Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải

03/03/202207:02(Xem: 9830)
Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải


Bia Dai Bat Nha_ tap__04_cu si thien buu
bia 4-1-kinh dai bat nhabia 4-2-kinh dai bat nha


Phật lịch: 2566 ; Nông lịch: Nhâm Dần; Tây lịch: 2022

  

TỔNG LUẬN

ĐẠI BÁT NHÃ

  

TẬP 4

 

 

Việt dịch:

    HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ NGHIÊM
Chiết giải:

LÃO CƯ SĨ THIỆN BỬU

 

 

 

 

Quảng Đức Tùng Thư
Ấn Hành


 


Published by

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria

105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Tel: 03. 9357 3544

www.quangduc.com | www.adidaland.net

 

All right reserved
First edition 2022 - 100 copies

 

National Library of Australia
Cataloguing-in-Publication entry:
Title: Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4)
 Mahāprajñāpāramitā Sastra
By Thien Buu
Senior Venerable Thich Nguyen Tang @2022

 

ISBN: 978-0-6454135-7-1

 

Tổng Luận Đại Bát Nhã
Chiết giải: Cư Sĩ Thiện Bửu
Giới thiệu: Thượng Tọa  Thích Nguyên Tạng
Trình bày : Cư Sĩ Thiện Bửu, Cư Sĩ Hữu Phú
Thiết kế bìa: Quảng Duy Minh (Mẫn)
Sửa Bản in: Cư Sï Thanh Phi, Cư Sĩ Phương Nhật

 

Cúng Dường Pháp là tối thượng nhất
The gift of Dhamma surpasses all other Gifts
Sabbadanam Dhammadanam Jinati

 


 

MỤC LỤC TẬP IV

 

Nội dung TẬP IV gồm có hai Hội:

Tiếp theo Hội thứ II với các phẩm như sau:

 

TẬP IV.................................................................................. ... 1

47. Phẩm “Chỉ Tướng”................................................................ 5

48. Phẩm “Thành Biện”............................................................. 44

49. Phẩm “Dụ Thuyền Thảy”..................................................... 55

50. Phẩm “Sơ Nghiệp”.............................................................. 65

51. Phẩm “Điều Phục Tham Đẳng”............................................ 82

52. Phẩm “Chơn Như”.............................................................. 95

53. Phẩm “Bất Thối Chuyển”................................................... 132

54. Phẩm “Giáo Nghĩa Thẳm Sâu”........................................... 165

55. Phẩm “Mộng Hành”.......................................................... 211

56. Phẩm “Hạnh Nguyện”....................................................... 217

57. Phẩm “Trời Căng Già”....................................................... 231

58. Phẩm “Tập Cận”............................................................... 236

59. Phẩm “Tăng Thượng Mạn”................................................ 248

60. Phẩm “Đồng Học”............................................................. 285

61. Phẩm “Đồng Tánh”........................................................... 301

62. Phẩm “Không Phân Biệt”................................................... 314

63. Phẩm “Kiên Cố, Chẳng Kiên Cố........................................ 330

64. Phẩm “Thật Ngữ”.............................................................. 347

65. Phẩm “Vô Tận.................................................................. 364

66. Phẩm “Tương Nhiếp”........................................................ 376

67. Phẩm “Xảo Tiện”.............................................................. 395

68. Phẩm “Thọ Dụ” Hay “Dụ Cây”.......................................... 471

69. Phẩm “Bồ Tát Hạnh”......................................................... 486

70. Phẩm “Thân Cận”............................................................. 497

71. Phẩm “Học Tất Cả Hay Biển Học”..................................... 506

72. Phẩm “Lần Hồi”................................................................ 531

73. Phẩm “Vô Tướng”............................................................. 552

74. Phẩm “Không Tạp”........................................................... 575

75. Phẩm “Các Đức Tướng”.................................................... 594

76. Phẩm “Thiện Đạt”............................................................. 642

77. Phẩm “Thật Tế”................................................................ 669

78. Phẩm “Vô Khuyết”............................................................ 713

79. Phẩm “Đạo Sĩ”.................................................................. 736

80. Phẩm “Chánh Định”.......................................................... 753

81. Phẩm “Phật Pháp”............................................................. 771

82. Phẩm “Vô Sự”.................................................................. 783

83. Phẩm “Nói Thật”............................................................... 795

84. Phẩm “Tánh Không”......................................................... 813

 

 

 


47. PHẨM “CHỈ TƯỚNG”

 

Phần sau Q.442 đến hết Q.443, Hội thứ II, ĐBN.

(Phẩm này có chủ đề “Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng”,

tương đương với phần sau phẩm “Phật Mẫu” Q.306 trở đi,

Hội thứ I, ĐBN)

 

       Gợi ý:

Phẩm này đề cập đến hai vấn đề: 1. Bát Nhã lấy gì làm tướng?  2. Bát Nhã không thể nghĩ bàn. Phần “Bát Nhã lấy gì làm tướng?” lại tương đương với phần sau phẩm “Phật Mẫu” và phần “Bát Nhã không thể nghĩ bàn” lại thuộc phẩm “Chẳng Nghĩ Bàn”,cuối quyển 308 đến quyển 310, Hội thứ I, ĐBN. Chúng tôi trình bày phẩm này cũng chia làm hai phần để tóm lược và luận giải.

Cũng nên nói thêm rằng phẩm “Chỉ Tướng” của Hội thứ II tương đương với phẩm thứ 48, “Vấn Tướng” , tập 4, quyển 70 của Đại Trí Độ Luận. Đây là một phẩm có giáo lý rất phức tạp, khó khăn. Phải đi từng bước một mới có hy vọng thâm nhập được giáo lý của các pháp này.

 

Tóm lược:

 

1. Bát Nhã Ba mật lấy gì làm tướng?

 

 1- Thuyết tướng Bát Nhã:

 

Bấy giờ, Tam thiên đại thiên thế giới chư thiên cõi Dục, cõi Sắc đều đem các thứ hoa hương trời mầu nhiệm từ xa rải cúng dường Thế Tôn, rồi đi đến chỗ Phật đảnh lễ hai chân, lui đứng một bên, đồng thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu lấy gì làm tướng?

Bấy giờ, Phật bảo chúng chư thiên rằng:

- Bát nhã Ba la mật thẳm sâu lấy không làm tướng, lấy vô tướng làm tướng, lấy vô nguyện làm tướng, lấy vô tác làm tướng. Bát Nhã thẳm sâu lấy vô sanh vô diệt làm tướng, lấy vô nhiễm vô tịnh làm tướng. Bát Nhã thẳm sâu lấy vô tánh vô tướng làm tướng, lấy vô y vô trụ làm tướng. Bát Nhã thẳm sâu lấy chẳng đoạn chẳng thường làm tướng, lấy chẳng một chẳng khác làm tướng, lấy vô khứ vô lai làm tướng, Bát Nhã thẳm sâu lấy hư không làm tướng. Bát Nhã thẳm sâu có vô lượng tướng.

Chư thiên phải biết: Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn nhiêu ích thế gian trời người A tu la nương thế tục, thi thiết diễn nói, chẳng nương thắng nghĩa.

Chư thiên phải biết: Các tướng Bát Nhã thẳm sâu như thế, thế gian trời người A tu la đều chẳng phá hoại được. Vì sao? Vì thế gian trời người A tu la cũng đều là tướng vậy.

Chư thiên phải biết: Các tướng chẳng năng phá hoại các tướng, các tướng chẳng năng biết các tướng. Các tướng chẳng năng phá hoại vô tướng, các tướng chẳng năng biết vô tướng. Vô tướng chẳng năng phá hoại các tướng, vô tướng chẳng năng biết các tướng. Vô tướng chẳng năng phá hoại vô tướng, vô tướng chẳng năng biết vô tướng. Vì sao? Hoặc tướng hoặc vô tướng, hoặc tướng vô tướng đều vô sở hữu. Năng phá năng biết, sở phá sở biết, kẻ phá kẻ biết bất khả đắc vậy.

Chư thiên phải biết: Các tướng như thế chẳng phải do sắc làm ra, chẳng phải do thọ tưởng hành thức làm ra. Chẳng phải do 12 xứ, 18giới làm ra. Chẳng phải bố thí làm ra, chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật làm ra. Chẳng nội không cho đến vô tánh tự tánh không làm ra. Chẳng chơn như làm ra; chẳng pháp giới cho đến bất tư nghì giới làm ra. Chẳng tứ Thánh đế làm ra. Chẳng bốn tĩnh lự, vô lượng, bốn định vô sắc làm ra. Chẳng tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ làm ra. Chẳng phải ba mươi bảy pháp trợ đạo làm ra. Chẳng Tịnh quán địa làm ra; chẳng Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ Tát địa, Như Lai địa làm ra (Bồ Tát thập vị cộng Tam thừa). Chẳng Cực hỷ địa làm ra; chẳng ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa làm ra (Bồ Tát thập địa). Chẳng phải năm nhãn, sáu thần thông làm ra. Chẳng phải Như Lai mười lực làm ra; chẳng bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng làm ra. Chẳng phải ba mươi hai tướng Đại sĩ làm ra, chẳng tám mươi tùy hảo làm ra. Chẳng pháp vô vong thất làm ra, chẳng tánh hằng trụ xả làm ra. Chẳng phải tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn làm ra. Chẳng phải Nhất thiết trí làm ra; chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí làm ra.

Chư thiên phải biết: Các tướng như thế chẳng phải trời làm ra, chẳng phải người làm ra, cũng chẳng phải cả hai làm ra. Chẳng phải trời có được, chẳng phải người có được, cũng chẳng phải cả hai có được. Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu, chẳng phải thế gian chẳng phải xuất thế gian, chẳng hữu vi chẳng phải vô vi, không chỗ hệ thuộc chẳng thể tuyên nói.

Chư thiên phải biết: Bát Nhã thẳm sâu lìa các tướng, chẳng nên hỏi Bát Nhã thẳm sâu lấy gì làm tướng. Chư Thiên, các ông nghĩ sao? Nếu có người hỏi hư không tướng gì? Hỏi như thế có chánh đáng không?

Chư thiên đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng chánh đáng! Bạch Thiện Thệ! Chẳng chánh đáng! Vì sao? Vì hư không vô thể vô tướng vô vi chẳng nên hỏi vậy.

Phật liền bảo:

- Bát Nhã thẳm sâu cũng lại như thế, chẳng nên hỏi. Tướng các pháp có Phật, không Phật, pháp giới, pháp trụ, đối với các tướng này Phật như thật biết, nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Khi ấy, chúng chư Thiên đồng thưa Phật rằng:

- Như Lai giác ngộ các tướng như thế rất thẳm sâu khó thấy, khó biết. Như Lai chứng đắc các tướng như thế nên đối với tất cả pháp dùng trí vô ngại để chuyển(1). Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trụ tướng như thế, vì các hữu tình nhóm tướng các pháp, dùng phương tiện khai thị làm cho họ đối với Bát nhã Ba la mật được trí vô ngại.

Bạch Thế Tôn! Hiếm có! Bát Nhã thẳm sâu là chỗ các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường đã sẽ đang hành; tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hành chỗ này nên chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình phân biệt khai chỉ tướng tất cả pháp. Nghĩa là phân biệt khai chỉ tướng sắc, phân biệt khai chỉ tướng thọ tưởng hành thức. Phân biệt khai chỉ tướng mười hai xứ, mười tám giới. Phân biệt khai chỉ tướng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, phân biệt khai chỉ tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Phân biệt khai chỉ tướng bố thí Ba la mật; phân biệt khai chỉ tướng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Phân biệt khai chỉ tướng nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Phân biệt khai chỉ tướng chơn như; phân biệt khai chỉ tướng pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Phân biệt khai chỉ tướng tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo. Phân biệt khai chỉ tướng tám giải thoát; phân biệt khai chỉ tướng tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ cho đến phân biệt khai chỉ tướng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. (Q.442, ĐBN)

Bấy giờ, Phật bảo chúng chư thiên rằng:

- Như vậy! Đúng như các ngươi đã nói! Chư thiên phải biết: Tướng tất cả pháp, Như Lai như thật biết là vô tướng. Nghĩa là biến ngại là tướng sắc, Như Lai như thật biết là vô tướng. Lãnh nạp là tướng thọ; lấy tượng là tướng tưởng; tạo tác là tướng hành; phân biệt là tướng thức, Như Lai như thật biết là vô tướng. Đống khổ não là tướng uẩn; cửa sanh trưởng là tướng xứ; nhiều độc hại là tướng giới, Như Lai như thật biết là vô tướng. Năng xả là tướng bố thí Ba la mật; không bức ngặt là tướng tịnh giới Ba la mật; chẳng sân hận là tướng an nhẫn Ba la mật; chẳng thể khuất phục là tướng tinh tấn Ba la mật; không tán loạn là tướng tĩnh lự Ba la mật; không chấp đắm là tướng Bát nhã Ba la mật, Như Lai như thật biết là vô tướng. Không có sở hữu là tướng nội không v.v…, Như Lai như thật biết là vô tướng. Chẳng điên đảo là tướng chơn như v.v…, Như Lai như thật biết là vô tướng. Chẳng hư dối là tướng bốn Thánh đế, Như lai như thật biết là vô tướng. Không ưu não là tướng bốn tĩnh lự; không hạn ngại là tướng bốn vô lượng, không ồn tạp là tướng bốn định vô sắc, Như Lai như thật biết là vô tướng. Không ràng buộc là tướng tám giải thoát; năng chế phục là tướng tám thắng xứ; năng vắng lặng là tướng chín định thứ lớp; không ngằn mé là tướng mười biến xứ, Như Lai như thật biết là vô tướng. Năng xuất ly là tướng ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, Như Lai như thật biết là vô tướng. Năng xa lìa là tướng không giải thoát môn, không đắm lấy là tướng vô tướng giải thoát môn, không sở cầu là tướng vô nguyện giải thoát môn, Như Lai như thật biết là vô tướng. Nhiếp tịnh trụ là tướng Tam thừa thập địa, Như Lai như thật biết là vô tướng. Tới Đại giác là tướng Bồ Tát thập địa, Như Lai như thật biết là vô tướng. Năng quán chiếu là tướng năm nhãn, Như Lai như thật biết là vô tướng. Không trệ ngại là tướng sáu thần thông, Như Lai như thật biết là vô tướng. Khó khuất phục là tướng Như Lai mười lực, không khiếp sợ là tướng bốn vô sở úy, không đoạn tuyệt là tướng bốn vô ngại giải, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Cho lợi vui là tướng đại từ, vớt suy khổ là tướng đại bi, mừng việc thiện là tướng đại hỷ, phủi sạch tất cả là tướng đại xả, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Không có phần là mười tám pháp Phật bất cộng, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Năng nghiêm sức là tướng tướng hảo, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Năng nhớ nghĩ là tướng pháp không quên mất, không sở chấp là tướng tánh hằng trụ xả, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Khắp nhiếp trì là tướng tất cả Đà la ni môn, khắp nhiếp thọ là tướng tất cả Tam ma địa môn, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Khéo thọ giáo là tướng bốn quả Sa môn, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Tự khai ngộ là tướng Độc giác Bồ đề, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Năng thành xong đại sự là tướng Bồ Tát hạnh, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Đủ đại tác dụng là tướng chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Hiện Chánh đẳng giác là tướng Nhất thiết trí, khéo thông đạt là tướng Đạo tướng trí, hiện đẳng biệt giác là tướng Nhất thiết tướng trí, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. (Q. 443, ĐBN)

Chư thiên phải biết: Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với hết thảy tướng của tất cả pháp như thế đều năng như thật giác biết là vô tướng. Vậy nên, Ta nói tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trí vô ngại không ai bằng.

 

(Để giải thích đoạn kinh này Đại Trí độ Luận, phẩm thứ 48, “Vấn Tướng”, tập 4, quyển 70, thuyết rằng:

Hỏi: Trước đây đã nói nhiều về không tướng, vô tướng tướng, vô tác tướng… dẫn đến vô sở hữu tướng là tướng của Bát nhã Ba la mật rồi. Nay vì sao chư Thiên còn hỏi nữa?

Đáp: Phật tùy nơi, tùy thời, tùy căn cơ của chúng sanh đến nghe pháp mà thuyết, để chúng sanh được lợi lạc. Có lúc Phật thuyết “vô”, có lúc thuyết “hữu”, có lúc thuyết về nhân quả, có lúc thuyết về tội phước v.v…

Nay chư Thiên hỏi về Bát nhã Ba la mật tướng, nên Phật mới rộng nói về các tướng của Bát nhã Ba la mật.

Trước đây Phật đã nói “Bát nhã Ba la mật tướng là như mộng, như huyễn”… tợ như khả đắc (có thể được) mà thật chẳng có tướng khả thủ (có thể nắm bắt được). Chỉ có chư Phật mới có thể như thật biết về tướng ấy. Chư Thiên, dù có lợi trí, nhưng chẳng thể nào biết rõ được nên mới thưa hỏi Phật như vậy.

Phật dạy rằng chư Thiên cũng như hết thảy các pháp khác đều là Bát nhã Ba la mật tướng, là không tướng.

Hết thảy pháp đều là “không tướng”, có nghĩa là hết thảy pháp đều là “vô tướng tướng”.

Đã là vô tướng tướng thì chẳng có các nguyên nhân dẫn sanh thân sau, nên cũng là “vô tác tướng” vậy.

Bởi vậy nên nói tam giải thoát môn “không, vô tướng và vô tác” là ba cửa dẫn vào ba thừa đạo. Đây là cộng tướng của cả ba thừa đạo, vì cả ba thừa đều có nói đến.

Ví như ở cả ba thừa đều nói đến pháp tướng là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, đều là vô y chỉ, là như hư không. Đây cũng chính là Bát nhã Ba la mật tướng vậy.

 



pdf

facebook

youtube

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2012(Xem: 13935)
Khi Phật đã thành đạo và thành lập giáo đoàn với năm vị đệ tử tì kheo đầu tiên tại vườn Nai, mọi người dân Ấn vẫn chưa biết gì về Phật. Đến lúc giáo đoàn đông dần, và các vị đệ tử đầu tiên đã có đầy đủ khả năng và đạo hạnh để tự mình đi hành hóa các nơi, thì người ta mới bắt đầu nghe nói đến “Phật"! Cho đến gần một năm sau, khi Phật thu phục được ba anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, tiếp đến là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, và sau đó không lâu là Đại Ca Diếp, thì tiếng tăm của Phật mới thực sự vang khắp bốn phương, trong triều ngoài nội ai ai cũng biết!
10/08/2012(Xem: 12956)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính. Chỉ vì người đời không thấy tự tính nên lập pháp môn kiến tính, nếu thấy được bản thể chân như thì chẳng cần lập pháp môn. Kinh Kim Cương Bát-nhã này được vô số người đọc tụng, vô biên người xưng tán, có hơn tám trăm nhà luận giải. Sự tạo luận tùy theo cái thấy của mỗi người. Năng lực thấy đạo dầu không đồng, nhưng chân lý thì không hai.
26/07/2012(Xem: 12522)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
25/07/2012(Xem: 13139)
Phương Thức Thực Hành Hạnh Bồ Tát (Bodhicharyàvatàra) là Thi phẩm bằng tiếng Phạn của Tôn giả Tịch Thiên (Sàntideva) khi ngài tu học ở Học viện Phật giáo Nalandà, Ấn độ vào thế kỷ thứ bảy Tây lịch. Đây cũng là tác phẩm Tạng ngữ vô cùng quan trọng, áp dụng vào chương trình học tập cho các tu sĩ Tây Tạng.
30/05/2012(Xem: 6691)
LƯỢC SỬ PHẬT GIÁO & HỒI GIÁO TẠI AFGHANISTAN · Địa lý · Sự hiện diện của Phật Giáo vào buổi đầu · Trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ và Vương quốc Graeco-Bactrian · Thời đại Kushan · Người White Huns và Turki Shahis · Tây Thổ Nhĩ Kỳ (The Western Turks) · Thời đại Umayyad và sự mở đầu của Hồi giáo · Liên minh Tây Tạng · Đầu thời kỳ Abbasid · Cuộc nổi loạn chống lại đế chế Abbasids · Triều đại Tahirid, Saffarid, và Hindu Shahi · Triều đại Samanid, Ghaznavid, và Seljuk · Triều đại Qaraqitan và Ghurid · Thời kỳ Mông Cổ (Mongol)
12/05/2012(Xem: 7737)
Sinh năm 1952 tại Tây Tạng, Ringu Tulku từng là một giáo sư Đại học về những vấn đề Tây Tạng trong mười bảy năm và là một giáo sư thỉnh giảng tại Đại Học Naropa ở Boulder, Colorado, Hoa Kỳ, trong năm năm. Ngài là giám đốc của bảy trung tâm thiền định ở Âu Châu, Hoa Kỳ, và Ấn Độ. Ngài đã du hành và giảng dạy rộng rãi ở Âu Châu và Hoa Kỳ. Mọi điều tôi huyên thuyên nhân danh Giáo Pháp đã được các đệ tử có thị kiến thuần tịnh ghi lại một cách trung thực. Nguyện rằng ít nhất một mẩu nhỏ trí tuệ của các bậc Thầy giác ngộ đã không biết mệt mỏi dạy dỗ, có thể soi chiếu mớ hiểu biết rời rạc của tôi.
27/03/2012(Xem: 10826)
Bản kinh này do Ban phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam giao cho Đại đức Thích Đồng Ngộ dịch quyển thượng và con dịch quyển hạ vào cuối năm 2007. Vì lý do nào đó, quyển kinh được yêu cầu phải dịch gấp, nên quá trình phiên dịch vấp phải nhiều khó khăn, bản dịch do vậy không được như ý. Nay chúng con có hiệu đính lại, và dù rất cố gắng, chắc cũng còn có chỗ chưa thỏa đáng. Giá như có một hội đồng thẩm định, cùng đọc các bản dịch, rồi hiệu đính thì hay biết mấy! Chúng con xin phổ biến bản dịch này để mong được chư tôn đức bổ chính cho.
16/02/2012(Xem: 7859)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]