Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. 14/06/97 - 20/06/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc

24/04/201311:07(Xem: 3643)
23. 14/06/97 - 20/06/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc

DUY LỰC NGỮ LỤC

QUYỂN HẠ

(Bài giảng trong các năm (1992 - 1999)

HT. THÍCH DUY LỰC

----o0o---

Bài giảng trong các năm 1992 - 1999

23.

14/06/97 - 20/06/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc

Hỏi: Tại sao nói pháp tham Tổ Sư Thiền là pháp xuất gian?

Đáp: Đối với thế gian thì nói xuất thế gian, sự thật thì pháp thế gian và xuất thế gian chẳng khác. Do người ta có bệnh chấp sai lầm về thế gian, muốn ra khỏi sai lầm đó mới nói là xuất, chứ thế gian và xuất thế gian không khác. Tại sao? Vì tâm chẳng có khác, người thế gian cũng là cái tâm này, người nói tu xuất thế gian cũng là cái tâm này. (Sư phụ đã giải thích tâm như hư không trống rỗng vô sở hữu, lược qua.)

Hỏi: Thế nào là hỏa Tam muội, tánh Tam muội? Và cách ngồi kiết già do Phật Thích Ca hay Thiền sư nào đặt ra?

Đáp: Tất cả đều do người ta đặt ra tên gọi, chứ Phật Thích Ca đã nói vô thỉ vô sanh, vô sanh thì chẳng thể đặt ra, hễ đặt ra là có sự bắt đầu rồi. Người ta đặt ra thiền quán, quán lửa thì gọi là hỏa tam muội, quán thủy thì gọi là thủy tam muội ... ấy là do người bày đặt. Còn Tổ sư thiền là chẳng có gì cả, chỉ do Tổ sư từng đời truyền xuống, miễn cưỡng gọi là Tổ sư thiền, chứ không có tên gọi, luôn cả thiền cũng không, vì trống rỗng vô sở hữu, chẳng thể kiến lập.

Lời tác bạch của thầy Trụ trì chùa Tam Bảo:

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Sư phụ: Con cúi đầu đánh lễ Sư phụ, khi con được gặp ngài, con quyết lòng tin pháp môn đây là của Đức Thích Ca truyền dạy, Sư phụ dạy lại. Từ đó đến nay mười mấy năm, con quyết chí công quả cho Tam bảo để thành tựu cho tất cả chúng sanh, như Sư phụ dạy nam là cha, nữ là mẹ của mình. Con nguyện đời nào trơ về cõi Ta Bà này cũng theo Sư phụ để đền ơn cho Phật và Sư phụ, và tất cả đều thành Phật.

Hôm nay mọi người về đây cùng nhau tu hành, thương nhau như con một cha, nhà một nóc, chúng con thực mừng vui, nguyện đem hết tấm lòng để phục vụ. Nay con cúi đầu lạy hết tất cả chúng Tăng Ni, Phật tử, như lời Sư phụ dạy, con không dám kể lể, chỉ công quả phục vụ đến ngày cuối cùng mà thôi.

Mà chẳng biết là do con ham công quả cho đại chúng thành Phật, hoặc do con lo hoài nên chẳng biết con có tu hay không, thành ra công phu con cũng ít, lâu lâu nhớ, lâu lâu quên, mà ham làm lắm, làm đến chết cũng được. Cho nên, hễ có điều chi sai sót, xin Sư phụ thông cảm.

Đáp: Bây giờ mình có tu thì tự nhiên mới hướng được sự cúng dường của thí chủ, nếu không tu, như bài kệ: “Hạt gạo của thí chủ, lớn như núi Tu di, nếu không tu giải thoát, mang lông đội sừng trả”. Thí chủ cúng dường là cho mình tu, mỗi người phải tự giác, phải cảnh sách mình.

Tôi đi nhiều chỗ, ít gặp một người Trụ trì nào như thầy Trụ trì ở đây, tất cả đều là phương tiện cho chúng để tu, chỗ ăn chỗ ở, luôn cả phục vụ điểm tâm, cung cấp đầy đủ. Cho nên, đại chúng phải tự hỏi tự xét, để không phụ lòng thầy Trụ trì lo cho mình tu.

Còn tôi thì nóng tánh, tự biết lỗi mà sửa còn chưa được ấy là tập khí từ lâu đời thành ra tôi chẳng dám trách người khác không sửa. Cho nên, mỗi mỗi hãy tự sửa, mới gọi là tu.

Hỏi: Chết rồi, thiêu xong, Phật tánh ở chỗ nào?

Đáp: Phật tánh là tâm, vì tâm có tánh giác ngộ nên gọi Phật tánh. Phật tánh cũng là bản tâm, khắp không gian thời gian nên không có chết. Phật tánh khắp không gian nên chẳng khứ lai, gắn tên gọi Như lai, là đúng như bản lai, chẳng khứ lai thì làm sao có chết rồi đi đâu và ở đâu? Nếu có chỗ thì chẳng phải Phật tánh, vì không cùng khắp vậy. Do người hỏi chấp thật sanh tử nên có câu hỏi này.

Hỏi: Tổ Đạt Ma có Kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học, Lục Tổ có Kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Lai Quả có Thiền Thất Khai Thị Lục, Nguyệt Khê có Tuyệt Đối Luận, vậy sau này nếu Sư phụ tịch, chúng con sẽ căn cứ vào đâu?

Đáp: Tôi là người chưa kiến tánh. Ngài Lai Quả, ngài Nguyệt Khê là người đã kiến tánh, hồi xưa Tổ kiến tánh đã bảy ngàn vị, nhưng người lưu lại kinh luận rất ít, chứ chẳng phải Tổ nào cũng lưu lại, huống là tôi chưa kiến tánh! Tôi chỉ là người nuốt nước miếng của chư Tổ truyền lại rồi đem dạy lại cho quí vị thôi, chứ tự mình tôi có gì đâu!

Thực tế bản tâm của mọi người là trống rỗng vô sở hữu, Lục Tổ đã nói: “Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”. nghĩa là xưa nay đã chẳng một vật thì lấy gì để dính bụi trần! Không có một vật là trống rỗng vô sở hữu, nên gọi Tánh không, tánh không thì chẳng chỗ trụ, nên gọi Vô trụ, ngài Lục Tổ nói “Lấy vô trụ làm gốc, nay nói lưu lại cái gì là có sở trụ rồi. Cũng như Phật Thích Ca, đâu có để lại cái gì, đến sau này đệ tứ kết tập lại mới thành kinh.

Hỏi: Sư phụ có dạy: “Hành giả dụng công tham thiền, giữ nghi tình không hiểu không biết để đưa mình đến kiến tánh thành Phật”. Nhưng cuối cùng Sư phụ lại nói “không có Phật để thành”. Vậy với người đời không dụng công tham thiền, cũng không thành Phật, hai việc này giống nhau chăng?

Đáp: Chưa kiến tánh thành Phật thì nói muốn thành Phật, đến khi kiến tánh rồi mới biết chẳng có Phật để thành, vì đã thành sẵn rồi, nay chưa hiện ra được là bởi kiến lập tri kiến, bị tri kiến che khuất. (Sư phụ đã thí dụ quặng vàng trong Kinh Viên Giác, lược qua). Nên Kinh Lăng Nghiêmnói: “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn”, nếu chẳng kiến lập tri kiến là Niết bàn. Chẳng kiến lập thì vô thỉ vô sanh, tức không có sự bắt đầu và sanh khởi, nói đi nói lại cũng chỉ có bao nhiêu đó thôi.

Hỏi: Thế nào là tâm, Phật, chúng sanh, tâm vô sai biệt?

Đáp: Tất cả duy tâm tạo, Phật cũng là tâm tạo, chúng sanh cũng là tâm tạo, nên chẳng có sai biệt.

Hỏi: Người xưa nói “Cửa biết là cửa tai họa”, nếu như không biết thì làm sao có thể dịch kinh được?

Đáp: Cái biết là biết của bộ não, có cái không biết để đối đãi còn cái biết của Phật tánh không được gọi là biết, vì không có sự đối đãi, gọi là “vô duyên tri”.

Hỏi: Trong lúc con tham thiền, có một giai đoạn rỗng rang không sanh khởi rồi con tự đề lên câu thoại đầu, đề riết cũng không tìm ra vấn đề gì cũng không nhìn thấy gì?

Đáp: Có tìm đã sai lầm rồi, tham thiền là muốn chấm dứt cái biết, tìm hiểu biết, ghi nhớ biết, tùy duyên biết … đều phải chấm dứt, nay dùng cái tìm hiểu làm công phu thì không đúng. Chỉ là hỏi và nhìn đi song song để giữ cái không biết của nghi tình, chứ chẳng phải đi tìm hiểu, nay chẳng những không chịu chấm dứt, còn đi tìm hiểu là nghịch với tham Tổ sư thiền.

Hỏi: Con cũng không thèm suy nghĩ, chỉ giữ cái ý đó, chuẩn bị khởi lên mà không thèm khởi nữa.

Đáp: Không cho khởi cũng không được, khởi với không khởi đều không biết. Do có biết mới nói là khởi với không khởi, đã không biết thì làm sao biết khởi và không khởi?

Hỏi: Vậy chứ cái nghi tình cứ đưa lên hoài!

Đáp: Chẳng có đưa lên đưa xuống, không biết tới, không kiến lập, không bày đặt gì cả, chỉ là hỏi và nhìn đi song song.

Hỏi: Thế nào là người trí, người ngu? Thế nào là người mê, người ngộ?

Đáp: Chấp thật là ngu, là mê, phá chấp thật là trí, là ngộ, chỉ là vậy thôi.

Hỏi: Sao gọi là pháp của mình?

Đáp: Phật pháp chẳng có của mình hay của ai. Tất cả Phật pháp đều nói về cái tâm, tâm thì trống rỗng vô sở hữu chẳng phải thuộc về ai, nếu nói của ai thì ai cũng có đầy đủ.

Hỏi: Thế nào gọi là phương tiện?

Đáp: Phương tiện là tùy duyên, như pháp Tứ nhiếp của Bồ tát là phương tiện: ấy là bố thí, ái ngữ, đồng sự, lợi hành đều là phương tiện để độ chúng sanh. Về bố thí, ái ngữ, lợi hành thì các tôn giáo khác cũng thực hiện được, duy có pháp đồng sự thì chỉ Phật giáo mới làmđược ví như muốn độ con heo phải đầu thai thành con heo, muốn độ người ăn xin phải làm kẻ ăn xin, đó là phương tiện.

Hỏi: Thế nào là phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng?

Đáp: Phân biệt tất cả pháp, ví như biết chén này là chén cơm, chén kia là chén nước, phân biệt rõ ràng, nhưng chẳng khởi phân biệt tưởng, chỉ biết cơm là cơm, không phân biệt cơm ngon cơm dở; chỉ biết nước là nước, không phân biệt nước trong nước đục v.v . . .chứ chẳng phải không phân biệt giữa cơm với nước. Tức là: Phân biệt tất cả pháp, nơi đệ nhất nghĩa mà chẳng động, chỉ có thế lưu bố tưởng mà chẳng có trước tưởng.

Hỏi: Sư phụ nói thời gian không có sự bắt đầu thì làm sao có con quỳ nơi đây để hỏi pháp?

Đáp: Ấy là do bệnh chấp, do cảm giác sai lầm. Trong Bát Nhã Tâm Kinh Lược Giải, tôi có thí dụ: Do cái tâm hoạt động thì phải thấy có sanh tử, tâm hoạt động phải thấy căn nhà xoay. Căn nhà xoay là sanh tử luân hồi, căn nhà ngưng xoay là cứu cánh Niết bàn, nhưng căn nhà có xoay hồi nào đâu mà nói căn nhà ngưng xoay! Do là do thân mình cứ xoay mãi thì căn nhà đâu thể ngưng xoay được? Phải thấy căn nhà xoay thôi, khi nào thân mình ngưng xoay rồi mới thấy căn nhà ngưng xoay. Cũng như tâm của thầy đang hoạt động, dùng tâm hoạt động để hỏi tôi thì sanh tử làm sao lìa?

Hỏi: Khi đề câu thoại đầu lên, là chỉ hỏi một cách nhẹ nhàng thôi, hay quyết tâm phải tìm cho ra câu trả lời?

Đáp: Nếu tìm cho ra câu trả lời là sai lầm, là dùng bộ não đi tìm hiểu. Đã muốn chấm dứt sự tìm hiểu còn đi tìm là nghịch với tham Tổ sư thiền, hỏi câu thoại chỉ là kích thích một niệm không hiểu không biết, chỉ nhìn và hỏi chỗ không hiểu không biết mà thôi. Không hiểu không biết thì không có chỗ, nhìn mãi vẫn là không hiểu không biết, cứ giữ mãi cái không hiểu không biết sẽ đưa hành giả đến chỗ kiến tánh thành Phật, rất giản dị.

Hỏi: Tất cả cuộc sống của chúng con đều ớ trong mở mắt chiêm bao. Khi chúng con tham thiền đến thức tỉnh từ mở mắt chiêm bao, có còn chịu ảnh hưởng trong mở mắt chiêm bao không? Ví như những cảnh mừng giận buồn vui chẳng hạn?

Đáp: Nếu người ấy tập khí sạch như Đức Phật thì hông bị ảnh hưởng, nếu người đó tập khí vẫn còn thì phải bị ảnh hưởng, cho nên, Lục Tổ kiến tánh rồi vẫn phải mười lăm năm bảo nhiệm để dứt tập khí, cả tập khí thế gian và xuất thế gian.

Theo Giáo môn giải thích, Bồ tát Thập địa còn tập khí xuất thế gian rất vi tế như chấp thật có sở ngộ, có sở chứng, có Niết bàn, có giải thoát v.v... đến Đẳng giác sạch rồi mới lên Diệu giác, rồi quả vị Phật. Cho nên, Thiền tông muốn dứt sạch tập khí xuất thế gian, nói “Cái hầm sâu giải thoát rất đáng sợ”.

Ai cũng muốn tu giải thoát, tại sao lại sợ giải thoát? Vì hễ chấp vào cái giải thoát đó tức tập khí xuất thế gian chưa sạch, chẳng thể đến quả Phật được. Do đó, ngài Lục Tổ nói “Thiền định giải thoát chẳng phải Phật pháp”, vì có thiền định là có tán loạn, có giải thoát tức có trói buộc, còn tương đối, Niết bàn cũng vậy, Niết bàn là ngộ, hễ chấp có Niết bàn tức còn mê.

Hỏi: Con nghe Sư phụ nói khi kiến tánh chỉ trừ được tập khí thô, còn tập khí vi tế phải cần một thời gian bảo nhiệm mới dứt sạch. Vậy khi hành giả mới kiến tánh rồi chết đi, có ra khỏi sanh tử luân hồi không?

Đáp: Kiến tánh thì ra khỏi sanh tử luân hồi.

Hỏi: Trong Truyền Tâm Pháp Yếu của ngài Hoàng Bá có câu: “Đức Phật còn phải đoạn dứt hai thứ ngu: Một là vi tế sở tri ngu, hai là cực vi tế sở tri ngu”. Vậy hai thứ ngu đó là gì ?

Đáp: Ấy là tập khí xuất thế gian.

Hỏi: Tại sao vô minh là chỗ đắc đạo của chư Phật?

Đáp: Vì có vô minh mới đắc đạo. Vô minh là mê, đắc đạo là ngộ, nếu không có mê làm sao có ngộ? Nên mê là nhân, ngộ là quả, tham sân si tức là giải thoát.

24/06/97 - 28/06/97; 22/07/97 - 28/07/97 tại Chùa Pháp Thành, q. 6

Hỏi: Thế nào là Bát Nhã vô tri? Thế nào là Hòa quang đồng trần?

Đáp: Trí của Bát Nhã tự động, chẳng thể kiến lập tri, vì hễ có tri tức có vô tri để đối đãi. Hòa quang đồng trần nghĩa là tất cả đều bằng nhau, như ánh sáng cây đèn, đèn lớn thì ánh sáng mạnh hơn, đèn nhỏ ánh sáng yếu hơn, nhưng ánh sáng của đèn lớn đèn nhỏ hòa chung thành một ánh sáng, vốn chẳng có khác, dù muôn ngàn cây đèn cũng cùng một ánh sáng, gọi là hòa quang đồng trần. Ví như bụi trần hòa lẫn trong không khí mà chúng ta không thấy, khi ánh sáng chiếu qua khe cửa, sẽ thấy bụi trần lăng xăng.

Hỏi: Nay người ta dùng các loại ngũ tân như hành, tỏi, củ kiệu hương cừ … chế thành thuốc chữa bệnh, khi Phật tử bị bệnh phải dùng những thứ thuốc đó, có được không?

Đáp: Thì cái đó được khai, như uống rượu cũng vậy. Kỳ thật dùng ngũ tân chẳng phải có phạm giới, nhưng vì chướng ngại cho người tu, hễ ăn sống thì kích thích tánh dâm dục, ăn chín thì kích thích tánh sân hận, nên phải tránh dùng.

Hỏi: Tham Thiền Phổ Thuyết nói “Lục căn khó thâu”, còn Lai Quả Thiền sư nói là như trong nhà đốt cây đèn, các tông phái khác dùng búa đóng bít, che đậy các cửa, còn Thiền Tông thì chẳng phải vậy, trước hết đập bể cây đèn, kế đến là triệt hạ căn nhà, vậy nghĩa này như thế nào?

Đáp: Ấy là thí dụ: Trong nhà đốt lên cây đèn, ánh sáng lọt ra ngoài sáu cửa, nay muốn không cho ánh sáng lọt ra ngoài, nên dùng vải che lại, sáu cửa đều che bít, nhưng khi gió thổi thì bị hở, ánh sáng vẫn lọt ra ngoài, còn Thiền Tông thì khỏi cần che bít cửa sổ, chỉ cần tắt cây đèn trong nhà thì chẳng còn ánh sáng lọt ra ngoài.

Ánh sáng thí dụ vọng tưởng của bộ não, Tiểu thừa thì bít hết lục căn để trừ vọng tưởng, còn Thiền Tông trừ hẵn nguồn gốc, dùng nghi tình chấm dứt hết tất cả biết, hoạt động của bộ não hết thì chẳng còn vọng tưởng nổi lên, lục căn vẫn làm việc bình thường.

Hỏi: Thế nào là phước huệ song tu?

Đáp: Bố thí cúng dường là tu phước, tham thiền là tu huệ, nếu hai thứ đều thực hành gọi là phước huệ song tu.

Hỏi: Thế nào là “lục mở nhất tiêu” trong Kinh Lăng Nghiêm?

Đáp: Lục là lục căn, nhất chỉ thân thể, ý nói thân thể dù chỉ có một, nhưng có lục căn, nếu lục căn đã tiêu mà còn chấp thật thân này cũng không thể giải thoát.

Hỏi: Danh từ “Cổ đức” như thế nào?

Đáp: Cổ là người xưa, Đức là cách xưng hô, tức những vị Đại đức hồi thời xưa, chứ không phải chỉ gọi những vị có đạo đức, theo cách xưng hô ở Việt Nam là từ Hòa thượng rồi đến Thượng Tọa, Đại Đức, nhưng theo giới luật nhà Phật, khi thọ giới Bồ tát, tôn xưng Phật Thích Ca là “Đại Đức Thích Ca Mâu ni”, tôn xưng Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Di Lặc cũng là Đại Đức, do đó Dại Đức cũng không phải là bậc nhỏ. Thật ra, muốn làm Hòa thượng, thân giáo sư thì Tỳ kheo thọ giới mười năm có thể rời thầy, tự làm Hòa thượng dạy đệ tử, còn muốn làm Thượng Tọa phải hai mươi năm, nên Thượng Tọa cũng không phải nhỏ hơn Hòa thượng, nay là vì theo người đời đã quen xưng hô như thế.

Hỏi: Thế nào là nghĩa câu “Cái gì có bỏ ra, không có đừng đem vào” của ông Bàng Uẩn?

Đáp: Cũng như hư không trống rỗng vô sở hữu mới dung nạp và ứng dụng, muốn hiển bày tâm mình, thì những gì đã có trong tâm đem bỏ ra hết, những gì không có chớ mang vào, hễ mang vào tức kiến lập sở hữu, là chướng ngại.

Hỏi: Thế nào là trạm nhập hợp trạm?

Đáp: Chữ Trạm nghĩa là nước trong lặng chẳng làn sóng, có thể nhìn thấu tới đáy, khi nào liệng cục đá vào sẽ khiến nổi lên làn sóng. Đó là hình dung ý thức của mình, “Trạm nhập” tức ý thức hoạt động, mặc dầu không có làn sóng, nhưng ôm cái trong lặng đó (ôm sự ngộ của mình) của không được, vẫn còn ở trong mê trí tứ tướng của bậc thánh. Trạm nhập không có hợp với cái gì, nếu có hợp thì chẳng phải vô sở hữu vậy.

Hỏi: Thế nào là nghĩa “Người chỉ cần vô dục, vô y tức là Phật” của Hòa thượng Nham Đầu?

Đáp: Không có một dục vọng nào gọi là vô dục, không có y vào chỗ nào cả gọi là vô y, cũng là nghĩa trống rỗng vô sở hữu của tâm mình. Đầu óc của con người suốt ngày làm việc gì đều muốn thỏa mãn dục vọng của mình, nhất là vấn đề ham tiền, có tiền thì làm gì cũng được, tiền càng nhiều càng tốt. Do đó, Đức Phật cấm tu sĩ không được cầm tiền, mười phương tín thí cúng dường tiền là để cho mình làm Phật sự, tự giác giác tha, đâu phải để mình thỏa mãn dục vọng! Nên phải vô dục và chẳng nương tựa vào chỗ nào cả.

Hỏi: Ngài Vĩnh Gia nói: “Trống rỗng không, chống nhân quả, mênh mênh mông mông chiêu tai họa” là thế nào?

Đáp: Chấp vào cái không, cho là không có nhân quả thì làm ác cũng chẳng sao, là lọt vào biên kiến, dĩ nhiên phải chiêu tai họa.

16/05/97 – 20/05/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc

Hỏi: Chúng con là Tăng sinh ở cần Thơ, muốn xin Hòa thượng giải giùm, cái này là cái gì?

Đáp: Hãy tự hỏi chính mình, chẳng những cái này không biết, tất cả đều không biết, nay chớ hỏi việc ở ngoài thân, ngay sợi tóc của ông, tế bào của ông còn chẳng tự biết, tức những gì trong cơ thể cũng chẳng tự biết, nói chi ở ngoài?

Hỏi: Tại sao không biết?

Đáp: Vì muốn có sở hữu, muốn có cái biết, cho cái biết cũng là sở hữu của mình. Tại có tư tưởng chấp thật, cho nên, cái biết sai lầm cũng muốn biết. Ông là Tăng sinh, nay ông học biết được cái gì? Hãy nói ra thử?

- … Con không biết.

Đáp: Tự mình học mà không biết, còn muốn hỏi cái gì? Bên Thiền Tông, nghi tình là dùng để tự hỏi, nếu hỏi Phật Thích Ca, dù Phật nói được, đối với tự mình có ích lợi gì? Huống là nói không được! Đức Phật rất sợ những người cứ đuổi theo lời nói để chấp thật như ông, nên trong Kinh Kim Cang, Phật nói: “Ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật”, “Vô pháp khả thuyết mới là thuyết pháp”.

Ông là tăng sinh , những cái bổn phận của ông mà chẳng chịu học, chẳng lẽ rồi cũng trả lời thầy giáo rằng “tôi không biết, không biết là học cái gì?”

Hỏi: Vùng con ở rất xa, chỗ đó chẳng có bậc thầy dẫn dắt tu hành, nên một số cư sĩ thỉnh kinh sách về tự học tự tu, cũng có một số Phật tử đã thọ giới Bồ tát nhưng về nhà không giữ được giới, không trì giới, vậy có phạm giới không?

Đáp: Thọ giới rồi không giữ giới là phạm giới, nếu không hành trì, không giữ được thì xả giới. Trong Phật pháp có thể xả giới, ví như thọ bát quan trai, dù có một ngày một đêm, nhưng cũng xả được.

Hỏi: Vậy xả như thế nào?

Đáp: Thọ giới khó, xả giới thì dễ, chỉ là nói với một người nghe biết tiếng nói là được. Nói với người ấy rằng: “Tôi đã lỡ thọ giới Bồ tát nhưng nay không giữ được, nên xả hết những giới mà thôi đã thọ được”, ấy là được.

Hỏi: Có phải nói với người tu sĩ hay người thường?

Đáp: Chỉ là cư sĩ với cư sĩ cũng được. Tức là người thọ ngũ giới nói với cư sĩ đã thọ ngũ giới, người thọ Bồ tát giới thì nói với người đã thọ Bồ tát giới, cư sĩ cũng được, khỏi cần thầy, còn khi truyền giới thì phải do thầy truyền mới được, sám hối cũng vậy, chẳng thể hối trước bàn thờ Phật vì không ai chứng minh cho.

Hỏi: Xin Sư phụ nói về sự truyền thừa của Tổ Sư Thiền như thế nào?

Đáp: Ngài Lục Tổ là Tổ thứ sáu ở Trung Quốc, nếu tính từ Sơ tổ Ca Diếp thì ngài là Tổ thứ ba mươi ba. Mỗi đời chẳng phải chỉ có một người kiến tánh, nhưng chỉ chọn một vị làm Tổ để tiêu biểu cho người đời sau.

Dưới Lục Tổ có bốn mươi ba vị kiến tánh mà không một người làm Tổ, chỉ được ấn chứng đã kiến tánh mà thôi. Đến sau này thì chưa kiến tánh cũng nối pháp, ví như thời gần đây có ba vị kiến tánh là ngài Lai Quả, ngài Hư Vân, và ngài Nguyệt Khê; ngài Lai Quả kiến tánh nhưng thầy của ngài khi truyền pháp cho ngài là chưa kiến tánh, ngài Hư Vân cũng vậy.

Thời xưa, khi người đệ tử kiến tánh rồi mới gửi thơ báo cho thầy rằng “Con được thầy khai thị khiến ngộ nay xin nối pháp của thầy”. Có khi thư gởi đến nơi thì thầy đã tịch rồi, có khi mười mấy năm sau thư mới đến, thầy cũng quên đi có người đệ tử đó.

Đệ tử sau khi kiến tánh ra hoằng pháp, đốt nén hương đầu tiên tuyên bố rằng “Tôi nói pháp của thầy nào đó”, lúc chưa tuyên bố thì không biết vị đó là nối pháp của ai.

Thời nay là đệ tử chưa kiến tánh thầy cũng truyền pháp, ví như tôi là đời thứ 89, truyền xuống đời thứ 90. Mặc dầu chưa kiến tánh, nhưng có tham thiền cũng còn khá, truyền mãi đến người không có tham thiền, người niệm Phật cũng truyền, vậy cũng được, cũng là có sự tu, nay nhiều người tu Tịnh Độ cũng nối pháp Thiền Tông. Nhưng, tồi tệ hơn là người Thiền cũng không tu, Tịnh cũng không tu, chẳng tu gì hết, chỉ là đi ứng phó kinh sám cũng được truyền thừa, ghi đầy đủ trong pháp quyển, cho nên, truyền mãi là không có giá trị gì cả.

Hỏi: Thế nào là tự tứ?

Đáp: Tự tứ là giải hạ tự tứ. Theo giới luật của Phật, tất cả Tỳ kheo đều phải nhập hạ, đến ngày 14, 15, 16 của tháng bảy là giải hạ, tự tứ là tự kiểm thảo, tất cả chúng đều phải tuần tự ra quỳ trước mặt đại chúng hỏi về kiến, văn, nghi: Kiến là mắt thấy, văn là tai nghe, nghi là không thấy không nghe nhưng có nghi. Ví như hỏi: Tôi chẳng biết tự mình có phạm giới hay không, nên nhờ đại chúng hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghi ngờ tôi có phạm giới thì xin cử tội ra để giúp đỡ cho tôi sám”, gọi là tự tứ.

Hỏi: Con thì ăn chay, ở chung với ông bà nội, hằng ngày bà nội đi chợ mua thịt cá về, bảo con nấu nướng, vậy con có mang tội không?

Đáp: Cấp trên có quyền, mình là cấp dưới, nghe lệnh phải làm theo, tức chẳng có tâm tạo thì không có tội, không tạo nhân thì không phải chịu quả, mà người ra lệnh phải chịu nhân quả đó. Còn hễ trong tâm mình cũng khởi niệm thích như vậy hoặc muốn ăn như vậy thì phải cùng chịu cái quả.

Hỏi: Vậy con muốn trốn ông bà đi tu, có được không?

Đáp: Sụ tích của Phật Thích Ca ai cũng biết, ngài cũng trốn hỏi hoàng cung để đi tu. Nhưng hễ đi tu phải tu cho thành, cũng như Đức Phật vậy, tức là phải tu chơn thật, dù không thành công cũng phải chơn tu, nếu không thì mắc nợ thí chủ. Nên nhớ rằng:

Thí chủ một hạt gạo,

Lớn như núi Tu di.

Nếu không tu giải thoát,

Mang lông đội sừng trả.

Do đó, tôi thường khuyên là nếu chơn tu, tại gia cũng được, không cần xuất gia, nhất là người nữ.

Hỏi: Ở nhà khó tu lắm, thưa Sư phụ?

Đáp: Nếu tu Tổ Sư Thiền thì không phải là khó, chỗ nào cũng tu được.

Hỏi: Khi xưa trên hội Linh Sơn, đức Thế Tôn niêm hoa thị chúng, cả hội ngơ ngác, chỉ có Tôn giả Ma Ha Ca Diếp mỉm cười tỏ ngộ, được đức Thế Tôn truyền tâm pháp và nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, nay phó chúc cho Tôn giả Ca Diếp”.

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn có vị dịch rằng: “Con mắt là cửa của âm dương, là chỗ thần dạo chơi, phải thâu thần nơi con mắt, khiến trở về tâm khiếu, con mắt xem chỗ khiếu ấy chẳng rời, ấy là chỗ chánh pháp nhãn tạng, khế hợp với Niết bàn diệu tâm”, vây có đúng không?

Đáp: Đó là lời của tà ma ác đạo, vì chẳng hiểu Phật pháp. Đã nói Thật tướng vô tướng thì làm gì có những thứ đó?

Hỏi: Ngài Hư vân có nói: “Pháp tu phản văn văn tự tánh” của Bồ tát Quán Thế Âm tức là thoại đầu, vậy hai pháp Phản văn văn tự tánh và tham Tổ Sư Thiền có giống nhau không? Nếu đồng thì đồng ở chỗ nào? Nếu khác thì khác ở chỗ nào?

Đáp: Tổ Sư Thiền là muốn hiển hiện toàn vẹn của tự tánh, tự tánh bất nhị, chẳng nhân duyên đối đãi, Kinh Lăng Nghiêmnói phản văn văn tự tánh: Văn là nghe, trở lại nghe tự tánh, chẳng nghe âm thanh; chẳng những không nghe động, cũng không nghe tịnh, vì động tịnh là pháp sanh diệt, còn tự tánh là pháp bất sanh bất diệt. Nay không nghe âm thanh sanh diệt động tịnh, tức chiếu cố thoại đầu.

Chiếu là chiếu soi, cố là nhìn, nhìn chỗ không biết gì hết, vì không có tướng, trống rỗng vô sở hữu nên chẳng đối đãi, tức là tự tánh bất nhị. Phản văn văn tự tánh cũng như mình nhìn chỗ thoại đầu không biết đó, ý vốn không khác.

Chiếu cố thoại đầu là dùng tánh thấy, phản văn là dùng tánh nghe, cũng là một thứ. Khi sắc thân này chết, đem đi thiêu thành tro, chôn thành đất, còn tánh thấy, tánh ngửi, tánh nếm tồn tại vĩnh viễn chẳng có chết mất, vấn đề này có giảng trong Kinh Lăng Nghiêm.

Hỏi: Thuở Phật còn tại thế, Ngài A Nan bị nàng Ma Đăng Già dùng ma thuật nhiếp vào nhà dâm, sao phải nhờ Đức Phật sai Văn Thù Sư Lợi đem thần chú Lăng Nghiêm đến mới giải cứu cho A Nan được?

Đáp: Do A Ngài và Ma Đăng Già kiếp trước đã có nghiệp duyên, chẳng tự giải thoát được, nên Đức Phật phải sai Bồ tát Văn Thù đem thần chú đến cứu, và nhân dịp độ luôn cho Ma Đăng Già. Sau đó Ma Đăng Già trở thành Tỳ kheo ni và được chứng quả A na hàm, ấy cũng là nhân duyên.

Hỏi: Những vị Tổ đã ra đi thường để lại xá lợi, còn những vị Tổ thời gần dây như ngài Nguyệt Khê, sao để lại kim thân bất hoại làm gì?

Đáp: Nguyện lực của mỗi người mỗi người mỗi khác, như ngài Lục Tổ, Hám Sơn, Đơn Điền cũng để lại nhục thân, ngài Nguyệt Khê cũng vậy. Theo nghi lễ của Phật Giáo, các vị Tổ khi tịch thường là hỏa táng, vị nào có sự tu chứng thì để lại xá lợi, vị nào chẳng tu chứng thì không. Nhưng có xá lợi chẳng thể minh chứng cho sự kiến tánh, kiến tánh mới cần thiết, còn việc có xá lợi chưa chắc đã giải thoát, có khi còn ở trong sinh tử luân hồi.

Hỏi: Người tu theo đạo công giáo khi chết là trở về với Chúa, theo Tịnh Độ thì vãng sanh cõi Cực Lạc, còn hành giả tham Tổ Sư Thiền thì nếu chưa kiến tánh, vãng sanh về đâu?

Đáp: Tại Thầy chưa tin tự tâm, tự tâm vốn chẳng sanh diệt, người khi kiến tánh mới biết vốn không có sanh tử, không sinh tử thì có đi về đâu?

Do bản tâm này khắp không gian chẳng khứ lai nên gọi Như Lai, khắp không gian nên chẳng chỗ nào không biết, nếu mắc đi về đâu, ấy là có chỗ, chỗ này biết thì chỗ khác không biết, có đi về đâu là không cùng khắp, nếu cần đi về đâu thì không được gọi là Như Lai.

Còn khắp thời gian thì chẳng gián đoạn, gọi là Niết bàn, ví như những người tu đạo Thiên Chúa, mặc dầu được sanh cõi Trời, nhưng hễ ngủ mê là không biết, chết giấc cũng không biết, chết rồi vẫn không biết. Người kiến tánh thì khác, ngủ mê vẫn biết, chết giấc, chết rồi vẫn biết; vì kiến tánh rồi thì biết không có sự chết, nói sinh tử chỉ là cảm giác sai lầm mà thôi. (Sư phụ đã ví dụ do thân xoay thấy căn nhà xoay, lược qua).

Hỏi: Làm thế nào khi ngủ vẫn tham thiền được để đi đến thoại đầu?

Đáp: Phải tập dần, tức hỏi và nhìn câu thoại đi song song hoài, sẽ có ngày đến thoại đầu. Tôi nêu thí dụ: Hễ mỗi ngày tăng được một phút thì bốn năm đến thoại đầu, mỗi ngày tăng nửa phút thì tám năm, tăng ¼ phút thì mười sáu năm, tăng ít hơn nữa thì ba mươi hai năm đến thoại đầu.

Hỏi: Có một vị xuất gia cùng con, vị này ở trong chúng hay nổi sân, làm việc chúng cũng sân, lại hay phiền não. Đã là người xuất gia mà không bỏ được những tập khí đó thì phải làm sao? Xin Sư phụ từ bi khai thị.

Đáp: Do không tin pháp môn, cũng không tin tự tâm, chẳng thực hành cho đúng thì đâu thể sửa lại tạp khí phiền não từ lâu đời!

Hỏi: Thế nào là nhiễm, thế nào là chẳng nhiễm?

Đáp: Có sở trụ là nhiễm, không trụ tức chẳng nhiễm.

Hỏi: Phật mẫu là ai?

Đáp: Đó là do những người mê tín không biết Phật pháp, ví như gọi Bồ tát Quán Thế Âm là Phật mẫu. Bồ tát Quán Thế Âm đâu phải đàn bà! Đó chỉ là một trong thiên bá ức hóa thân hóa độ chúng sinh, như trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa đã nói. Chúng ta dù là phàm phu cũng có tam thân, cũng có thần lực đó, chỉ tại không thể sử dụng được thôi.

Hỏi: Trong Mộng Du Tập của ngài Hám Sơn, có vị Cổ đức nói “Ngộ pháp vô sanh thấy sát na” là thế nào? Đã ngộ vô sanh thì có sát na nào có thể thấy? Nếu thấy có sát na tức chẳng phải ngộ vô sanh, sao lại nói “Ngộ vô sanh mới thấy sát na?”Thế thì vô sanh với sát na là một hay khác?

Đáp: Vì phương tiện muốn cho phàm phu hiểu được một phần nào, nên mới kiến lập sát na, ấy là do thế gian đã kiến lập cái sát na rồi nên sát na là do kiến lập mới có. Tôi đã nói, Phật pháp chẳng thể kiến lập, luôn cả hư không cũng vậy, huống là sát na!

Kiến lập thì chẳng phải thực tế, Đức Phật vì sợ chúng sinh chấp vào cái kiến lập đó, nên kiến lập rồi lại phủ định, do đó Phật pháp có lập và phá: Ví như đối với hạ căn thì chỉ có lập không có phá, đối với trung căn là lập rồi phá, đối với thượng căn thì chẳng lập cũng chẳng phá, vì có gì để lập đâu!

Hỏi: Lọt vào hư không mỗi lần dài hơn một chút có phải tiểu tử không?

Đáp: Không phải, tôi nói “lọt vào hư không” chỉ là phương tiện để thí dụ cho biết, nay chúng ta cũng đang ở trong hư không, làm sao có lọt vào đâu nữa? Hư không này tức là tâm của mình, bây giờ cũng đang dùng, ấy là thực tế, mục đích để tăng cường lòng tin cho hành giả tham thiền, ngoài ra chẳng phải có đạo lý cao siêu.

Hỏi: Con muốn xin Sư phụ kể lại quá trình tu tiến công phu từ lúc bắt đầu khởi công tham Tổ sư thiền, cho đến tối ngộ ?

Đáp: Mọi người hãy tự lo công phu của mình, chứ đừng lo cho người khác. Quá trình của quá khứ chư Phật chư Tổ mỗi mỗi đều khác biệt, các vị đồng tham cũng vậy, việc đó vô ích mà còn có chướng ngại. Cho nên, hãy tự lo tu đi. Cứ tự tham cho miên mật, đến chứng ngộ là thự biết, chứ dùng bộ não đi tìm hiểu la sai lầm. Lời nói của Phật còn không cho người ta bắt chước, huống là người chưa kiến tánh!

Ví như Phẩm thí dụ Thọ Lượng của Như Lai với tám tướng thành Phật ở cõi Ta Bà này khác xa lấm, ấy là chuyện do Phật kể còn không phải thực tế mà ? Nay ông muốn tìm cái không phải thực tế để làm gì? Chỉ cần hỏi và nhìn câu thoại đầu thì sẽ đi đến chỗ thực tế, nếu dùng bộ não đi tìm hiểu, chỉ càng tìm càng xa thôi.

Hỏi: Ý con chỉ muốn Sư phụ dẫn dắt chúng con đi đến

chỗ thoại đầu mà thôi.

Đáp: Tôi đã chỉ ra đường lối do chư Tổ truyền lại cho mọi người tu; do đó không cho đi theo lối tẻ, không cho đi bậy. Như ông hiện nay hỏi là theo lối tẻ, không đúng với đường lối. Đường lối tham Tổ sư thiền là giữ nghi tình không hiểu không biết, là chấm dứt tất cả tìm hiểu biết, ghi nhớ biết, suy nghĩ biết, nay đi tìm hiểu những cái không thực tế là chướng ngại sự tham thiền, đã là nghịch rồi, tìm hiểu sự tích của Phật Thích Ca cũng còn không được, ví như nói về ngày Phật đản sanh chẳng hạn.

Hỏi: Lục Tổ nói trong Kinh Pháp Bảo Đàn về “Hàng phục tâm,an trụ tâm, nhưng tâm thì vô sở trụ, trụ nơi vô sở trụ mới gọi là chọn trụ” là thế nào?

Đáp: Vấn đề An trụ tâm, hàng phục tâm trong Kinh Kim Cang, những người có tư tưởng chấp thật thì giải thích theo chủ quan của mình mà chẳng biết ý của Phật nói câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, vì vọng tâm của mình luôn lăng xăng, nay thực hành tham Tổ sư thiền, hỏi và nhìn đi song song đã là hàng phục tâm rồi.

An trụ tâm cũng vậy, hễ giữ được nghi tình thì tâm luôn an trụ, chẳng bị ngoại cảnh lôi kéo, tốt đẹp thế nào cũng không biết, xấu cách mấy cũng không biết, ấy là hàng phục tâm, an trụ tâm rồi, nếu đùng lời nói để giải thích theo cách chủ quan là sai, không đúng với thực tế.

Hỏi: Hành giả tham Tổ sư thiền đối với những ngày giỗ Tổ, phải thờ cúng ông bà cha mẹ như thế nào?

Đáp: Không có cúng kiến thế nào, nếu tự mình không muốn cúng thì chẳng cúng gì cả, còn muốn theo thế tục cúng thì cứ cúng, cũng chẳng có chướng ngại. Tức là: Chỉ cần hỏi và nhìn đi song song, ngoài ra không biết tới; nếu có bà con thân thuộc bắt buộc mình phải cúng thì cúng cũng được.

Vì bản tâm là Phật, nay tu hành là muốn phát hiện bản tâm của mình để kiến tánh thành Phật, còn mục đích cúng kiến là gì? Hễ muốn phù hộ thì không cần phù hộ, cũng chẳng thể phù hộ, còn cúng ký niệm thì cũng được, tất cả đều tùy duyên, chứ chẳng phải nhất định phải cúng hay không cúng, nhất định cần hay không cần.

Hỏi: Thế nào là chánh pháp nhãn tạng?

Đáp: Tổ sư thiền này là chánh pháp nhãn tạng. Khi đức Phật truyền pháp cho Sơ tổ Ma Ha Ca Diếp, Ngài có nói: “Nay đem chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm truyền cho Ca Diếp”, vậy là rõ rồi.

Hỏi: Khi tham thoại đầu phải có câu hỏi mới sanh được nghi tình, như vậy hành giả luôn an trú trong cái nghi, nhưng dần dần do cái nghi không giải quyết được nên sự tham trở thành niệm rồi?

Đáp: Không phải, trong câu tham phải có cái nghi, không hiểu không biết mới thành nghi, nếu chỉ có hỏi có thể biến thành niệm, nếu vừa hỏi vừa nhìn thì không biến thành niệm.

Hỏi: Hành giả tham thiền làm sao biết mình là tiểu ngộ đại ngộ?

Đáp: Hễ ngộ rồi còn ôm cảnh giới ngộ, tức cho là mình đã ngộ thì gọi là tiểu ngộ, hễ ngộ rồi luôn cả cảnh giới ngộ cũng không mới là đại ngộ. Vì ngộ là đối với mê, nếu ngộ triệt để thì hết mê, mê đã hết, ngộ cũng không còn cho nên mê ngộ đều sạch.

14/06/97 - 20/06/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc

Hỏi: Tại sao nói pháp tham Tổ Sư Thiền là pháp xuất gian?

Đáp: Đối với thế gian thì nói xuất thế gian, sự thật thì pháp thế gian và xuất thế gian chẳng khác. Do người ta có bệnh chấp sai lầm về thế gian, muốn ra khỏi sai lầm đó mới nói là xuất, chứ thế gian và xuất thế gian không khác. Tại sao? Vì tâm chẳng có khác, người thế gian cũng là cái tâm này, người nói tu xuất thế gian cũng là cái tâm này. (Sư phụ đã giải thích tâm như hư không trống rỗng vô sở hữu, lược qua.)

Hỏi: Thế nào là hỏa Tam muội, tánh Tam muội? Và cách ngồi kiết già do Phật Thích Ca hay Thiền sư nào đặt ra?

Đáp: Tất cả đều do người ta đặt ra tên gọi, chứ Phật Thích Ca đã nói vô thỉ vô sanh, vô sanh thì chẳng thể đặt ra, hễ đặt ra là có sự bắt đầu rồi. Người ta đặt ra thiền quán, quán lửa thì gọi là hỏa tam muội, quán thủy thì gọi là thủy tam muội ... ấy là do người bày đặt. Còn Tổ sư thiền là chẳng có gì cả, chỉ do Tổ sư từng đời truyền xuống, miễn cưỡng gọi là Tổ sư thiền, chứ không có tên gọi, luôn cả thiền cũng không, vì trống rỗng vô sở hữu, chẳng thể kiến lập.

Lời tác bạch của thầy Trụ trì chùa Tam Bảo:

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Sư phụ: Con cúi đầu đánh lễ Sư phụ, khi con được gặp ngài, con quyết lòng tin pháp môn đây là của Đức Thích Ca truyền dạy, Sư phụ dạy lại. Từ đó đến nay mười mấy năm, con quyết chí công quả cho Tam bảo để thành tựu cho tất cả chúng sanh, như Sư phụ dạy nam là cha, nữ là mẹ của mình. Con nguyện đời nào trơ về cõi Ta Bà này cũng theo Sư phụ để đền ơn cho Phật và Sư phụ, và tất cả đều thành Phật.

Hôm nay mọi người về đây cùng nhau tu hành, thương nhau như con một cha, nhà một nóc, chúng con thực mừng vui, nguyện đem hết tấm lòng để phục vụ. Nay con cúi đầu lạy hết tất cả chúng Tăng Ni, Phật tử, như lời Sư phụ dạy, con không dám kể lể, chỉ công quả phục vụ đến ngày cuối cùng mà thôi.

Mà chẳng biết là do con ham công quả cho đại chúng thành Phật, hoặc do con lo hoài nên chẳng biết con có tu hay không, thành ra công phu con cũng ít, lâu lâu nhớ, lâu lâu quên, mà ham làm lắm, làm đến chết cũng được. Cho nên, hễ có điều chi sai sót, xin Sư phụ thông cảm.

Đáp: Bây giờ mình có tu thì tự nhiên mới hướng được sự cúng dường của thí chủ, nếu không tu, như bài kệ: “Hạt gạo của thí chủ, lớn như núi Tu di, nếu không tu giải thoát, mang lông đội sừng trả”. Thí chủ cúng dường là cho mình tu, mỗi người phải tự giác, phải cảnh sách mình.

Tôi đi nhiều chỗ, ít gặp một người Trụ trì nào như thầy Trụ trì ở đây, tất cả đều là phương tiện cho chúng để tu, chỗ ăn chỗ ở, luôn cả phục vụ điểm tâm, cung cấp đầy đủ. Cho nên, đại chúng phải tự hỏi tự xét, để không phụ lòng thầy Trụ trì lo cho mình tu.

Còn tôi thì nóng tánh, tự biết lỗi mà sửa còn chưa được ấy là tập khí từ lâu đời thành ra tôi chẳng dám trách người khác không sửa. Cho nên, mỗi mỗi hãy tự sửa, mới gọi là tu.

Hỏi: Chết rồi, thiêu xong, Phật tánh ở chỗ nào?

Đáp: Phật tánh là tâm, vì tâm có tánh giác ngộ nên gọi Phật tánh. Phật tánh cũng là bản tâm, khắp không gian thời gian nên không có chết. Phật tánh khắp không gian nên chẳng khứ lai, gắn tên gọi Như lai, là đúng như bản lai, chẳng khứ lai thì làm sao có chết rồi đi đâu và ở đâu? Nếu có chỗ thì chẳng phải Phật tánh, vì không cùng khắp vậy. Do người hỏi chấp thật sanh tử nên có câu hỏi này.

Hỏi: Tổ Đạt Ma có Kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học, Lục Tổ có Kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Lai Quả có Thiền Thất Khai Thị Lục, Nguyệt Khê có Tuyệt Đối Luận, vậy sau này nếu Sư phụ tịch, chúng con sẽ căn cứ vào đâu?

Đáp: Tôi là người chưa kiến tánh. Ngài Lai Quả, ngài Nguyệt Khê là người đã kiến tánh, hồi xưa Tổ kiến tánh đã bảy ngàn vị, nhưng người lưu lại kinh luận rất ít, chứ chẳng phải Tổ nào cũng lưu lại, huống là tôi chưa kiến tánh! Tôi chỉ là người nuốt nước miếng của chư Tổ truyền lại rồi đem dạy lại cho quí vị thôi, chứ tự mình tôi có gì đâu!

Thực tế bản tâm của mọi người là trống rỗng vô sở hữu, Lục Tổ đã nói: “Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”. nghĩa là xưa nay đã chẳng một vật thì lấy gì để dính bụi trần! Không có một vật là trống rỗng vô sở hữu, nên gọi Tánh không, tánh không thì chẳng chỗ trụ, nên gọi Vô trụ, ngài Lục Tổ nói “Lấy vô trụ làm gốc, nay nói lưu lại cái gì là có sở trụ rồi. Cũng như Phật Thích Ca, đâu có để lại cái gì, đến sau này đệ tứ kết tập lại mới thành kinh.

Hỏi: Sư phụ có dạy: “Hành giả dụng công tham thiền, giữ nghi tình không hiểu không biết để đưa mình đến kiến tánh thành Phật”. Nhưng cuối cùng Sư phụ lại nói “không có Phật để thành”. Vậy với người đời không dụng công tham thiền, cũng không thành Phật, hai việc này giống nhau chăng?

Đáp: Chưa kiến tánh thành Phật thì nói muốn thành Phật, đến khi kiến tánh rồi mới biết chẳng có Phật để thành, vì đã thành sẵn rồi, nay chưa hiện ra được là bởi kiến lập tri kiến, bị tri kiến che khuất. (Sư phụ đã thí dụ quặng vàng trong Kinh Viên Giác, lược qua). Nên Kinh Lăng Nghiêmnói: “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn”, nếu chẳng kiến lập tri kiến là Niết bàn. Chẳng kiến lập thì vô thỉ vô sanh, tức không có sự bắt đầu và sanh khởi, nói đi nói lại cũng chỉ có bao nhiêu đó thôi.

Hỏi: Thế nào là tâm, Phật, chúng sanh, tâm vô sai biệt?

Đáp: Tất cả duy tâm tạo, Phật cũng là tâm tạo, chúng sanh cũng là tâm tạo, nên chẳng có sai biệt.

Hỏi: Người xưa nói “Cửa biết là cửa tai họa”, nếu như không biết thì làm sao có thể dịch kinh được?

Đáp: Cái biết là biết của bộ não, có cái không biết để đối đãi còn cái biết của Phật tánh không được gọi là biết, vì không có sự đối đãi, gọi là “vô duyên tri”.

Hỏi: Trong lúc con tham thiền, có một giai đoạn rỗng rang không sanh khởi rồi con tự đề lên câu thoại đầu, đề riết cũng không tìm ra vấn đề gì cũng không nhìn thấy gì?

Đáp: Có tìm đã sai lầm rồi, tham thiền là muốn chấm dứt cái biết, tìm hiểu biết, ghi nhớ biết, tùy duyên biết … đều phải chấm dứt, nay dùng cái tìm hiểu làm công phu thì không đúng. Chỉ là hỏi và nhìn đi song song để giữ cái không biết của nghi tình, chứ chẳng phải đi tìm hiểu, nay chẳng những không chịu chấm dứt, còn đi tìm hiểu là nghịch với tham Tổ sư thiền.

Hỏi: Con cũng không thèm suy nghĩ, chỉ giữ cái ý đó, chuẩn bị khởi lên mà không thèm khởi nữa.

Đáp: Không cho khởi cũng không được, khởi với không khởi đều không biết. Do có biết mới nói là khởi với không khởi, đã không biết thì làm sao biết khởi và không khởi?

Hỏi: Vậy chứ cái nghi tình cứ đưa lên hoài!

Đáp: Chẳng có đưa lên đưa xuống, không biết tới, không kiến lập, không bày đặt gì cả, chỉ là hỏi và nhìn đi song song.

Hỏi: Thế nào là người trí, người ngu? Thế nào là người mê, người ngộ?

Đáp: Chấp thật là ngu, là mê, phá chấp thật là trí, là ngộ, chỉ là vậy thôi.

Hỏi: Sao gọi là pháp của mình?

Đáp: Phật pháp chẳng có của mình hay của ai. Tất cả Phật pháp đều nói về cái tâm, tâm thì trống rỗng vô sở hữu chẳng phải thuộc về ai, nếu nói của ai thì ai cũng có đầy đủ.

Hỏi: Thế nào gọi là phương tiện?

Đáp: Phương tiện là tùy duyên, như pháp Tứ nhiếp của Bồ tát là phương tiện: ấy là bố thí, ái ngữ, đồng sự, lợi hành đều là phương tiện để độ chúng sanh. Về bố thí, ái ngữ, lợi hành thì các tôn giáo khác cũng thực hiện được, duy có pháp đồng sự thì chỉ Phật giáo mới làm

được ví như muốn độ con heo phải đầu thai thành con heo, muốn độ người ăn xin phải làm kẻ ăn xin, đó là phương tiện.

Hỏi: Thế nào là phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng?

Đáp: Phân biệt tất cả pháp, ví như biết chén này là chén cơm, chén kia là chén nước, phân biệt rõ ràng, nhưng chẳng khởi phân biệt tưởng, chỉ biết cơm là cơm, không phân biệt cơm ngon cơm dở; chỉ biết nước là nước, không phân biệt nước trong nước đục v.v . . .chứ chẳng phải không phân biệt giữa cơm với nước. Tức là: Phân biệt tất cả pháp, nơi đệ nhất nghĩa mà chẳng động, chỉ có thế lưu bố tưởng mà chẳng có trước tưởng.

Hỏi: Sư phụ nói thời gian không có sự bắt đầu thì làm sao có con quỳ nơi đây để hỏi pháp?

Đáp: Ấy là do bệnh chấp, do cảm giác sai lầm. Trong Bát Nhã Tâm Kinh Lược Giải, tôi có thí dụ: Do cái tâm hoạt động thì phải thấy có sanh tử, tâm hoạt động phải thấy căn nhà xoay. Căn nhà xoay là sanh tử luân hồi, căn nhà ngưng xoay là cứu cánh Niết bàn, nhưng căn nhà có xoay hồi nào đâu mà nói căn nhà ngưng xoay! Do là do thân mình cứ xoay mãi thì căn nhà đâu thể ngưng xoay được? Phải thấy căn nhà xoay thôi, khi nào thân mình ngưng xoay rồi mới thấy căn nhà ngưng xoay. Cũng như tâm của thầy đang hoạt động, dùng tâm hoạt động để hỏi tôi thì sanh tử làm sao lìa?

Hỏi: Khi đề câu thoại đầu lên, là chỉ hỏi một cách nhẹ nhàng thôi, hay quyết tâm phải tìm cho ra câu trả lời?

Đáp: Nếu tìm cho ra câu trả lời là sai lầm, là dùng bộ não đi tìm hiểu. Đã muốn chấm dứt sự tìm hiểu còn đi tìm là nghịch với tham Tổ sư thiền, hỏi câu thoại chỉ là kích thích một niệm không hiểu không biết, chỉ nhìn và hỏi chỗ không hiểu không biết mà thôi. Không hiểu không biết thì không có chỗ, nhìn mãi vẫn là không hiểu không biết, cứ giữ mãi cái không hiểu không biết sẽ đưa hành giả đến chỗ kiến tánh thành Phật, rất giản dị.

Hỏi: Tất cả cuộc sống của chúng con đều ớ trong mở mắt chiêm bao. Khi chúng con tham thiền đến thức tỉnh từ mở mắt chiêm bao, có còn chịu ảnh hưởng trong mở mắt chiêm bao không? Ví như những cảnh mừng giận buồn vui chẳng hạn?

Đáp: Nếu người ấy tập khí sạch như Đức Phật thì hông bị ảnh hưởng, nếu người đó tập khí vẫn còn thì phải bị ảnh hưởng, cho nên, Lục Tổ kiến tánh rồi vẫn phải mười lăm năm bảo nhiệm để dứt tập khí, cả tập khí thế gian và xuất thế gian.

Theo Giáo môn giải thích, Bồ tát Thập địa còn tập khí xuất thế gian rất vi tế như chấp thật có sở ngộ, có sở chứng, có Niết bàn, có giải thoát v.v... đến Đẳng giác sạch rồi mới lên Diệu giác, rồi quả vị Phật. Cho nên, Thiền tông muốn dứt sạch tập khí xuất thế gian, nói “Cái hầm sâu giải thoát rất đáng sợ”.

Ai cũng muốn tu giải thoát, tại sao lại sợ giải thoát? Vì hễ chấp vào cái giải thoát đó tức tập khí xuất thế gian chưa sạch, chẳng thể đến quả Phật được. Do đó, ngài Lục Tổ nói “Thiền định giải thoát chẳng phải Phật pháp”, vì có thiền định là có tán loạn, có giải thoát tức có trói buộc, còn tương đối, Niết bàn cũng vậy, Niết bàn là ngộ, hễ chấp có Niết bàn tức còn mê.

Hỏi: Con nghe Sư phụ nói khi kiến tánh chỉ trừ được tập khí thô, còn tập khí vi tế phải cần một thời gian bảo nhiệm mới dứt sạch. Vậy khi hành giả mới kiến tánh rồi chết đi, có ra khỏi sanh tử luân hồi không?

Đáp: Kiến tánh thì ra khỏi sanh tử luân hồi.

Hỏi: Trong Truyền Tâm Pháp Yếu của ngài Hoàng Bá có câu: “Đức Phật còn phải đoạn dứt hai thứ ngu: Một là vi tế sở tri ngu, hai là cực vi tế sở tri ngu”. Vậy hai thứ ngu đó là gì ?

Đáp: Ấy là tập khí xuất thế gian.

Hỏi: Tại sao vô minh là chỗ đắc đạo của chư Phật?

Đáp: Vì có vô minh mới đắc đạo. Vô minh là mê, đắc đạo là ngộ, nếu không có mê làm sao có ngộ? Nên mê là nhân, ngộ là quả, tham sân si tức là giải thoát.

14/07/1997 - 20/07/1997 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc

Hỏi: Thần thông trí huệ của mọi người đồng như Phật, vậy đến khi nào mới hiện ra như Phật được?

Đáp: Chừng nào tất cả sở hữu đều không còn nữa sẽ hiện ra đồng như Phật.

Hỏi: Thế nào là cội nguồn chân thật của Tự tánh?

Đáp: Chỗ trống rỗng vô sở hữu đó tức là tâm của ông, là nguồn gốc chân thật, gọi là Tự tánh, cũng gọi Phật tánh, trí Bát nhã, Vô duyên tri, Chánh biến tri, cũng gọi Bồ đề, Niết bàn, giải thoát, vô trụ. Vì trống rỗng không có chỗ để trụ, nên gọi vô trụ; vì chẳng trói buộc nên gọi giải thoát.

Hỏi: Thế nào là lễ tự tứ?

Đáp: Tự là tự mình, tứ là kiểm thảo. Giải hạ tự tứ là mỗi người tự kiểm thảo trong ba tháng hạ có phạm giới không? Có khi tự mình không biết, phải hỏi tất cả chúng có thấy mình phạm giới không? Hoặc có ai nghe, hoặc nghi ngờ mình phạm giới không? Xin ra cử tội, gọi là kiến, văn, nghi. Nếu người biết mà che giấu không ra cử tội, sau này phát giác, tội che giấu đó đồng như người phạm: Ví như người đó phạm tội Ba-la-di là chín triệu năm, người che giấu cũng bằng tội Ba-la-di chín triệu năm. Cho nên, sống chung trong chúng không dễ phạm tội, vì giám sát lẫn nhau.

Hỏi: Chúng con đến Thiền đường tham thiền, ai cũng muốn kiến tánh thành Phật, tại sao không cho có tâm chờ ngộ?

Đáp: Có đi sẽ đến. không đi không đến, đi nhanh đến nhanh, đi chậm đến chậm, cũng như muốn đi Thành phố Hồ Chí Minh, bất kể đi xe, đi tàu, đi bộ … hễ đi thì sẽ đến, không cần chờ đợi cũng đến. Nếu chỉ suốt ngày nói tôi muốn đi Thành phố ...” nói mãi mà chẳng đi thì làm sao đến! Lại nữa, tham thiền là tâm pháp, nếu có tâm chờ đợi là kiến lập, là chướng ngại, là có sở trụ, dẫu cho có ngộ cũng không cho trụ. không cho ôm cái ngộ, nên nói “Ngộ rồi đồng như chưa ngộ”. Nếu còn ôm sự ngộ tức chưa ngộ, vì mê ngộ là đối đãi, người triệt ngộ là hết mê, hết mê thì hết ngộ.

Hỏi: Sư phụ ngày nay hoàng dương Thiền tông, các vị Tổ ngày xưa có nói ra những lời chuyển ngữ hay những hoạt cú cho hành giả đi đến, vậy đời nay đời xưa có khác nhau không?

Đáp: Không khác, nhưng Chuyển ngữ là lời nói vô sở trụ, phải người kiến tánh mới nói ra được, vì đời nay không có người kiến tánh, nên chẳng nói được chuyển ngữ. Do đó có câu “Dù được Xá lợi bao nhiêu, không bằng đáp được một chuyển ngữ của ta”. Vì hễ nói ra được chuyển ngữ tức đã tự do tự tại, tự chủ vĩnh viễn.

Còn “hoạt cú” là người kiến tánh rồi mới sử dụng được, người chưa kiến tánh nói đến đâu trụ đến đó, là tử cú chứ chẳng phải hoạt cú. Ví như nhiều người giảng kinh thuyết pháp, cho tất cả đều là huyễn hóa, lọt vào biên kiến mà tự mình chẳng biết. Kinh Lăng Nghiêm nói: Phi huyễn còn chẳng thể kiến lập, huống là pháp huyễn ? Nay chấp chơn cũng lọt vào biên kiến, chấp giả, chấp vọng ... cũng vậy; chấp cái chơn là thật chơn bệnh còn dễ trị, chấp cái vọng là thật vọng mới khó trị.

Hỏi: Những người theo tôn giáo khác đến học Tổ Sư Thiền có phải bỏ đạo bội sư không?

Đáp: Không phải. Trên thực tế, Phật giáo chẳng phải là một tôn giáo, mà là giáo dục, nói chúng sanh, chẳng những nhân loại, tất cả hàm linh đều bao gồm. Nhân loại chỉ là một phần của chúng sanh, trong nhân loại có đủ thứ tôn giáo, kể cả tà ma ác đạo, thế gian công, thương, kỹ, nghệ v.v... chẳng thiếu sót cái nào.

Phật giáo nói chúng sanh bình đẳng, chứ chẳng phải chỉ là tôn giáo bình đẳng hay con người bình đẳng, là tất cả chúng sanh đều cùng một Phật tánh, tất cả Phật pháp chỉ là hiển bày cái tâm của chính mình mà thôi.

Tôi thường dẫn dụ lời của ngài Long Thọ nói “Tâm như hư không vô sở hữu”, vì vô sở hữu nên trống rỗng, trống rỗng nên bao gồm, dung nạp và ứng dụng. Tất cả tôn giáo đều nhờ cái trống rỗng này dung nạp và ứng dụng, cho đến tất cả chúng sanh, sâu bọ, hàm linh, thảo mộc ... chẳng cái nào ở ngoài cái vô sở hữu này, đều là đối tượng giáo đục của Phật, kể cả những người phỉ báng Phật cũng vậy.

Hỏi: Chánh pháp nhãn và Tổ sư thiền là hai hay một?

Đáp: Phương pháp tham Tổ sư thiền là đường lối để đi đến chánh pháp nhãn.

Hỏi: Hai danh từ “ tác ý” và “tạo tác” có giống nhau không?

Đáp: Tác ý là ý thức nổi niệm nhưng chưa thực hiện, còn tạo tác là đã thực hiện. Ví như tôi nổi ý muốn lấy cắp cái tách này nhưng chưa hành động, còn tạo tác là đã dời cái tách này ra khỏi chỗ cũ rồi.

Hỏi: Vậy thì tác ý có nhân quả không?

Đáp: Thọ giới Bồ tát rồi hễ tác ý là phạm giới, còn giới Thanh văn thì tạo tác rồi mới phạm, nhưng theo nhân quả thì khởi tâm tác ý đã là phạm.

Hỏi: Sư phụ dạy hành giả tham thiền phải dứt ba cái tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Trong khi thực hành công phu, chúng con đề lên câu thoại đầu để phát khởi nghi tình, ngay lúc đó, dù có tác ý hay không, chúng con vẫn lọt vào cái ghi nhớ biết nghi tình rồi?

Đáp: Không phải vậy, tìm hiểu là biết, có nổi lên cái biết mới có thể tìm hiểu, nếu giữ được nghi tình tức không hiểu không biết, vì không biết thì không nổi lên cái tìm hiểu, tự động chấm dứt cái tìm hiểu biết. Hễ khởi lên suy nghĩ tức là biết (biết mình đang suy nghĩ) thì chẳng phải nghi tình rồi! Lại nổi lên cái biết, nói mình có trí nhớ, ấy cũng chẳng phải tham thiền. Tham thiền là mình có trí nhớ hay không đều không biết; nhớ cũng không biết quên cũng không biết, mới gọi là nghi tình.

Theo ông thì tự cho là nhớ hay quên đều có ghi nhớ, ấy là sai lầm. Lại người giữ được nghi tình tự nhiên quên tất cả, nếu chưa quên tức công phu còn cạn.

Hỏi: Có phải Bắc Câu Lô Châu trước kia ở trên quả đất này và đã bị chìm đắm theo thời gian?

Đáp: Trong Phật pháp nói đến bốn đại bộ châu: Quả đất mình đang ở gọi là Nam Thiệm Bộ Châu, còn ba bộ châu kia ở ba hành tinh khác, chứ chẳng phải ở cùng quả đất này. Ví như bốn đại bộ châu là bốn quả địa cầu, ở Bắc Câu Lô Châu thì không có Phật pháp, mọi người đều sống trên một ngàn tuổi, do có phước báo nên hễ khởi niệm muốn ăn là có thức ăn trước mặt, ăn xong tự nó biến mất. Ở đó không có chế độ vợ chồng, sanh con rồi tự nó trưởng thành, chẳng cần ai nuôi, tất cả đều theo tự nhiên. Cho nên, Phật pháp chỉ thể hiện trên ba bộ châu, còn Bắc Câu Lô Châu thì Phật pháp chẳng thể đến được.

Sư phụ khai thị cho chúng ở Chùa Tam Bảo:

Nay đạo tràng này có phải hoàn toàn là Thiền tông chưa? Thiền tông là chuyên tu Tổ sư thiền, Tổ sư thiền thì không có đi đám để kiếm tiền nữa, tất cả chúng sống trong phạm vi của chùa đều phải chuyên tu Tổ sư thiền, phải giữ quy củ của Thiền đường, nếu phạm một lần cảnh cáo, hai lần, ba lần cảnh cáo còn không sửa thì đuổi.

Chùa cung cấp đầy đủ: ăn uống, thuốc men, Tu sĩ hay cư sĩ, quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, để kiến lập một đạo tràng chuyên tu như ở Trung Quốc vậy.

Nay Chùa dã có Ban Hộ Tự, có tài chánh, thư ký, tất cả đều theo tổ chức, nhưng do Ban Chức Sự chùa lãnh đạo để duy trì cho đạo tràng. Ban Chức Sự có thể một tháng, ba tháng hoặc sáu tháng họp một lần để trao đổi công việc, thu chi của chùa phải công bố hàng tháng, những việc nhỏ phải thông qua Ban Chức Sự chùa, việc lớn phải thông qua 2/3 hoặc hơn 1/2 chúng mới được thực hiện, theo thời Phật là phải thông qua 100%.

Theo tòng lâm Trung Quốc, khi đi làm công tác trồng trọt, canh tác là phổ thỉnh đại chúng, ai ai cũng phái tham gia, ngoại trừ những vị chức sự đã có công tác hàng ngày, tất cả thanh chúng đều phải đi làm, tức là: Giờ toạ hương, đi hương thì tập trung công phu, giờ làm việc là mọi người cùng ra làm.

Hỏi: Mặc dù nghe Sư phụ khai thị bản tâm như hư không vô sở hữu, chỗ đó thì con tin, nhưng bằng lòng thì con chưa bằng lòng?

Đáp: Tâm như hư không vô sở hữu, vô sở hữu thì chẳng có người bằng lòng hay không bằng lòng, cũng chẳng có việc gì bằng lòng hay không bằng lòng, nói tin là tin cái gì?

- Tin chỗ Sư phụ nói là hư không vô sở hữu.

- Ấy là ngài Long Thọ nói, và tôi chỉ đem nước miếng của ngài nhổ lại cho nghe thôi, chứ chẳng phải là lời của tôi.

Mặc dù nước miếng nhưng vẫn có hương vị, con vẫn tin như vậy, mà bằng lòng thì chưa bằng lòng.

- Vì có kiến lập sở hữu, nên nghịch với bản thể vô sở hữu.

Hỏi: Vậy xin Sư phụ từ bi khai thị cho con một câu như thế nào, để cho con ổn cái không bằng lòng?

Đáp: Cứ hỏi và nhìn đi song song.

Hỏi: Những gì giải quyết có thực tế như về nghề nghiệp chẳng hạn thì dễ chỉ, còn về việc thực hành tu tâm, sắc tâm vô hình tướng nên rất khó, rất tế nhị. Vậy con xin ngài vận dụng hết ngôn ngữ để diễn tả cách thực hành cho con nắm bắt được, chứ nói nhìn mà không mục tiêu thì con chẳng biết nhìn về đâu?

Đáp: Thì cứ nhìn mãi không thấy gì, không có mục tiêu mới đúng, hễ có mục tiêu là sai lầm, pháp của Phật Thích Ca truyền là vậy.

Ví như ban đầu tôi dùng phương tiện dạy người nhìn vào chỗ đen tối, mọi người lại chấp vào chỗ đen tối đó trở thành mục tiêu; có tối tức có sáng để tương đối. Tự tánh bất nhị chẳng tương đối, luôn cả cái biết cũng không thể kiến lập. (Sư phụ đã giảng về bốn bài kệ nói về chữ TRI của ngài Vĩnh Gia, lược qua).

Hỏi: Vậy là cứ nhìn vào chỗ không biết đó, không có chỗ nhìn vẫn cứ đề lên và cứ nhìn?

Đáp: Cứ nhìn, không có chỗ nhìn, nhìn không thấy gì mới đúng, nếu thấy có chỗ nhìn và nhìn thấy cái gì đó thì không đúng rồi.

Hỏi: Nhưng con nhìn một thời gian rồi tự nhiên câu hỏi cũng mất, mà con cũng không biết mình của tham thiền nữa không !

Đáp: Phải tiếp tục hỏi và nhìn nữa, như vậy sẽ mau đến chỗ chơn tham, vì chơn tham là vô tham, tức không biết mình đang tham thiền, chứ chẳng phải không có tham.

Hỏi: Nhưng ngay chỗ nhìn không biết đó, con lại quên câu thoại đầu và có vọng tưởng nổi lên, cuối cùng con phải giựt mình ...

Đáp: Nếu vậy phải đề lại, cũng như ngài Lai Quả có một lần bị ngưng hết hai ngày rồi mới đề lại, đó cũng là việc thường. Phải hỏi và nhìn đi song song, khi nào đến được thoại đầu, câu thoại mới tự mất.

Hỏi: Có phải câu thoại đầu cũng là một ý niệm, mà ý niệm này đưa đến chỗ ý thức chẳng thể tìm đến, nên một thời gian sau khi tham thì câu thoại tự vỡ, ý niệm đó tiêu?

Đáp: Không phải, câu thoại chỉ là kích thích niệm không biết, nếu không có câu thoại để hỏi thì niệm không biết đó chẳng thể nổi lên được, nên phải hỏi và nhìn miên mật.

Hỏi: Trong Thiền Thất Khai Thị Lục, ngài Lai Quả nói không cho buông ý niệm?

Đáp: Thì cái không hiểu không biết đó cũng là ý niệm. Chư Phật chư Tổ rất sợ người ta chấp theo lời nói, như trong Kinh Lăng Nghiêmcó bảy chỗ tìm tâm, A Nan cho là tâm ở trong, Đức Phật nói chẳng phải, cho là ở ngoài cũng chẳng phải, cho là ở giữa cũng chẳng phải ... bảy chỗ đều nói chẳng phải, nhưng cái chẳng phải của Phật đâu có đúng! Bây giờ cứ y theo lời “chẳng phải” của Phật thì sai lầm. Tại sao? Vì nếu cái tâm không có ở trong thì làm sao cùng khắp? Không có ở ngoài thì làm sao cùng khắp? Cho nên, Đức Phật rất sợ người chấp vào lời Phật, cuối cùng ngài nói “Bốn mươi chín năm chưa từng nói một chữ”, “Ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật ...”

Lời của Phật còn chấp không được, huống là lời của ngài Lai Quả? Ấy chỉ là phương tiện tạm thời thôi. Nay bất cứ ở trong hoàn cảnh nào, nhớ hay quên, cứ hỏi và nhìn đi song song, giữ được nghi tình sẽ đưa hành giả đến kiến tánh thành Phật. Chớ dùng ý thức phân biệt nghi tình, phân biệt thoại đầu, phân biệt có phải lọt vào vô ký không, hay vọng tưởng v.v ... Cứ phân biệt hoài làm sao công phu miên mật được?

Những gì thầy đang hỏi đều là thói quen phân biệt từ lâu đời rất khó sửa, như bản thân tôi, vẫn biết đó là tập khí nhưng mấy mươi năm nay cũng chưa sửa được.

Hỏi: Nếu tham thiền đến không biết thì dễ phạm qui củ, hễ bị đuổi thì sao?

Đáp: Lúc không biết thì làm sao biết phạm qui củ? Đuổi ra Thiền đường thì cứ ra, vẫn còn giữ cái không biết, chỉ cần có nghi tình, sẽ đưa mình đến chỗ kiến tánh.

Như công án Bà lão đốt am, sau này trở về xin thì bà cũng cho, đâu có sao ! Như Tổ thứ chín của phái Lâm Tế, lúc đầu người học rất đông, đuổi mãi còn lại sáu người, mà sáu người này đuổi hoài không đi. Ở vùng đó rất lạnh, nhất là vào mùa đông, Tổ lấy nước lạnh tạt vào họ cũng không đi, rồi Tổ không cho ở trong nhà, đuổi ra ngoài thì quí vị này ở lại hàng ba, sáng ra, Tổ nói: “Đã ở lại đây ngủ mấy đêm, phải trả tiền cho chùa”. Những người đó đâu có tiền, phải đi xin tiền để trả, rồi lại xin Tổ cho ở lại nữa, sau cùng sáu người đều kiến tánh triệt để và làm Tông sư.

Nay chúng ta, hành giả tham thiền đều là con cháu của sáu vị này. Bị đuổi có sao đâu! Sáu vị này không biết bị đuổi bao nhiêu lần, mà bị đuổi một cách rất thậm tệ nhưng vẫn kiên trì ở lại. Nên biết cổ nhân đời đưa cầu pháp rất kiên tâm, như ngài Nhị Tổ đứng suốt đêm dưới bão tuyết và chặt cả cánh tay. Cho nên, chớ sợ bị đuổi, vô sở sợ mà!

Hỏi: Con rất thích tu thiền nhưng không thích học pháp lý, vậy có được không?

Đáp: Tổ sư thiền không có pháp lý, quét sạch tất cả pháp lý, chẳng còn pháp lý nào cả mới đúng với bản tâm trống rỗng vô sở hữu.

Hỏi: Con nghe một vị thầy nói phải học qua Phật học phổ thông mới tu được?

Đáp: Ấy là Giáo môn, còn đây là Thiền môn, là ở ngoài Giáo môn. Học Giáo môn phải cần văn tự. Thiền môn thì bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền.

Hỏi: Con tham thoại đầu, có ý niệm thành Phật, nên con hỏi “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” (ngưng một lúc), “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” (ngưng một lúc), “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?”

Đáp: Trước hết, Sư nổi niệm “muốn thành phật” đã không đúng rồi, thoại đầu là chưa có ý niệm nào cả mới gọi thoại đầu, phải ngoài câu thoại đầu không hiểu không biết ra, chẳng có ý niệm nào khác, câu thoại đầu tự động chấm dứt các ý niệm khác không nổi lên. Lại nữa, cách hỏi câu thoại, nếu có khoảng cách thì có kẽ hở, không miên mật; công phu miên mật không cần tập trung tinh thần, không cần công phu, chỉ cần có một chút nghi tình không hiểu không biết, như một sợi chỉ kéo dài không đứt, vừa hỏi xong hỏi nữa, câu hỏi liên tiếp khít nhau, không kẽ hở, không gián đoạn, hỏi và nhìn đều phải miên mật.

----o0o---

Vi tính: Minh Trí - Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com