Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Căn Bản Trung Quán Luận Tụng

08/04/201311:49(Xem: 10524)
Căn Bản Trung Quán Luận Tụng

mattong_4

Căn Bản Trung Quán Luận Tụng

(Mulamadhyamika-karika - Dbu ma rtsa ba'i shes rab)

Trước tác: Long Thọ Bồ Tát

Dịch từ bản Anh ngữ của dịch giả Wulstan Fletcher[1]

Phẩm 18

Quán ngã và các pháp

1. Nếu ngũ uẩn là “Ngã,”

“Ngã” ấy là sinh diệt.

Nếu ngã khác ngũ uẩn,

Chẳng phải tướng ngũ uẩn.

2. Nếu “ngã” chẳng thực có,

Làm sao có “ngã sở”[2]?

Khi ngã, ngã sở, ngừng,

Hết chấp “ngã”, “ngã sở”[3]

3. Người chứng vô ngã trí,

Cũng chẳng có tự tánh.

Người thấy chứng vô ngã

Có tự tánh -- tự mình,

Chẳng thấy được tánh Không[4].

4.Khi quán xét trong, ngoài,

Niệm “ngã”, “ngã sở” ngừng,

Chấp thủ cũng đã diệt,

Chấp diệt, chẳng tái sinh.

5. Nghiệp, phiền não tận diệt,

Thì đó là giải thoát.

Nghiệp, não, do vọng tưởng.

Đều do [tâm] biến kế[5];

Nhập Không, hí luận diệt.

6. Chư Phật hoặcthuyếtngã;

Có khi thuyết vô ngã.

Nhưng cũng tuyên thuyết rằng:

Cả ngã và vô ngã,

Cũng đều không thực hữu.


7.Ngôn ngữ bặt, bởi vì ,

Đối tượng tâm hành dứt[6].

Không sanh cũng không diệt,

Bản tánh của mọi pháp,

Tịch diệt như Niết-bàn.

8.Chư Phật thuyết từng bước:

Chư pháp[7]thật, phi thật;

Vừa phi thật, vừa thật,

Phi thật, phi phi thật.

9.Tự tri, chẳng tùy ai,

Tịch diệt, vô hí luận;

Bất nhị, vô phân biệt:

Là thật tướng như như.

10.Những pháp do duyên sinh,

Thì chẳng là chính nó.

Cũng chẳng là thứ khác.

Chẳng đoạn; cũng chẳng thường[8].

11.Giáo pháp, như cam lồ

Của toàn chư Thế Tôn,

Là hộ pháp thế gian:

[Nhân và quả] chẳng một,

Và nó cũng chẳng khác8

Chẳng đoạn, cũng chẳng thường.

12. Khi Phật chưa hạ thế,

Chư Thanh Văn diệt tận,

Trí chư Bích Chi Phật,

Không thầy, vẫn khởi sanh.

Phẩm 24

Quán Tứ Thánh Đế

1. [Bộ phái khác tranh cãi]

“Nếu tất cả đều không,”

“Không sanh cũng không diệt.

Vậy, theo [Trung Quán Tông]

Tứ Đế không hiện hữu.

2. “Vì Tứ Đế không thật,

Trí tuệ cùng đoạn tập,

Thiền định và chứng ngộ*:

Tất cả đều không có.

3. “Nếu tất cả không có,

Tứ thánh quả cũng không.

Vì không có bốn quả,

“Đắc”, “Hướng”cũng đều không[9].

4.“Nếu Tám Bậc Hiền Thánh

Thảy đều nói không có,

Thì chẳng có Tăng Bảo.

Vì không có Tứ Đế,

Nên Pháp Bảo cũng không.

5.“Pháp, Tăng Bảo đều không,

Làm sao có Phật Bảo ?

Giảng tánh không như vậy,

Là hủy báng Tam Bảo --

6.Và như thế hủy báng

Chứng ngộ [của đạo] quả,

Cùng chối bỏ thiện, ác.

Nhất thiết thế gian pháp --

Đều bị hủy báng cả.

7.Trả lời kẻ vấn nạn:

Ông đã không hiểu được,
Bổn tánh của tánh không,

Chẳng hiểu nghĩa lý không,

Nên hủy báng pháp ấy.

8. Giáo pháp chư Phật thuyết,

Toàn đặt trên nhị đế:

Tục đế của thế gian.

“Nhất thiết tàng” thế đế

Và sau là chân đế[10].

9. Người nào chưa chứng ngộ,

Phân tỏ hai đế này,

Không thể đạt chân như

Chư Thế Tôn đã thuyết.

10. Nếu không nương tục đế,

Chẳng thể hiểu chân đế.

Chẳng chứng đệ nhấtnghĩa,

Nên chẳng đắc Niết-bàn.

11. Do tà kiến tánh không,

Kẻ độn căn tự hại.

Như kẻ ngu bắt rắn,

Người ngốc làm chú thuật.

12.Vì biết rõ khó khăn

Người kém khó nhập vào,

Pháp thậm thâm vi diệu,

Nên tâm Thế Tôn ngại,

Chẳng muốn thuyết pháp này.

13.Kết luận về tánh không

Của ông sai, vô lý.

Luận cứ bác tánh không,

Theo tôi, chẳng hữu lý.

14.Nên hiểu không là nhân

Tạo thành nhất thiết pháp[11].

Còn phủ nhận tánh không,

Là phủ nhận các pháp.

15. Ông quy lỗi cho tôi,

Thật ra, tự ông lỗi.

Như kỵ nhân cưỡi ngựa,

Mà quên ngựa đang cưỡi.

16. Nếu ông thấy chư pháp,

Hiện hữu bởi tự tánh,

Tức là thấy các pháp,

Chẳng có nhân và duyên.

17.Chỉ vì thấy như thế,

Ông bác bỏ tất cả,

Nhân, quả, cùng tác giả,

Hành động và mục tiêu.

Sinh, diệt của vạn vật.

18. Các pháp do duyên sinh,

Tôi nói chính là không;

Cũng gọi là giả danh,

Cũng là Trung Đạo nghĩa.

19. Chưa hề có pháp nào,

Chẳng do nhân duyên sinh.

Nên chẳng có pháp nào,

Mà chẳng phải là không.

20. Nếu các pháp chẳng không,

Thì không thể sinh, diệt.

Theo như thế tức là

Không có Tứ Thánh Đế.

21. Nếu không do duyên sinh,

Do đâu mà có khổ ?

Chư tôn đã dạy là :

Khổ chính là vô thường,

Nên chẳng có tự tánh[12].

22. Nếu khổ có tự tánh,

Làm sao do tập[13]sinh?

Kẻ bài bác nghĩa không

Chẳng thấy có tập [đế].

23. Nếu khổ có tự tánh,

Thì nó không thể diệt.

Vì tự tánh trường tồn,

Tức phủ nhận diệt đế.

24.Nếu đạo có tự tánh

Thì không thể tu đạo.

Nếu đạo là tu sửa,

Chẳng có tánh cố định

Như ông đã gán cho.

25.Nếu Khổ, Tập, Diệt đế,

Thảy đều không hiện hữu,:

Thử hỏi, khi tu Đạo,

Làm sao đắc diệt khổ ?

26.Nếu vô minh, bất trí,

Có tự tánh, thường còn,

Làm sao đắc trí tuệ?

Chẳng phải có tự tánh,

Thì vĩnh viễnchẳng đổi?

27.Như thế, cái ông gọi

Đoạn tập, chứng và định,

Cùng với tứ thánh quả,

Giống như đắc trí tuệ,

Chẳng thể nào có được.

28.Với người chấp tự tánh,

Làm sao đắc quả được,

Khi, sự bất đắc quả

Có tự tánh, cố định ?

29.Nếu quả không thể đắc,

Thì không có Đắc, Hướng.

Và không có Bát Thánh,

Cũng không có Tăng bảo.

30.Vì không Tứ Thánh đế,

Cũng không có Pháp bảo.

Pháp, Tăng đều không có,

Làm sao có Phật bảo ?

31.Theo ông, chẳng nhân nơi

Bồ đềmà có Phật.

Và cũng chẳng nhân nơi

Phật mà có Bồ Đề.

32.Người chưa đắc quả Phật

(Theo ông), dù họ cố

Tu hành Bồ Tát Đạo,

Để mong đạt giác ngộ

Cũng chẳng thể đắc quả.

33.Chẳng ai [có tự tánh]

Có thể làm tội, phúc.

Nếu chẳng phải là không

Người ấy tu được gì ?

Vì tự tánh cố định

Nên chẳng thể tu hành.

34.Dù chẳng [hành] tội, phúc,

Quả báo, theo ông, có.

Quả sinh từ tội, phúc,

Lại cho rằng không có.

35.Nếu theo ông, quả báo ,

Do tội, phúc sinh ra,

Quả từ tội, phúc, sinh --

Làm sao nói chẳng không.

36.Kẻ nào phá tánh không,

Phủ nhận lý duyên khởi

Thì cũng là phủ nhận

Nhất thiết thế gian pháp.

37.Nếu phá bỏ tánh không,

Thì chẳng có sở tác[14].

Như vậy, có hành động

Mà chẳng có khởi đầu,

Và như vậy sẽ có,

Tác giả chẳng tạo tác.

38.Nếu các pháp thế gian,

Hiện hữu có tự tánh,

Thì bất sinh bất diệt.

Chúng sinh sẽ thường trụ,

Vĩnh viễn chẳng dị diệt.

39.Nếu chẳng có tánh không,

Chưa đắc, chẳng thể đắc,

Chẳng thể diệt phiền não

Nghiệp, khổ đau chẳng dứt.

40.Người thấy pháp duyên sinh.

Thì thấy được [Tứ Đế],

Thấy bản tánh của khổ,

Ngộ Khổ, Tập, Diệt, Đạo.


Phẩm thứ 26

Quán thập nhị nhân duyên

1.Chúng sanh do vô minh,

Khởi sinh ba loại hành.

Nên luân hồi tái sinh,

Tùy hành thọ nghiệp báo.

2.Tùy nhân duyên của hành,

Thứcthọ thân lục đạo[15].

Khi thức đi tái sinh,

Tăng trưởng thànhDanh sắc.

3.Khi danh sắc tăng trưởng,

Từ đó sinh lục nhập.

Lục nhập hòa trần thức[16],

Sáu xúckhởi sinh ra.

4.Xúc ấy khởi chỉ vì,

Nương nhãn, sắc, tâm hành.

Nên nhãn thức khởi sinh

Bởi nương vào danh sắc.

5.Tập hợp ba thứ này --

Nhãn, sắc, thức -- là xúc

Từ xúc mà sinh ra,

Thành ba loại cảmthọ.

6.Nhân từ nơi cảm thọ,

Áisinh, càng khát thọ.

Ái khởi thì thủsinh --

Thủ gồm có bốn loại.

7.Do thủ, nên có hữu.

Do người thủ, khởi ra,

Nếu thủ ấy không có,

Sẽ giải thoát, chẳng hữu.

8.Hữu chính là ngũ uẩn.

Do hữu nên có sinh,

lão tử, khổ đau,

Khóc than, cùng sầu não,

9.Tâm khổ đau, phiền não:

Phát khởi ra từ sinh.

Từ đó tạo thành uẩn

Chỉ là khối khổ đau.

10.Hành là gốc luân hồi.

Người trí ngưng tạo nghiệp.

Kẻ si cứ tác nghiệp;

Người trí không như thế,

Vì đã thấy tánh Không.

11.Nếu vô minh dứt trừ,

Hành sẽ không khởi sinh.

Muốn dứt vô minh phải,

Nhờ trí tuệ vi diệu,

Và thiền định tánh Không.

12.Vì vòng khoen này diệt,

Nên khoen sau chẳng sinh.

Khối khổ đau tự nó,

Đoạn diệt đến tận cùng.

Đến đây chấm dứt Căn Bản Trung Quán Luận Tụng, phẩm thứ 18, 24 và 26.

Lời dịch giả (Việt ngữ):

Chúng tôi đã cố gắng giữ lại thể thi kệ bốn câu trong toàn bài, tuy nhiên ở một số chỗ, chúng tôi bắt buộc phải tăng số câu lên để tôn trọng ý văn nguyên thủy. Ngoài ra, chúng tôi cũng phải chú thích bằng số thêm ở vài chỗ để giải thích về các từ hán-việt đã sử dụng bởi các chư tôn đức trong truyền thống Phật giáo Việt Nam. Vì các từ ngữ này quá xúc tích, cô đọng nên chúng tôi nghĩ đó là một sự cần thiết để cho độc giả dễ hiểu. Còn các chú thích dùng dấu hoa thị là của nhà dịch giả Anh ngữ. Sau cùng, chúng tôi cũng biết là đã có một số các bản dịch trước của chư vị chư tôn đức, lẽ ra chúng tôi dùng thẳng các văn bản đó, nhưng vì văn bản của nhà dịch giả Wulstan Fletcher mang những ưu điểm đặc thù, và là một dị bản đưa ra những điểm riêng biệt của nó. Do đó, chúng tôi xin được dịch bản này đúng theo quan điểm của dịch giả Wulstan Fletcher, hy vọng góp thêm vào vườn hoa Phật giáo một bông hoa lạ.

Bản Anh ngữ 2006, do dịch giả Wulstan Fletcher biên soạn.

Bản dịch Việt ngữ do Sonam Nyima Chân Giác (Canada) và Diệu Hạnh Giao Trinh (France) biên soạn chuẩn bị cho pháp hội thuyết giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Nantes tháng 8, 2008, với sự tham khảo các văn bản sau:

1.Kalachakra 2004: Select Practice Texts in English & Tibetan.

Published by The Canadian Tibetan Association of Ontario, 2004.

2.The Fundamental Wisdom of The Middle Way.

Nagarjuna’s Mula-Madhyamaka-Karika. Translated and commentary by Jay L. Garfield.

Oxford University Press, 1995.

3.Luận giải Trung Luận: Tánh khởi và duyên khởi.

Hồng Dương Nguyễn Văn Hai, Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức, 2003.

4. Yếu Chỉ Trung Quán Luận, Thích Duy Lực.

5. Trung Luận, Phạm Chí Thanh Mục thích, Cưu Ma La Thập Hán dịch, Thích Thiện Siêu Việt dịch, 2001.

© Ly Bui & Giao Trinh Vo - 2007



[1]Chuẩn bị cho pháp hội thuyết giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Nantes tháng 8, 2008. Bản dịch Việt ngữ do Sonam Nyima Chân Giác và Diệu Hạnh Giao Trinh biên soạn, phối hợp với các từ ngữ dùng trong bản Hán dịch.

[2]Ngã nghĩa là “cái tôi”, ngã sở nghĩa là “cái của tôi”.

[3]Nên chứng vô ngã trí.

[4]Nếu còn thấy có tự tánh (ngay cả khi nhìn chư A la hán đã chứng vô ngã là có tự tánh) thì vẫn chưa hiểu được

tánh Không, nghĩa là còn sở chấp.

[5]Biến kế là tâm nhìn sự vật bị méo mó sai lầm, như nhìn cuộn giây mà nghĩ là con rắn.

[6]Các dị bản trước dịch là: Thực tướng của các pháp. Tâm hành ngôn ngữ đoạn.

[7]Chư pháp cũng dịch là nhất thiết pháp.

[8]Trung Quán Bát Bất:Bất sinh diệc bất diệt. Bất thường diệc bất đoạn.Bất nhất diệc bất dị. Bất lai diệc bất xuất.

* Nghĩa là trí tuệ ngộ khổ đế, đoạn trừ tập đế, thiền định trên đạo đế và chứng quả diệt đế.

[9]Đắc tức là tứ quả và hướng tức là tứ hướng, là tám bậc Hiền Thánh trong Thanh văn.

Tứ quả gồm: quả Tu đà hoàn, quả Tu đà hàm, quả A na hàm, quả A la hán.

Tứ hướng gồm: Tu đà hoàn hướng, Tu đà hàm hướng, A na hàm hướng, A la hán hướng.

[10]Đệ nhất nghĩa đế.

[11]Nghĩa là tất cả mọi sự vật.Nguyên câu Hán Việt là: Dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành.

[12]Vì tự tánh thì chẳng vô thường.

[13]Tập là thói quen.

[14]Sở tác ở đây là cái mà mình làm.

[15]Các cõi của sáu nẻo luân hồi.

[16]Trần là cảnh vật bên ngoài, hòa hợp với thức là nhận biết tạo ra sáu xúc chạm.

---o0o---

Trình bày: Phổ Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/03/2022(Xem: 4722)
Đừng quên vị bổn sư; Hãy cầu nguyện với người trong mọi lúc. Đừng tán tâm; Hãy nhìn vào tinh túy của tâm. Đừng quên cái chết; Hãy để nó thúc giục con tu tập Pháp. Đừng quên chúng sanh; Với lòng bi mẫn, hãy hồi hướng công đức cho chúng sanh, và cầu nguyện với lòng khát vọng.
02/12/2021(Xem: 15848)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
03/09/2021(Xem: 29680)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
01/11/2020(Xem: 16350)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
04/03/2020(Xem: 38039)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
26/11/2019(Xem: 7959)
Giáo dục, phạm vi rộng, có nghĩa truyền thừa kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng quát… Mỗi chuyên ngành có những đặc tính cần truyền thụ cho lớp kế thừa, đó là giáo dục chuyên môn. Trong nhà Phật, việc giáo dục chú hướng vào nhận thức bản thể, hiểu biết về thân tâm, nắm rõ luật nhân quả, cải tạo nhân cách và làm chủ cảm xúc,làm chủ tâm hành, có nghĩa hành giả cần làm chủ sanh tử trong cõi tử sanh.
28/08/2019(Xem: 6289)
Lần đầu tiên chùa Đức Viên (2440 McLaughlin Avenue, San Jose, California) hội đủ duyên lành cung thỉnh chư Tăng tu viện Namgyal (Ithaca, New York) kiến tạo một đàn tràng thiêng liêng bằng cát màu tuyệt đẹp trong hai tuần (từ ngày 12/8 đến ngày 24/8/2019). Đó là Kalachakra Mandala Thời Luân (Bánh Xe Thời Gian), biểu tượng cho vũ trụ để cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Thời Luân là cung trời an lành, nơi trú xứ của các vị Thánh Hộ Phật, mang lại nguồn an lạc, có năng lực gia trì mạnh mẽ của chư Phật, và thanh tịnh hóa tại địa điểm khởi tâm cung thỉnh. Trong Thời Luân có 28 con thú trên lưng nở hoa sen là: 7 con heo, 7 con ngựa, 7 con voi và 7 con sư tử kéo xe chở các vị Thánh Hộ Phật.
07/08/2019(Xem: 4278)
Tỉnh Thức Rực Rỡ: Đọc Sách “Vivid Awareness”, Bài này sẽ giới thiệu và tóm lược tác phẩm “Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar” (sẽ viết tắt là: VA) của đại sư Khenchen Thrangu, dựa vào bản Anh dịch của David Karma Choephel, ấn bản 2011, nhà xuất bản Shambhala. Sách này nói về một Thiền pháp của Kim Cang Thừa. Lý do chọn sách này vì qua đây có thể hiểu được và thâm nhập được Thiền Tông – tức là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam.
24/05/2019(Xem: 5324)
Sau 12 năm học tập và làm việc tại nước Nga, năm 1995 tôi về Việt Nam và vào làm việc tại công ty FPT. Chân ướt chân ráo chưa hiểu nhiều về công việc và cuộc sống trong nước, may thay tôi được anh Phan Ngô Tống Hưng, lúc đó là phó Chủ tịch HĐQT kiêm phó Tổng giám đốc dẫn đi đảnh lễ Thượng tọa Thích Viên Thành. Và thế là Thượng tọa trở thành người thầy sơ tâm đầu tiên của tôi cho đến ngày Thầy viên tịch năm Nhâm Ngọ -2002. Thượng tọa Thích Viên Thành là Tổ thứ 11 của Tùng Lâm Hương Sơn và luôn là người thầy tôn kính của tôi.
04/09/2018(Xem: 6545)
Bất cứ ai may mắn có dịp viếng thăm Tu Viện Kopan trong 40 năm qua, có thể đã nhìn thấy được nụ cười từ hòa của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, người đã phụng sự cho Tu Viện Kopan trong các vai trò khác nhau trong gần bốn thập niên qua. Ngài đã được Văn Phòng của Đức Dalai Lama thụ phong chức trụ trì tu viện năm 2001, mặc dù Ngài đã không chính thức giữ chức vụ này từ khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Vào tháng Bảy năm 2011, Lama Lhundrup không tiếp tục vai trò này nữa, vì bệnh ung thư ở giai đoạn tiến triển của Ngài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567