Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bông hồng đầu tiên, bông hồng cuối cùng

10/04/201319:26(Xem: 5583)
Bông hồng đầu tiên, bông hồng cuối cùng

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2010

Bông hồng đầu tiên, bông hồng cuối cùng

Tôn Nữ Thanh Yên

Nguồn: Tôn Nữ Thanh Yên

Hằng năm, vào dịp lễ Vu Lan, chương trình “Bông Hồng Cài Áo” lại rộ lên như một mùa hoa tươi mới thắm thiết, nở từ tâm hồn mỗi người con hiếu hạnh. Hãy thử nhớ lại, lần đầu tiên mình được cài đóa hoa hồng lên áo vào lễ Vu Lan là dịp năm nào, khi lên mấy tuổi..? Tôi không nhớ được… Có lẽ, không mấy ai nhớ rõ điều kỷ niệm ấy. Mà điều gì cố gắng nhớ lại chỉ để tính đếm, chỉ để đánh dấu thì có vẻ hình thức, khiên cưỡng. Vậy thì thôi, hãy để cho hồi ức, hoài niệm của ta bay bổng, mơ màng…
Tôi diễm phúc được sinh ra có đủ cha lành mẹ hiền và anh chị em đông đúc vui vầy. Mẹ tôi thường kể vui rằng ba tôi “mê con” lắm. Từ đứa con đầu lòng đến đứa con út được sinh ra, ba tôi đều bồng ẵm, ngắm nghía, hôn hít đầy vẻ yêu thương và mãn nguyện, rồi nói: “Y như cái hột nổ”. Hột nổ là hạt nếp rang, nở bung như một nụ hoa xinh xắn, nõn nà. Hẳn mẹ tôi cũng đầy vẻ mãn nguyện và yêu thương mỗi lần đón nhận đứa con vừa do mình khai hoa nở nhụy. Từ khi được sinh ra đời, ta đã là một đóa hoa của cha mẹ. Từ ngày đầu tiên làm Con Người, ta đã được cài đóa hoa hồng đầu tiên cho cuộc-đời-diễm-phúc ta có Cha có Mẹ.
Thuở nhỏ, tôi và em gái tôi thường níu tay mẹ đòi đi chùa, nhất là vào dịp lễ Vu Lan. Hai chị em thích thú khi được các anh chị Gia Đình Phật Tử cài hoa hồng lên áo. Chị em tôi còn thích được xem chương trình văn nghệ. Em tôi khóc sướt mướt khi xem vở ca kịch kể về lòng hiếu thảo của chim Anh vũ, một tiền thân của Đức Phật. Còn tôi, rưng rưng nước mắt khi nghe “Một bông hồng cho anh và một bông hồng cho em…Cho những ai đang còn mẹ...”. Không biết đã bao nhiêu lần tôi rơi nước mắt vì xúc cảm bởi ca từ và giai điệu của ca khúc ấy. Một ca khúc bất hủ, lấy cảm hứng từ một tùy bút của một nhà sư có tâm hồn nghệ sĩ-người đương thời là một vị thiền sư Việt Nam nổi tiếng thế giới. Một tùy bút rung động lòng người. Một ca khúc rung động lòng người…mấy mươi năm qua. Và, sẽ là mãi mãi, thường còn như là tình mẹ con, như là niềm hiếu hạnh của con người.
Mẹ tôi là một người đẹp. Đó là một điều hãnh diện của anh chị em tôi. Mẹ tôi lại là một thi sĩ thời danh, làm thơ từ năm mười bốn tuổi với những bài thơ tình diễm lệ và thơ về thế thái nhân tình, và về sau mẹ tôi lấy pháp danh làm bút danh, ký dưới những bài thơ thấm nhuần Phật pháp. Có bài thơ về đề tài Vu Lan, mẹ tôi thác lời một người chị nói với em gái nhỏ:
“Cài một bông hồng lên áo tiên
Sướng không, em chị có me hiền
Em đang dỗi mẹ không trang điểm
Ngày hội mà me nhạt sắc duyên…”

Chị giải thích cho em hiểu mẹ chẳng quản bao khó nhọc lao lực, bao khổ sở lao tâm vì lo lắng, chăm sóc, hy sinh cho con; nên dù đầu bù tóc rối, mặt mũi bơ phờ, nhan sắc phai nhạt mẹ cũng chẳng lấy làm điều… Em ơi, dù mẹ có lam lũ, dù mẹ có xấu xí, tiều tụy đến đâu mẹ cũng là người mẹ đẹp nhất, thơ mộng nhất của mình. Câu cuối của bài thơ đúc kết:
“Mẹ đẹp bông hồng suốt bách niên”.
Mẹ hiện diện trong cuộc đời tôi. Mẹ sống gần bên tôi một hình ảnh đẹp đẽ, thân thuộc. Từ thuở ấu thơ cho đến tuổi thành niên, tôi chưa lúc nào phải rời xa mẹ lâu ngày. Những năm vì sinh kế, tôi phải di chuyển nhiều lần vào Sài Gòn; nhưng đến Tết, lễ Vu Lan hay sinh nhật mẹ tôi, thì tôi lại thu xếp để về với mẹ. Mùa Vu Lan năm 1985, tôi đang ở nhà chị tôi tại Sài Gòn, do chị tôi khẩn khoản níu chân lại nên tôi không về quê được. Đêm mười bốn tháng Bảy, tôi ngồi tựa bậc cửa, nhìn lên bầu trời sáng vằng vặc một vầng trăng tuyệt đẹp. Tôi nhớ mẹ. Nhớ khuôn mặt kiều diễm, nhớ dáng đi dáng ngồi đoan trang, nhớ giọng nói giọng cười khoan hòa của mẹ tôi… Bao hình dung về mẹ như ùa về dồn dập, tha thiết làm tim tôi se thắt lại. Lặng lẽ từng giọt, từng giọt nước mắt lăn tròn trên hai má tôi. Lần đầu tiên tôi ở cách xa mẹ trong mùa cài hoa hồng. Lần đầu tiên tôi biết cái cảm xúc của một đứa con xa nhà nhớ mẹ, day dứt bần thần. Sáng hôm sau, vì công việc chị tôi và tôi đều không thể rảnh rỗi để đi chùa. Trên đường đi, tôi nhờ chị tôi chở ghé vào một bưu cục. Tôi gởi một bức điện báo và tin tưởng mẹ tôi sẽ nhận được trong ngày hôm ấy. Nội dung bức điện vỏn vẹn một câu: “Mẹ đẹp bông hồng suốt bách niên”.
Đời người mấy ai mong tuổi thọ được kéo dài đến trăm năm?! Nhưng, có lẽ, những ai đã lơ phơ tóc bạc trên đầu, đã trải nghiệm những cái khổ sinh-lão-bệnh, mà người đó lại có diễm phúc còn cha còn mẹ sống trên đời; thì hẳn người con đó hằng cầu Trời khấn Phật cho song thân được sống lâu trăm tuổi… Đã bao mùa Vu Lan đi qua, tôi vẫn còn được cài màu hoa hồng lên áo. Sau năm ba tôi mất, đóa hoa Vu Lan tôi cài có khác đi ở chỗ chiếc nơ thắt hoa không còn là màu đỏ mà đổi sang màu xanh lá. Đóa hoa vẫn là màu hồng, tôi vẫn còn mẹ. Một người bạn tôi vào năm vừa chịu tang mẹ, ngày lễ Vu Lan bạn ấy cài đóa hoa màu trắng lên áo, bùi ngùi nói: “Phải cài hoa trắng, buồn dễ sợ..”. Tôi hiểu tâm trạng của bạn và đã thoáng rùng mình vì ám ảnh màu trắng của đóa hoa mồ côi. Một người bạn khác, mất mẹ đã năm năm, nói như nhắc nhở tôi: “Còn mẹ sống trên đời là một diễm phúc. Được sống chung một nhà với mẹ, được săn sóc phụng dưỡng mẹ lại là diễm phúc hơn nữa”.
Anh chị em tôi hằng cầu mong mẹ tôi an khang, trường thọ. Mỗi dịp Tết, lễ Vu Lan và sinh nhật mẹ, chúng tôi thường tề tựu quanh mẹ, cầu chúc sức khỏe cho mẹ. Kể từ đóa hoa hồng đầu tiên được cài vào ngày chào đời, tôi đã có năm mươi lần cài hoa hồng. Tôi đâu dám chắc mình sẽ còn được cài hoa hồng bao nhiêu lần nữa! Vì mẹ tôi mình hạc xương mai. Sức khỏe vơi dần như ngọn đèn cạn dầu… Tôi không muốn cài hoa màu trắng. Dù một mai mẹ tôi sẽ qua đời, tôi đành chịu tiếng mồ côi, nhưng sẽ không muốn cài lên ngực áo mình trong dịp lễ Vu Lan một đóa hoa màu tang thương. Buồn lắm! Tôi sẽ từ chối và cũng không ai bắt buộc tôi phải cài hoa trắng. Không có luật lệ nào cho tình cảm. Không có hình thức bắt buộc nào cho niềm tưởng nhớ.
Một mai khi mẹ tôi qua đời, dù là thời gian trước Rằm tháng Bảy, thì vào ngày các chùa tổ chức chương trình “Bông Hồng Cài Áo”, tôi vẫn xin cho mình một đóa hoa màu hồng. Đó là đóa hoa hồng Vu Lan cuối cùng tôi cài lên áo. Đó là đóa hoa tượng trưng rằng: Mẹ, bông hồng đẹp nhất của cuộc đời tôi không còn nữa.

Mùa Vu Lan-Báo Hiếu PL 2554
Tôn Nữ Thanh Yên



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4645)
Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
10/04/2013(Xem: 4400)
Trong tất cả lễ hội của Phật giáo, chúng ta thấy rằng Vu-Lan Báo Hiếu là một lễ hội được quần chúng biết đến, quan tâm nhiều, dù người đó là Phật tử hay không phải Phật tử. Dân gian quen gọi ngày rằm tháng bảy là ngày lễ Trung Nguyên, ngày “Xá tội vong nhân” qua khẩu truyền.
10/04/2013(Xem: 5786)
Khi nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục, thì chúng ta đã tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng tình sâu, của dòng tâm thức luân lưu bất diệt. Một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng, lúc sâu lắng lúc thì nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủ vừa rung động thức tỉnh. Thế mới biết, giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ “Mẹ ơi” cho trọn vẹn.
10/04/2013(Xem: 4903)
Giáo pháp của đạo Phật sâu thẳm được ví như đại dương mênh mông. Cửa vào đạo có muôn ngàn lối, hành giả khi bước vào nếu không trang bị đức tin vững vàng chắc sẽ choáng ngợp bởi sự uyên áo, sâu kín và pháp mầu vi diệu. Nếu thế thì con đường vào đạo của chúng ta thì sao, những người đầy nghiệp lực và hệ lụy của tham ái?
10/04/2013(Xem: 4563)
Với cái nhìn tuệ giác, Đức Phật quán chiếu trong vòng nghiệp duyên của chúng sanh, Ngài đã thấy được không có một chúng sanh nào tồn tại độc lập, mà ngược lại lưu chuyển trong vòng tương duyên với nhau. Tất cả vì vô minh, mà chúng sanh không thấy được Ngài. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân diễn tả, có lần Đức Phật đi trên đường và thấy bên lề đường một đống xương khô, Ngài đã lễ lạy đống xương ấy.
10/04/2013(Xem: 4692)
Là Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoát và giác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràng và căn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.
10/04/2013(Xem: 4249)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 5131)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 5356)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
10/04/2013(Xem: 4438)
Chúng ta thấy rất rõ, từ cái nhìn của một người dù không phải là Phật tử , khi họ thấy chiếc y màu vàng đắp trên người của các vị Tăng Phật giáo, họ vẫn dễ dàng nhận biết được đó là tu sỹ Phật giáo, một cái nhìn quán tính, đã ăn sâu trong ký ức của mọi người. Đó là hình ảnh hiện thân của Đức Phật, và ngày này vẫn được tiếp nối trong Phật giáo. Ít nhất, hình bóng này, người bình thường cũng dễ dàng nhận biết và phân biệt được. Như Phật tử chúng ta có dịp thấy chư Tăng Nam tông ở các nước theo truyền thống Nam tông như Thái lan, Tích Lan, Miến điện, Lào và Campuchia v.v... và một bộ phận nhỏ ở Việt nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]