Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài luận văn về Mẹ ”Nhóm lửa hồng”

10/04/201319:26(Xem: 5655)
Bài luận văn về Mẹ ”Nhóm lửa hồng”

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2010

Bài luận văn về Mẹ ”Nhóm lửa hồng”

Diệu Xuân

Nguồn: Diệu Xuân

Tôi đang ngồi trong lớp học sinh ngữ tiếng Anh dành cho những người lớn tuổi (50+). Thầy tôi còn trẻ lắm, đang yêu và sắp lám đám cưới. Thầy tôi muốn chúng tôi viết một bài luận văn về tình yêu của thời chúng tôi còn trẻ…Tình yêu ấy tôi đã và đang có, đã đơm hoa và kết trái, tôi không còn gì để viết. Hiện tại trong tôi là hình ảnh người Mẹ, lúc nào cũng rực sáng trong tôi. Tôi nhớ lại bếp lửa ngày xưa tôi đã nhóm lên cho Mẹ tôi vào mùa Đông giá lạnh, và bài luận văn bắt đầu:
”Mùa Thu 2009.
Là người ty nạn ở Đan Mạch, tôi rất nhớ quê hương tôi, gia đình tôi và Mẹ tôi rất nhiều. Mẹ tôi là tình yêu lớn nhứt mà tôi đã có. Bây giờ tôi xin viết lại lá thư mà tôi đã viết cho Mẹ tôi vào nhiều năm về trước.
Má kính yêu,
Đã khá lâu con không có thư về thăm Má, vì con bận nhiều việc quá, dù con vẫn nhớ Má rất nhiều.
Bây giờ là mùa Thu ở Đan-Mạch, tiết trời lành lạnh nhưng con nghĩ nó rất là tốt vì mình vừa trải qua một mùa Hè nóng bức, nhưng đến mùa Đông, trời lạnh lắm Má ơi, tuyết phủ ngập đường, con nhớ Má nhiều nhứt trong khoảng thời gian nầy…
Má có nhớ không? Có một lần mùa Đông ở quê hương mình lạnh lắm, lạnh hơn bao giờ hết, những cơn gió lạnh cứ thổi vào nhà qua khe cửa sổ dù bức màn đã được kéo lại. Con thấy Má run nên con đã nhóm một bếp lửa than để vào phòng Má trước khi con đi ngủ… Thế rồi buổi sớm mai thức dậy con thấy bếp lửa than ấy ở phòng con. Con đã ngủ trong tình yêu thương của Má mà con không hề biết…
Cuộc đời đưa đẩy, xuôi con về đây, vùng Bắc Âu giá lạnh, để cho bếp lửa hồng ngày xưa thêm rực rở trong con. Má không phải lo cho con, con rất là hạnh phúc trong tình nhân lọai ở quê hương thứ hai nầy, con không lạnh khi con ở nhà, vì nhà ở đây rất là chắc chắn và mình luôn có máy nóng đễ sưởi ấm khi mùa Đông đến. Con chỉ lo cho Má thôi, liệu Má có đủ sức để chống chọi lại cái giá lạnh từ mọi phía, khi những đứa con của Má lần lượt bỏ Má mà đi, điều mà ngày xưa con không nghỉ là có thể xảy ra. Má ráng giữ gìn sức khỏe nghe Má, thế nào rồi con cũng về với Má, con hy vọng đỉều đó. Dù xa xôi cách trở nhưng hình ảnh Má vẫn luôn sống mãi trong con. Với con, Má là mặt trời, là ánh lửa, để cho con ánh sáng và hơi ấm, trong cái tối tăm và lạnh giá của mùa Đông ở Đan- Mạch.
Má là tất cả Má ơi!
Con của Má.”
Bài luân văn đã chấm dứt nhưng tôi vẫn nghĩ miên man về Mẹ tôi. Vào những năm đầu khi VN vừa mỡ cửa, có người thân về quê, tôi đã nhờ họ đến nhà Mẹ tôi để thâu cho tôi một đoan video-klip…Căn nhà xưa đã hiện ra trước mắt tôi, Mẹ tôi từ trong nhà đi ra, đến ngồi trên chiếc ghế trước hành lang và khẻ nói:” Má khỏe lắm, con không phải lo cho Má.” Như để chứng minh điều đó, Mẹ tôi đứng dậy cầm lấy cây chổi bước ra trước sân quét đi quét lại những chiếc lá vàng của ngày hôm trước, đọan Mẹ tôi tiếp tục: ”Con ráng lo cho mấy đứa nhỏ ăn học, đừng để nó dốt nghe con, ngày xưa Má một mình nuôi tám đứa con mà không có đứa nào dốt hết (Ba tôi mất khi tôi được 45 ngày tuổi). Bây giờ con có đôi có bạn thì phải lo cho chúng nó ăn học nên người là Má vui rồi.”
Trong hoàn cảnh khổ đau, thiếu thốn đủ mọi bề lúc bấy giờ, có con ở nước ngoài là nguồn ”an ủi” lớn, thế mà Mẹ tôi không đòi hỏi ở tôi một khoảng vật chất, hay than van gì cả, mà chỉ lập đi lập lại chuyện ăn học cho các con tôi. Có lẻ Mẹ tôi đã quen rồi sự khổ đau và vất vả của cuộc đời, nhưng mà Mẹ tôi già rồi đâu còn sức để lao động nửa… Bổng dưng tôi ràn rụa nước mắt và hiểu ra rằng : Mẹ tôi đã cam chịu được tất cả sóng gió của cuộc đời, nhưng chỉ có một điều Mẹ tôi không chấp nhận đó là sự dốt nát của mình. Mẹ tôi sanh ra trong thời phong kiến không được cắp sách đến trường để học, nhưng Mẹ tôi đã cải lại số mệnh hẫm hiu đó để tự học và chỉ có thể đọc đươc chử in. Nhiều lần Mẹ tôi thố lộ: ” Má chỉ học lóm thôi con”. Còn viết thì chỉ một chử duy nhất, đó là tên của chính mình (để khỏi lăn tay) tên một lòai chim NHẠN.
Đời Mẹ như đời con Nhạn trắng
Tung đôi cánh bạc khắp trời xanh
Đời con tựa thể con chim nhỏ
Chưa đủ cánh lông phải đậu cành
Nhưng đến khi nào lông cánh đủ
Mẹ dìu con liệng tự trời cao
Hải hồ phỉ chí đời son trẻ
Vủ trụ thâu trong đôi mắt trông

(Thơ của cố Thượng Tọa Thích Giác Huệ)
Ngày nay, các con tôi đã lớn, đã thành người hữu dụng trong xã hội, Mẹ tôi đã qua đời, tôi đang sống những chuổi ngày còn lại để suy gẫm, để yêu thương tình người, và để nói lời cám ơn…
Xin cám ơn Trời Phật. Cám ơn Mẹ. Cám ơn Đan-Mạch đã cưu mang tôi vào trong một quốc gia bé nhỏ, lạnh- lẽo nhưng được tiếng là hạnh-phúc nhứt trên thế giới nầy. Xin cám ơn cuộc đời…

Mùa Vu Lan 2010.
Diệu Xuân.
Thương về hai anh:
Ngô Thiên Tường, Ngô Thanh Hữu ở Los Angeles để cùng em nhớ về Má.
-Cám ơn các con: Đồng, Đương, Đăng đã giúp má phương tiện viết bằng chử việt trên trang web nầy.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4770)
Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
10/04/2013(Xem: 4525)
Trong tất cả lễ hội của Phật giáo, chúng ta thấy rằng Vu-Lan Báo Hiếu là một lễ hội được quần chúng biết đến, quan tâm nhiều, dù người đó là Phật tử hay không phải Phật tử. Dân gian quen gọi ngày rằm tháng bảy là ngày lễ Trung Nguyên, ngày “Xá tội vong nhân” qua khẩu truyền.
10/04/2013(Xem: 5938)
Khi nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục, thì chúng ta đã tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng tình sâu, của dòng tâm thức luân lưu bất diệt. Một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng, lúc sâu lắng lúc thì nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủ vừa rung động thức tỉnh. Thế mới biết, giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ “Mẹ ơi” cho trọn vẹn.
10/04/2013(Xem: 5031)
Giáo pháp của đạo Phật sâu thẳm được ví như đại dương mênh mông. Cửa vào đạo có muôn ngàn lối, hành giả khi bước vào nếu không trang bị đức tin vững vàng chắc sẽ choáng ngợp bởi sự uyên áo, sâu kín và pháp mầu vi diệu. Nếu thế thì con đường vào đạo của chúng ta thì sao, những người đầy nghiệp lực và hệ lụy của tham ái?
10/04/2013(Xem: 4706)
Với cái nhìn tuệ giác, Đức Phật quán chiếu trong vòng nghiệp duyên của chúng sanh, Ngài đã thấy được không có một chúng sanh nào tồn tại độc lập, mà ngược lại lưu chuyển trong vòng tương duyên với nhau. Tất cả vì vô minh, mà chúng sanh không thấy được Ngài. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân diễn tả, có lần Đức Phật đi trên đường và thấy bên lề đường một đống xương khô, Ngài đã lễ lạy đống xương ấy.
10/04/2013(Xem: 4778)
Là Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoát và giác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràng và căn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.
10/04/2013(Xem: 4403)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 5234)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 5477)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
10/04/2013(Xem: 4547)
Chúng ta thấy rất rõ, từ cái nhìn của một người dù không phải là Phật tử , khi họ thấy chiếc y màu vàng đắp trên người của các vị Tăng Phật giáo, họ vẫn dễ dàng nhận biết được đó là tu sỹ Phật giáo, một cái nhìn quán tính, đã ăn sâu trong ký ức của mọi người. Đó là hình ảnh hiện thân của Đức Phật, và ngày này vẫn được tiếp nối trong Phật giáo. Ít nhất, hình bóng này, người bình thường cũng dễ dàng nhận biết và phân biệt được. Như Phật tử chúng ta có dịp thấy chư Tăng Nam tông ở các nước theo truyền thống Nam tông như Thái lan, Tích Lan, Miến điện, Lào và Campuchia v.v... và một bộ phận nhỏ ở Việt nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]