Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bà Mẹ Lưu Đày (bài viết của Cư Sĩ Trần Trung Đạo về Mẫu thân của Đức Trưởng Lão HT Thích Quảng Độ)

09/08/202208:24(Xem: 2896)
Bà Mẹ Lưu Đày (bài viết của Cư Sĩ Trần Trung Đạo về Mẫu thân của Đức Trưởng Lão HT Thích Quảng Độ)

ht quang do

BÀ MẸ LƯU ĐÀY
(Vu Lan, đọc thơ về Mẹ của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ)
Hôm đó là ngày 25 tháng 2, 1982, lúc 9 giờ 30 sáng, Hòa Thượng Thích Quảng Độ,
Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) bị trục xuất khỏi Sài Gòn.




Ngay sau khi lịnh trục xuất do ông Lê Quang Chánh, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố ký, được đọc xong, bốn công an võ trang áp giải hòa thượng ra xe đi Thái Bình. Khi bị triệu tập đến Sở Công An thành phố hòa thượng nghĩ mình sẽ lại phải trở vào tù. Nhưng không, lần này là lưu đày. Quá bất ngờ, hòa thượng không chuẩn bị gì cho chuyến lưu đày về quê hương.

Nơi hòa thượng đến là chùa Long Khánh, xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Mẹ của hòa thượng cũng bị lưu đày về đó nhưng không đi cùng chuyến xe như một vài nguồn tin đã viết. Mẹ gặp con dưới mái nhà lợp rạ bên vách tường vôi loang lỗ phía sau chùa Long Khánh.
Nhà Hán học Nguyễn Tiến Đoàn đến tìm Thầy để hỏi nghĩa của chữ Satori trong tác phẩm “Thiền học” của Suzuki đã mô tả nơi hòa thượng và mẹ sống năm 1982: “Nhiều loài rêu mọc trên những viên gạch lát, rêu chân tường, rêu mái ngói như những hoa văn tuyệt hảo của họa sĩ bậc thầy trang trí cho ngôi chùa thêm vẻ trầm tư. Con đường dẫn vào sân sau nơi có căn nhà rạ cũ ba gian hai chái và nhà bếp. Tôi dựa xe đứng ngơ ngẩn một lát chẳng thấy bóng người.”

Và từ nơi đó, những năm tháng theo sau, một tăng sĩ 54 tuổi bị tước hết mọi quyền làm người chăm sóc bà mẹ già hơn 80 tuổi không biết tại sao mình phải lưu đày. Mẹ và con sống trong thiếu thốn, đói khổ, xa cách mọi người.

Nhưng với tư cách và lòng tự trọng của một bậc lãnh đạo tinh thần nhiều triệu Phật giáo đồ Việt Nam, hòa thượng không thấy cần phải mô tả một cách chi tiết hay than van về đời sống cháo rau khoai sắn của mình.

Đạo tâm kiên cố đã giữ chiếc lưng của hòa thượng không hề cong xuống trước nghịch cảnh. Hòa thượng vẫn bước từng bước thẳng như những ngày Thầy bước xuống xe lam, đi bộ ngang qua chiếc sân rộng để vào dạy các lớp Phật Khoa trên lầu ba của đại học Vạn Hạnh. Thầy dáng cao, vầng trán rộng và miệng mỉm cười.

Thấm nhuần tư tưởng đến là đi, có là không của đạo Phật, hòa thượng vẫn an nhiên trước mọi biến động và thử thách. Biệt giam ở trại tù Phan Đăng Lưu hay sống đói khát ở Vũ Đoài không làm hòa thượng than vãn với ai.

Dù Thầy không viết lại, không kể lại, chúng ta cũng có thể hình dung được những khó khăn của Thầy ở Thái Bình trong thời kỳ cả nước đều đói khát. Ngoài các vấn đề tự do tôn giáo được Thầy bàn nghiêm túc, phần lớn những câu chuyện Thầy kể là chuyện vui cười. Nước mắt chỉ đọng lại trong thơ khi mẹ hòa thượng qua đời.

Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ xuất gia năm 14 tuổi. Thầy rời nếp sống gia đình nhưng không có nghĩa là đoạn tuyệt với gia đình. Trên con đường còn rất xa dẫn đến bờ giác, Thầy vẫn còn là một con người với tất cả gánh nặng trên vai và cần tình thương để sống. Mẹ là biểu tượng của tình thương và dòng suối đó vẫn êm đềm chảy.

Sự gần gũi với mẹ bị gián đoạn khi Thầy rời quê hương du học ở Tích Lan và Ấn Độ năm 1952. Khi trở lại Việt Nam, Thầy đến miền Nam chứ không ra miền Bắc nên cũng không gặp lại mẹ.

Những bài thơ hòa thượng viết về mẹ vào những năm xa mẹ:


DÂNG MẸ

Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương,
Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải,
Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể,
Công sinh thành con nghĩ : quặn lòng đau.
Gốc mai già xơ xác đã từ lâu,
Chơ vơ đứng giữa đường đời gió lộng.
Dòng sông chảy : ấy đời con trong mộng,
Lững lờ trôi..., trôi mãi đến bao giờ?
Có những đêm con thiêm thiếp trong mơ,
Con mơ thấy hồn con về thăm mẹ.
Được ấp ủ trong tình thương của mẹ,
Mảnh hồn con ấm dịu biết bao nhiêu?
Bốn phương trời con tìm kiếm đã nhiều,
Nhưng không có một tình yêu của mẹ.
Vu lan đến cõi lòng con quạnh quẽ,
Bóng người xưa như phảng phất đâu đây.
Một chiều thu lạnh dâng bát cơm đầy,
Tình nghĩa ấy, mẹ ôi! bao thấm thía.
Phương trời này con ngậm ngùi rơi lệ,
Đức cù lao muôn một trả chưa xong.
(Mùa Vu lan Quý Mão, 1963)
(Thơ Tù, Thích Quảng Độ)
https://quangduc.com/a63413/clip-nhac-dang-me






XUÂN NHỚ MẸ

Mỗi lần xuân đến gợi thêm sầu
Con ở phương này Mẹ ở đâu
Nam Bắc đôi bờ dòng nước bạc
Trông vời bóng Mẹ khuất ngàn dâu
Con đi từ độ trăng tròn ấy
Trải mấy xuân rồi xuân viễn phương
Trên vạn nẻo đường con cất bước
Cõi lòng vương nặng mối sầu thương
Mái đầu Mẹ nhuộm mầu sương tuyết
Chồng chất đôi vai lớp tuổi đời
Con muốn thời gian ngừng đọng lại
Cho mùa xuân Mẹ mãi xanh tươi
Thời gian vẫn cứ lạnh lùng trôi
Hoa úa tàn phai trái chín mồi
Chua xót lòng con niềm hiếu đạo
Chân trời xa cách lệ tuôn rơi.

(Giáp Thìn, 1964)
(Thơ Tù, Thích Quảng Độ)


ht quang do 2
LẠY MẸ

Hơn hai mươi bảy năm trời cách biệt
Mắt Mẹ đã mờ vì nhớ thương con
Mẹ trông chờ bao ngày tháng mỏi mòn
Nhưng chỉ thấy mây bay và gió thoảng
Mẹ có ngờ đâu đời con phiêu lãng
Như cánh chim trời xiêu bạt bốn phương
Để giờ đây trong cảnh ngộ đau thương
Cảnh tù ngục tối tăm và buồn thảm
Con hối hận từ đáy sâu tâm khảm
Đạo thần hôn đã lỗi phận làm con
Tám mươi tuổi Mẹ có còn mạnh khỏe
Hay hạc vàng đã cất cánh bay cao
Cứ đêm đêm theo dõi những vì sao
Nhìn Bắc đẩu con tuôn trào nước mắt
Con quỳ xuống chắp hai tay trước ngực:
"Lạy Đức Từ Bi cứu độ Mẫu thân
Cõi Sa bà khi Mẹ đã mãn phần
Cảnh Cực Lạc là quê hương An Dưỡng"
Lòng chí thành nguyện cầu trong tâm tưởng
Tháng năm dài con chỉ biết thế thôi
Nghĩa thù ân chua xót lắm Mẹ ôi
Con lạy Mẹ trăm nghìn muôn ức lạy!

Sa Môn Thích Quảng Độ.
(Thơ Tù, Thích Quảng Độ)


Người viết chỉ là một giọt nước đọng trên cành đời nên không dám bình dòng sông thơ bát ngát của Thầy. Chỉ xin chép ra đây để độc giả đọc và cảm thông với hành trạng mà hòa thượng đã trải qua. Mà cho dù có bình, có phân tích cũng không nói hết được tâm tư sâu lắng của Thầy. Hãy âm thầm suy niệm từ trái tim mình như hòa thượng, vì không được phép đọc sách, đã đọc “Vô Ngôn Thư” (Sách trong Thiên nhiên, trong Tự nhiên, trong Cảnh ngộ, trong Suy tưởng) suốt nhiều năm ở Thái Bình.

Như chiếc lá cuối mùa, một cơn gió thổi qua cũng làm cho chiếc lá chao nghiêng nói chi là cái rét của mùa đông miền Bắc. Mẹ của hòa thượng không chịu đựng nỗi đói khát và giá rét nên một ngày mùa đông chiếc lá khô kia đã rơi xuống trong sân chùa Long Khánh, xã Vũ Đoài. Hòa thượng viết bài thơ Nguyện Cầu trong đêm mẹ “chết trong lưu đày”:


ht quang do


NGUYỆN CẦU

Hỡi trời cao đất dày
Có thấu cho cảnh này
Mẹ tôi tội tình gì
Phải chết trong lưu đày
Trong cô đơn hiu quạnh
Trong buồn tủi đắng cay
Thôi cõi đời ác độc
Mẹ vĩnh biệt từ đây
Con nguyện cầu hồn Mẹ
Vãng sinh về phương Tây
Phật Di Đà tiếp dẫn
Chư Bồ Tát dìu tay
Trong hoa sen tinh khiết
Hồn Mẹ hóa sinh ngay
Vòng luân hồi chấm dứt
Vĩnh viễn được yên vui.

(Đêm 14 tháng 12 Ất Sửu, 23 tháng 1 năm 1985)
(Thơ Tù, Thích Quảng Độ)


ht quang do 2

Tết Bính Dần 1985 là Tết mồ côi của hòa thượng Thích Quảng Độ. Hòa thượng viết bài thơ mang ý nghĩa vô thường nhưng vô cùng đau xót dưới đây vào ngày Mùng Một Tết:


MẤT CẢ CUỘC ĐỜI

Xuân này tôi mất Mẹ rồi
Cũng là mất cả cuộc đời còn chi
Từ nay đoạn đường tôi đi
Qua hàng thông lạnh gió vi vu sầu
Một mình lặng lẽ cúi đầu
Quanh tôi tất cả nhuộm màu tóc tang
Bước đi nghĩa địa lan man
Chết rồi hay sống điêu tàn như nhau.

(Sáng mồng một Tết Bính Dần,1985, ra thắp hương ngoài mộ)
(Thơ Tù, Thích Quảng Độ)


Trong tình thương của mẹ, mọi người con đều là trẻ thơ. Hòa thượng cũng thế. Một mình một bóng trong nghĩa trang buồn ngày mùng một Tết. Từ nay, chỉ còn Thầy và hàng thông reo vi vu.

Trong thư gởi Đỗ Mười ngày 19 tháng 8 năm 1994, hòa thượng chỉ tóm tắt một dòng: “mẹ tôi đã chết một cách thê thảm vào ngày 14 tháng 12 năm Ất-Sửu (tháng 1 năm 1985) vì quá thiếu thốn và rét mướt.”

Một câu ngắn ngủi thôi nhưng chứa đựng cả một trời nước mắt và cơn mưa nước mắt đó sẽ không ngừng rơi cho đến ngày dân tộc Việt Nam được đoàn viên thật sự. Bởi vì, mẹ không chỉ là mẹ của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ mà còn là biểu tượng cho sự chịu đựng vô bờ bến của mẹ Việt Nam, bà mẹ lưu đày.

Thị Nghĩa Trần Trung Đạo
Mùa Vu Lan 2022



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/04/2013(Xem: 8423)
Trước đây, khi viết bài này, trong tay tôi chưa có các phương tiện nghe nhìn tối thiểu , để có thể hỗ trợ mình hoàn thành mong ước, chuyển tải một cách nhanh nhất những điều mình cảm nhận hầu chia sẻ với mọi người. Vì vậy khi ấy tôi không biết bài thơ này nằm trong tập thơ “SÁU-TÁM” của nhà thơ Nguyễn Duy.
11/04/2013(Xem: 4503)
"Khúc ngâm cùa người con đi xa" - Sợi chỉ trong tay của người Mẹ hiền. Nay đang ở trong chiếc áo người con đi xa mặc trên người. Lúc mới lên đường, Mẹ khâu từng mũi chỉ kỹ càng dày dặn hơn. Có ý sợ con đi lâu mới trở về. Ai dám bảo rằng tấm lòng của của tấc cỏ, Lại có thể báo đáp được ánh nắng cảu ba tháng trời xuân?
11/04/2013(Xem: 7112)
Trên thế gian nầy có nhiều kỳ quan, Có thật nhiều kỳ quan, Nhưng kỳ quan đẹp vẫn là Mẹ của ta, Mẹ của ta là kỳ quan đẹp nhất, ....
11/04/2013(Xem: 4905)
Như những vì sao, những con ruồi đang bay hay ánh lửa của một ngọn đèn dầu, Như một ảo giác ma thuật, một giọt sương mai hay một bọt bong bóng, Một giấc mơ, một tia chớp hay một áng mây bay, Đấy là cách phải nhìn vào mọi hiện tượng tạo tác từ những điều kiện trói buộc.
11/04/2013(Xem: 5073)
Mới cuối Hè, đầu Thu mà Bắc Kinh đã lụt bão. Chúng tôi vội vã rời Bắc Kinh về Tô Châu để đến viếng Hàn Sơn Tự chứ không phải để “mua lụa Tô Châu biếu em” như một nhạc sĩ nào đó lãng mạn dàng trời đã từng mơ mộng. Một nhà sư trong chùa Hàn Sơn nói: “Bài thơ mới giữ được ngôi chùa, chớ không phải ngôi chùa giữ được bài thơ”.
11/04/2013(Xem: 4805)
Hãy nhận thức rằng cuộc đời là một trường học và bạn ở đây là để học. Các bài toán chỉ là một phần của học trình, xuất hiện rồi phai mờ đi giống như lớp đại số, nhưng các bài học bạn học được thì sẽ kéo dài suốt đời...
11/04/2013(Xem: 3964)
Nói đến lễ Vu Lan là nói đến Hiếu hạnh; nói đến Hiếu hạnh, chúng ta nghĩ ngay đến ân nghĩa Cha Mẹ. Không người con nào trên đời mà không được sinh ra bởi cha mẹ. Bởi vậy, từ ngàn xưa đến nay, từ đông sang tây, bất luận ở nền văn hóa nào, quốc gia nào, dân tộc nào, con người đều thương yêu, tôn quí và báo ân cha mẹ. Thương yêu cha mẹ là tình cảm tự nhiên, còn sự tôn quí và báo ân thì cũng tùy theo hoàn cảnh và nền văn hóa mỗi nơi mà có sự ứng dụng đậm hay nhạt; có khi phải có sự kêu gọi, nhắc nhở. Nhưng tựu trung, con cái lúc nào cũng cần ý thức về nguồn cội của mình.
11/04/2013(Xem: 4848)
Trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam, đạo hiếu làm con là di sản văn hóa tinh thần vô giá, di sản này truyền thừa từ thời mới lập quốc, đến khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, thì đạo đức dân tộc hòa chung với đạo đức Phật giáo như nước và sữa. Bản chất của người Việt Nam là yêu chuộng hiếu đạo, mà giáo lý của Phật giáo là giải thoát, vì vậy hai luồng tư tưởng gặp nhau đã làm thăng hoa giá trị văn hóa tinh thần của người dân Việt. Làm người ai cũng có cha và mẹ, hai đấng sinh thành dưỡng dục ta nên người, cho ta thân thể hình hài này, cho ta đạo đức làm người, cho ta biết yêu thương và chia sẻ.
11/04/2013(Xem: 4888)
Truyền thống Vu Lan không còn xa lạ với quần chúng Phật giáo thuộc các quốc gia Á Châu, nhất là Trung Hoa và Việt Nam. Truyền tích về Vu Lan, mùa Báo hiếu, mùa xá tội vong nhân, mùa cúng cô hồn đã thấm sâu vào huyết quản dân tộc, cho dù không là Phật tử.
11/04/2013(Xem: 5310)
Đức Phật hỏi các vị Sa Môn (śramaṇa): “Cha mẹ sinh con thì người mẹ mang thai mười tháng, thân bị bệnh nặng. Đến ngày sinh thì người mẹ gặp nguy cấp, người cha sợ hãi, tình cảnh ấy thật khó nói. Sau khi sinh xong thì mẹ nằm chỗ ẩm ướt nhường lại chỗ khô ráo cho con, tinh thành cho đến máu huyết hoá làm sữa. Ngày ngày lau xoa tắm gội, chuẩn bị quần áo, dạy bảo con trẻ, tặng lễ vật cho thầy bạn, dâng cống quân vương với bậc trưởng thượng…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]