. Do đó sự việc sự vật vô ngã, thân vô ngã, tâm vô ngã, bởi vậy, đức Phật nói “Tất cả pháp vô ngã”.

4- Ba pháp trên diệt là Niết Bàn:

Nếu biết như thật đời là vô thường sẽ bớt khổ, nếu không chấp ngã sẽ diệt được khổ, khi biết mọi chuyển biến đổi thay ở đời là tất nhiên phải như thế, khi biết tất cả hành động việc làm, lời nói, ý nghĩ là nguyên nhân gây ra khổ, khi biết sự chấp ngã là thủ phạm đưa tới khổ. Nếu đã biết như thật như thế rồi sẽ hết khổ, được an vui vậy.

Do biết vạn vật vô thường, nên chúng ta chấp nhận những đổi thay của cuộc đời, như vậy là người hiểu biết sự vật một cách chân thật. Đây là người có chính kiến, thấy rõ mọi sự việc do nhân duyên sinh nên có, hết nhân hết duyên nên phải diệt, nên là không. Chẳng có cái gì có thực thể bản chất riêng biệt của nó mà tồn tại được, thấy rõ như vậy, mọi sự đổi thay, chuyển biến, ta sẵn sàng chấp nhận, và như vậy không có sự bất mãn trước sự thay đổi, không bất mãn, không bực tức khi nó chuyển biến hay mất đi thì không đau khổ nữa.

Sở dĩ chúng ta buồn khổ là vì sợ mất cái này, sợ mất cái kia, sợ thân này ốm đau, sợ thân này già xấu, sợ chết. Biết mọi vật là đổi thay vô thường, biết rõ không có cái ngã cái ta rồi, có mất, có bệnh, có già, có xấu, có chết, cũng là lẽ thường ở đời, chẳng có gì mà phải sợ, phải lo, phải buồn khổ, Như vậy được thảnh thơi an nhiên tự tại, khi đã được thảnh thơi an nhiên tự tại thì đâu có khác gì Niết Bàn?

Đức Phật khuyên chúng ta nên tư duy và thực hành về vô thường, khổ, vô ngã sẽ được Niết Bàn, nói đến Niết Bàn thì ai cũng ưa, nhưng khi áp dụng thực hành, xem ra nhiều người sợ, sợ cái gì? Sợ cực vì tính lười biếng, vì không suy tư kỹ lưỡng về vô thường, khổ vô ngã, nên mới bị cái “ta” ngăn cản, bị cái ta tìm đủ thứ lý do để bảo vệ nó, không cho tinh tấn suy tư hành trì. Nếu suy nghĩ kỹ càng, sẽ hành trì dũng mãnh, thấy rõ sự thật về vô thường, biết tường tận tất cả hành đều khổ, đánh tan tành cái ngã cái ta không còn manh giáp, mới thấy được Niết Bàn, như vậy có phải là tốt đẹp dường nào không?

Toàn Không

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2024(Xem: 338)
Đức Phật là Đại Y Vương, bậc tuệ tri mọi pháp, Thầy của trời người. Sau khi giác ngộ, trở thành bậc Chánh Đẳng Giác. Ngài đi khắp nơi thuyết pháp độ sinh, kết quả là độ thoát vô số chúng hữu tình, đặc biệt để lại cho đời một kho tàng Chánh Pháp mà theo đó tùy theo căn cơ, sở trường của hành giả ứng dụng để chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Những gì Ngài thuyết là từ tự thân thực chứng của Ngài (chứ không nghe từ ai cả), có nghĩa có văn từ sơ thiện, trung thiện cho đến hậu thiện, thiết thực trong hiện tại, có khả năng hướng thượng, nói lên phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, đến để mà thấy, được người trí tự mình giác hiểu.
15/10/2024(Xem: 598)
Đây là câu hỏi hay, cũng là vấn đề khó biện giải bằng thức tri và tưởng tri của một người học Phật, ngoài trừ Bậc Tuệ Tri Mọi Pháp, Bậc Toàn Thiện, Toàn Giác, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điệu Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn mới có thể làm cho vấn đề sáng tỏ, làm cho khai thị, làm cho khai ngộ, làm cho minh hiển "như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc... "
06/10/2024(Xem: 637)
Tịnh Độ là một trong mười tông phái của Phật giáo Trung Hoa. Pháp sư Huệ Viễn được coi là Tổ đầu tiên của Tịnh tông Trung Hoa; thành lập Bạch Liên Xã quy tụ được hơn ba ngàn cả tăng lẫn tục toàn các bậc hào kiệt trong đời, trong đó có 18 vị là bậc thượng thủ, để lại cho hậu thế đời sau vô số câu chuyện vãng sinh ly kỳ. Đây là tông phái siêu việt, với nhiều đặc thù thuộc Đại thừa viên đốn. Gọi Đại thừa bởi tông này lấy tâm Bồ đề làm nhân, lấy quả vị cứu cánh Phật làm quả. Viên, bởi tông này lý sự vẹn toàn, tóm thâu cả Tiểu thừa giáo, Đại thừa thỉ giáo, Đại thừa chung giáo và Đại thừa đốn giáo. Đốn, vì tông này không luận bàn về pháp tướng mà chỉ chuyên về chân tánh, không cần trải qua nhiều thứ lớp, tu tập trong một đời có thể chứng lên quả vị Bất thối chuyển. Đây chính là những điểm siêu xuất, đặc thù của tông Tịnh Độ.
20/09/2024(Xem: 1596)
Đại sư Thiếu Khang họ Chu quê ở huyện Tấn Vân tỉnh Chiết Giang. Một hôm, mẹ ngài mơ thấy mình đi trên đỉnh Định Hồ, có Ngọc nữ trao cho bà một cành hoa sen xanh và nói: “Hoa sen xanh này biểu tượng cho Đại cát tường xin tặng cho bà. Bà sẽ sanh được quý tử, mong bà yêu thương giữ gìn nó”. Nghĩa là cành hoa sen này biểu tượng cho điều tốt lành lớn, nay trao tặng cho bà. Bà sẽ sanh được con trai tôn quý. Hy vọng bà chăm sóc con trai thật tốt.
30/08/2024(Xem: 693)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83). Các trứ tác sau này của Ngài chỉ là bổ sung và phát triển quan điểm này từ các phương diện khác. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân tông và các đặc điểm của nó.
30/08/2024(Xem: 934)
Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).
28/08/2024(Xem: 2002)
Đạo Phật giáo là nơi cứu khổ Độ chúng-sanh không bỏ một ai Lòng thương yêu khắp nhân-loài Không hề muốn thấy một ai khổ trần Đường chơn-chánh trên hơn tất cả Nẻo nhiệm-mầu chẳng có chi bì Muốn người rõ tánh từ-bi Cho nên Phật bảo con đi khuyên đời
28/06/2024(Xem: 2045)
Bố thí và cúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát. Suốt cuộc đời Đức Phật, ngài đã sống bằng phẩm vật cúng dường. Tương tự, sự phát triển của Phật giáo lan rộng khắp thế giới và được hộ trì cho tới giờ cũng là nhờ phẩm vật cúng dường của đàn na thí chủ. Do vậy, bài này được viết để mời nhau giữ hạnh bố thí và cúng dường.
06/05/2024(Xem: 1181)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ. So với hai kinh kia thì kinh A Di Đà ngắn, ngôn ngữ dễ hiểu, nội dung không quá thâm sâu hay mật nghĩa như những kinh Đại Thừa khác. Phật tử bắc tông phần nhiều ai cũng đọc tụng và khá nhiều người thuộc nằm lòng.
16/04/2024(Xem: 1232)
Một đám đông Mỹ-Mễ-Mít làm việc chung với nhau, ngày nào cũng đùa giỡn rần rật, chơi khăm rồi cười sằng sặc, tán dóc đủ thứ chuyện trên đời, từ chính trị cho đến chuyện súng ống tràn lan, giá xăng tăng… Nhưng nhiều nhất và thường xuyên nhất vẫn là chuyện bóng cà na và chuyện đàn bà. Y cũng là một tên tích cực trong nhóm, thậm chí còn nổi trội về những trò gây cười. Y là tay nghịch ngầm và có nhiều ý tưởng mới, hễ y ra tay hay góp lời là cả đám cười hả hê. Những lúc câu chuyện trở nên thô tục quá thì y giật mình nhớ lại vấn đề chánh niệm nên ngưng nói. Giữ chánh niệm không phải là dễ, nhất là khi ở trong một môi trường mọi người đều thất niệm hay không biết chánh niệm là gì, quả thật những chuyện đùa , chuyện sắc dục nó hấp dẫn và dễ dãi hơn là chuyện chánh niệm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]