Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hội Đồng Tăng Già 1991 (Sách PDF)

07/07/202122:04(Xem: 7029)
Hội Đồng Tăng Già 1991 (Sách PDF)
Hội Đồng Tăng Già 1991 PhotoHội Đồng Tăng Già 1991


Tường Thuật Về Đại Hội Ban Chấp Hành Hội Đồng Tăng Già Thế Giới, Kỳ 1 nhiệm kỳ 5 tại Hannover - Đức Quốc, từ ngày 13 - 17 tháng 4 năm 1991.
 Hòa Thượng Thích Như Điển chuyển dịch từ Anh văn và Hoa văn sang Việt văn.


Vào Sách

 

Phật Giáo là một Tôn Giáo có thể nói rằng dễ dãi ở mọi phương diện, không có một điều khoản nào bắt buộc tín đồ phải tin theo cả. Dù cho đó là vấn đề gì đi nữa, điều quan trọng là mỗi người tín đồ tự ràng buộc mình vào giới luật để tu hành thì được giải thoát. Nếu kẻ nào không chuyên tâm, kẻ ấy sẽ đến sau. Sự giác ngộ giải thoát còn chậm trễ. Chỉ đơn giản có thế.

 

Đức Phật là một bậc Chí Tôn, bậc Thầy của Trời và Người; nhưng cũng là một vị không có một quyền năng để ban phước và buộc tội cho bất cứ người nào, mà Ngài chỉ là một Đạo Sư, biết đa đường chỉ lối cho người xuất gia cũng như tại gia nếu đi đúngđường, sẽ đến đích. Địa vị ấy tuy không độc tôn; nhưng cũng không hai. Vì ai cũng có thể đi đến được, mà cũng chẳng phải đơn giản để đi đến đó, nếu chúng ta không tự nỗ lực. Vì không có tính cách độc tôn, nên trước khi nhập diệt, Ngài đã không trao lại Ngôi vị Phật cho bất cứ một người đệ tử xuất gia hay tại gia nào, mà Ngài chỉ trao truyền cái tâm giác ngộ, tâm Phật đến cho mọi người và mọi loài.

 

Ngay từ khởi thủy, Giáo Hội của Đức Phật cũng chỉ có tính cách ượtng trưng mà không có quyền lực. Giáo Hội ấy khép mình vào kỷ luật, nếu ai phạm luật, hãy tự sám hối - bước tới thêm bước nữa sẽ đến đích. Hoặc hãy tự bước lui khi thấy rằng chính khả năng của mình không kham nhẩn được nữa. Tuy đơn giản nhưng khó làm.

 

Từ những sự việc bên trên, căn cứ theo lịch sử truyền thừa của Phật Giáo, chúng ta thấy rằng Giáo Hội, dưới sự lãnh đạo của chư Tăng, dầu bất cứ ở thời đại và quốc gia nào, nó cũng chỉ có tính cách tượng trưng về lãnh vực tinh thần chứ không có một giáo quyền tuyệt đối.

 

Ngay cả với Đạo Phật tại Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma theo truyền thống, vừa là một vị Tăng Vương vừa là một vị Quốc Vương; nhưng với Ngài, hết sức giản dị, nhẹ nhàng, khiêm tốn, không lộ một vẻ gì là quyền lực, nơi một bậc hóa thân ấy.

 

Phật Giáo đi vào dân tộc nào sẽ hòa nhập cùng với văn hóa và tập tục của Dân Tộc đó, cùng với nhịp thở của Dân Tộc để giữ nước và dựng nước. Ngay cả các triều đại thịnh hành nhất của Việt Nam như triều Lý, Trần, ở Trung Quốc và đời nhà Lương, nhà Đường, ở Đại Hàn triều Lý và ở Nhật Bản thời Thánh Đức Thái Tử v.v... Tất cả những thời đại huy hoàng ấy Phật Giáo đã đóng góp phần mình vào sự nghiệp của quốc gia ở nhiều phương diện và các vị Thiền Sư vừa là Quốc Sư như Vạn Hạnh, Khuông Việt v.v... nhưng đối với quý Ngài, vẫn không muốn tập trung giáo quyền về một mối, mà sau khi giúp vua trị nước, lại lui về chốn am thiền để tụng kinh, tĩnh tọa. Có nhiều người nói rằng: Phật Giáo như thế là bi quan yếm thế; nhưng hoàn toàn sai. Vì Đạo Phật quan niệm rằng cuộc đời vốn giả tạm, chẳng có gì vĩnh cửu ngoại trừ chân lý. Do đó hành hoạt của các vị Danh Tăng, Quốc Sư hay của Phật Giáo cũng chỉ có tính cách tượng trưng và tuyệt nhiên không có tính cách giáo quyền.

 

Đã hơn 2.500 năm trôi qua, mặc dầu không giáo quyền; nhưng Phật Giáo vẫn tồn tại và có lẽ còn tồn tại lâu dài hơn nữa trong lịch sử của nhân loại, có lẽ cũng nhờ tính cách biệt lập ấy. Phật Giáo đi vào lòng của mỗi dân tộc như nước vào các cội nguồn của ao hồ sông biển, đến đâu cũng dễ hòa nhập và hội tụ. Ngày nay Phật Giáo đã có mặt khắp năm châu, có rất nhiều quốc gia theo Phật Giáo. Ở Áo Quốc Phật Giáo đã được công nhận là một Tôn Giáo,

các nước khác như Đức, Pháp, Thụy Sĩ v.v... tuy Phật Giáo có nhiều người theo; nhưng số tỷ lệ tín đồ để được pháp luật công nhận là một tôn giáo tương đối còn ít ỏi, hy vọng ở một ngày mai, việc công nhận ấy chẳng xa xôi gì. Có lẽ cũng vì có nhiều người Âu Mỹ theo Đạo Phật và muốn rằng Đạo Phật phải có một thực thể trong cộng đồng nhân loại và vì bao nhiêu thôi thúc đó đã đổ dồn về Á Châu. Kết quả là một cuộc Đại Hội Phật Giáo Thế Giới được thành hình ở đầu thập niên 50 tại Columbo, Thủ đô Phật Giáo Tích Lan. Ngày nay trụ sở của Hội nầy đặt tại Bangkok có tên bằng tiếng Anh là: World Buddhist Fellowship. Có nghĩa là Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới. Khi nhìn vào danh từ chúng ta cũng có thể hiểu rằng tổ chức nầy không có quyền lực gì cả, chỉ có tính cách liên hữu mà thôi. Gọi là liên hữu có nghĩa rằng liên lạc hữu nghị, chỉ thông tin đại chúng. Mỗi một vài năm có một cuộc họp để tường trình những sinh hoạt của quốc gia mình và tạo sự liên kết chặt chẽ trong phong trào phát huy tinh thần học Phật.

 

Trong tổ chức nầy gồm có cả Tăng Ni và Tín Đồ. Nhưng Tín Đồ nắm phần chủ chốt hơn. Có nhiều vị Thủ Tướng, Quốc Vương tại Á Châu là thành viên của Hội Phật Giáo Thế Giới liên hữu nầy; nhưng tóm lại vẫn không có quyền lực để chi phối tín đồ. Tất cả cũng chỉ có tính cách tượng trưng.

 

Đến thập niên 60, Tăng Già trên thế giới cũng nhóm họp tại Columbo, lần nầy chỉ có Tăng Già duy nhất, không có cư sĩ và nhiều vị Tăng uy tín của Đoài Loan, Việt Nam, Thái Lan và Tích Lan đã thành lập một tổ chức gọi là: World Buddhist Sangha Counsil - Hội Đồng Tăng Già Thế Giới. Trụ sở của Tổ Chức nầy hiện đặt tại Đài Loan và Ngài Wu-Ming (Ngộ Minh) làm Chủ Tịch. Có khoảng trên 20 nước có mặt trong tổ chức nầy. Nhưng thực tế chỉ có tính cách tượng trưng chứ không có giáo quyền. Nếu nhìn theo hình thức hành chánh, đây là 2 tổ chức, một lo về tinh thần và một lo về thế sự và cả 2 tổ chức to lớn có tính cách thế giới nầy cũng chỉ có tính cách tượng trưng. Ai cũng có thể gia nhập làm hội viên cá nhân hoặc đoàn th ể. Dĩ nhiên phải có cá nhân hoặc tổ chức đã có mặt trước đó giới thiệu.

 

Qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Thích Thiền Định viện chủ chùa Pháp Hoa, Marseille Pháp Quốc. Ngày 12.9.1987 chúng tôi, với tư cách Chi Bộ Trưởng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Đức Quốc đã làm đơn gia nhập toàn Chi B ộ vào tổ chức Tăng Già Thế Giới nầy và ngày 30.10.1987 đã được chính thức là một thành viên của tổ chức.

 

Nhân  Đại Hội kỳ 5 tổ chức tại Taipei, Đài Loan, từ ngày 28.10 đến 2 tháng 11 năm 1989 chúng tôi đại diện cho Chi Bộ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Đức Quốc tham dự lần đầu tiên, và cũng chính trong lần nầy đã hạnh ngộ gặp các bậc tôn túc Tăng Già trên thế giới. Thượng Tọa Thích Minh Lễ, viện chủ chùa Tịnh Tâm tại Pháp đã đề cử cá nhân chúng tôi vào làm thành viên của Thanh Niên Tăng Ni trong tổ chức nầy. Cũng do sự đốc thúc của 

Hòa Thượng Thích Thiền Định, nên chúng tôi đã mạnh dạn phát biểu bằng tiếng Nhựt trong Đại Hội là đề nghị họp Ban Chấp Hành kỳ 1 của Khoáng Đại lần thứ 5 tại chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc. Có những lý do chúng tôi đưa ra như sau:

 

- Vì Phật Giáo đã hiện diện ở Á Châu quá lâu đời, trong khi đó ở Âu Châu chưa có hình bóng của Tăng Già qua lại và muốn cho người Âu Châu thấy được sự hiện diện của Phật Giáo thì nên tổ tchức Đại Hội tại Đức.

 

- Thứ đến, nước Đức so với Âu Châu là nước có nhiều người địa phương học và tu theo Phật, chúng ta nên đến đó để Đại Hội.

 

Đó là những điểm chính mà chúng tôi đã trình bày và đã được thành viên của Đại Hội tán thành.

 

Sau khi Đại Hội tại Đài Loan chấm dứt, chúng tôi về lại Đức đưa đề nghị nầy lên Chi Bộ và thảo luận qua với Hội Phật Tử Việt Nam Tỵ Nạn tại Đức Quốc. Ai cũng ngần ngại, vì phương tiện tổ chức như phòng ốc, tài chánh v.v... vả lại năm 1991 là năm có nhiều lễ lớn làm sao lo cho xuể và trong khi đó chùa chiền đang xây dựng còn dở dang. Những lễ lớn của năm 1991 vào tháng 4 có Đại Hội Ban Chấp Hành của Hội Đồng Tăng Già Thế Giới kỳ một, lễ Phật Đản, Đại lễ Khánh Thành vào tháng 7 và lễ Vu Lan sau đó. Dồn dập cả 4 lễ một lúc vì vậy việc lo lắng cũng là chuyện chính đáng thôi. Kể từ đó chúng tôi đã âm thầm vận động với chính quyền và các nhà hàng tại Hannover.

 

Về phương diện di chuyển thì Đại Biểu nào phải tự túc lấy. Chỉ có vấn đề ăn ở, di chuyển tại Hannover, Chi Bộ phải đảm trách. Dự chi cho vấn đề nầy chừng 50.000DM. Về ăn uống chúng tôi đề nghị mỗi chùa tại Đức đãi Đại Hội một bữa. Những ngày còn lại thì những nhà hàng tại Hannover, Braunschweig, Berkhof và Berlin đãi. Như thế đỡ đi một gánh nặng. Chỉ có m ột điều khó kh ăn duy nhất lúc bấy giờ là phòng ốc, vì đúng vào thời điểm từ 13.4 cho đến 18.4.1991 tại Hannover có Messe, do đó muốn mướn phòng cho chư Tăng tạm trú trong những ngày ấy quả là một chuyện vạn nan. Vì thời điểm đã thông báo cho các thành viên khắp nơi trên thế giới, nên không còn cách nào hơn là phải tổ chức. Chỉ có thế thôi. Chúng tôi đã tìm kiếm khắp nơi nhưng không có chỗ. Cuối cùng rồi chuyện gì đến cũng phải đến. Địa điểm tổ chức được tìm ra là khách sạn Parkhaus Baerbel Richter tại Altenau cách Hannover chừng 60 km. Địa điểm nầy rất tốt vào mùa hè, có núi đồi hùng vĩ và cảnh trí thiên nhiên rất thơ mộng.

 

Trong thời gian nầy chúng tôi liên lạc với Thượng Tọa Liao Chung (Liễu Trung) Tổng Thư Ký của Hội Đồng Tăng Già ở Đài Bắc bằng tiếng Nhựt và tiếng Anh. Tiếng Anh tại Đài Loan có bà Ting Ru-Yuan lo liệu và tại Đức có Đạo Hữu Thị Tâm Ngô Văn Phát, Hội Trưởng Hội Phật Tử Việt Nam Tỵ Nạn tại Đức giúp cho chúng tôi những văn thư qua lại thường xuyên trong thời điểm nầy.

 

Cuối năm 1990 phải lo cho tài khóa chi thu của năm 1991. Trong năm 91 chúng tôi có trình bày là có 4 lễ lớn và đề nghị Bộ Nội Vụ Liên Bang Đức giúp cho một số tiền để thuê khách sạn cho chư Tăng ở trong Đại Hội nầy là 20.000DM. Cuối cùng chính phủ đã đồng ý. Quả là phép Phật nhiệm mầu. Vì trước đó, chúng tôi nghĩ rằng cứ xin; nhưng chưa chắc gì được giúp đỡ.

 

Về cách tổ chức thì chúng tôi đã có kinh nghiệm; nhưng vì đây là một Đại Hội Thế Giới nên đã tăng cường nhiều người biết ngoại ngữ như Anh, Đức, Nhựt, Hoa để phụ việc thông dịch, hướng dẫn v.v... Tất cả quý Tăng Ni và Phật Tử tại Đức cũng như Pháp sẵn sàng giúp cho việc nầy.

 

Tất cả có 45 vị trong Ban Chấp Hành tham dự đến từ 16 quốc gia trên thế giới, Âu, Mỹ và Úc Châu.

 

Chiều ngày 12 tháng 4 năm 1991 chùa Khánh Hòa tại Pforzheim khoản đãi Ban Chấp Hành và sau đó đưa các Đại Biểu về nghỉ đêm tại khách sạn ở Altenau.

 

Sáng ngày thứ bảy hôm sau (13.4) sau khi dùng sáng tại khách sạn, xe Bus chở Đại Biểu về chùa Viên Giác để khai mạc Đại Hội.

 

Trong lễ khai mạc Đại Hội tại chánh điện mới có khoảng 800 chư Tăng và Phật Tử tham dự. Phía Ban Tổ Chức, Hòa Thượng Thích Thiền Định đại diện cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu trong cương vị cố vấn mở lời chào mừng. Sau đó Ngài Wu Ming (Ngộ Minh) Chủ Tịch Hội Đồng Tăng Già đọc diễn từ và phía bên người Đức có ông Dr. Meihorst, Chủ Tịch Hiệp Hội Liên Bang Kỹ Sư của Đức và cố vấn cho chùa Viên Giác đọc chúc từ  Đại Hội. Có nhiều phái đoàn người Hoa, Việt, Đức, Nhật v.v... về dự lễ khai mạc nầy.

 

Sau lễ khai mạc phái đoàn đã được các Phật Tử chở đi Berkhof, Restaurant của Phật Tử Lý Chấn Lợi để dùng trưa. Buổi chiều về lại chùa Viên Giác và họp phiên họp đầu tiên tại chánh điện chùa cũ tại đường Eichelkampstr. (xin xem phần tường thuật riêng bằng tiếng Anh và ti ếng Đức phía sau).

 

Tối đó các Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Đức cũng như các nghệ sĩ Đức Thành, Liêu Nguyệt Lan và Trần Thiện Tuyến đã cống hiến Đại Hội một đêm văn nghệ thật là đặc sắc. Sau đêm văn nghệ xe Bus đưa các Đại Biểu về nghỉ đêm tại khách sạn.

 

Sáng hôm sau (14.4.91) sau khi dùng điểm tâm tại khách sạn phái đoàn được xe Bus đưa về lại Hannover để tham quan thành phố và trưa đó dùng cơm tại khách sạn Wah Nam do Phật Tử Minh Thiện khoản đãi.

 

Phiên họp thứ 2 tổ chức tại chùa Viên Giác vào buổi chiều và tiếp tục tường trình những công tác Phật sự của Đại Hội trong thời gian qua. Tối hôm ấy Phật Tử chùa Bảo Quang (Hamburg) khoản đãi phái đoàn tại chùa Viên Giác.

 

Ngày 15.4.1991 Phái Đoàn ở lại luôn khách sạn để họp buổi thứ 3 và buổi chiều hôm đó làm lễ bế mạc. Buổi trưa do chùa Quan Âm (Aachen) và Niệm Phật Đường Phật Bảo (Barntrup) khoản đãi. Buổi chiều chùa Viên Giác và các Phật Tử khoản đãi.

 

Ngày 16 tháng 4 Phái Đoàn rời khách sạn đi Bá Linh và trên đường đi đã ghé thăm thành phố Braunschweig, đã được ông Thị Trưởng thành phố tiếp đón một cách rất niềm nở. Trưa đó nhà hàng của Phật Tử Nguyễn Văn Trung và Nguyễn Văn Trực khoản đãi.

 

Phái Đoàn tiếp tục đi đến Bá Linh, ghé ngang Niệm Phật Đường Linh Thứu, dùng chiều do quý Ph ật Tử tại đây khoản đãi và sau đó đi thăm thành phố cũng như về lại khách sạn.

 

Ngày hôm sau 17.4.1991 tiếp tục thăm thành ph ố và dùng cơm tại nhà hàng để sau đó về lại khách sạn ở Altenau và ngày hôm sau 18.4.1991 là tiễn đưa Đại Biểu lênđường về lại quý quốc, hoặc tiếp tục chuyến hành trình đi đến các quốc gia khác ở Âu Châu để thăm viếng.

Chương trình tuy ngắn gọn như thế; nhưng tổ chức thì cả một vấn đề. Ai có đứng vào v ị trí ấy mới thấy, nếu chỉ đứng ngoài để nhìn và phê phán thì rất đơn giản và dễ dàng.




Mục Lục

 

4 - Vào sách

 

14 - Thư mời

22 - Chương trình chi tiết

 

30 - Những phiên họp của Ban Chấp Hành Hội Đồng Tăng Già Thế Giới kỳ 1, lần thứ V

33 - Diễn từ khai mạc của Hòa Thượng Hội Trưởng

35 - Diễn văn của Ông Dr. Ing. Werner Meihorst

 

37 - Thông Điệp của Hòa Thượng Thích Tâm Châu

40 - Trao quà kỷ niệm

42 - Họp

 

44 - Phiên họp thứ 2

50 - Buổi họp thứ 3

51 - Buổi họp thứ 4

 

55 - Bài tường thuật của T.T. Tiến sĩ M. Wipulasara Mahathera, Tổng thư ký Anh văn

 

57 - Lời cảm tạ của Ban tổ chức

59 - Ngài Hoà Thượng Wu Ming nói lời bế mạc

61 - Hồ sơ số 1

 

68 - Hồ sơ số 2

72 - Hồ sơ số 3

74 - Hồ sơ số 4

 

78 - Hồ sơ số 5

80 - Hồ sơ số 6

86 - Hồ sơ số 7

 

93 - Hồ sơ số 8

97 - Hồ sơ số 9

100 - Hồ sơ số 10

 

102 - Hồ sơ số 11

104 - Hồ sơ số 12

107 - Hồ sơ số 13

 

110 - 164 - Phần Hoa Ngữ & Anh Ngữ

165 - 210 - Phần Đức Ngữ

 

211 -  220 - Hình ảnh sinh hoạt Đại Hội Tăng Già Thế Giới

 





Hội Đồng Tăng Già 1991 Photo
pdf-iconHội Đồng Tăng Già




facebook-1

youtubeQuang Duc Monastery Youtube Channel


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8224)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
26/06/2021(Xem: 12246)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
19/06/2021(Xem: 12640)
MỤC LỤC Lời đầu sách 2 TÌM HIỂU GIÁO LÝ PHẬT GIÁO 9 ĐỨC PHẬT 12 GIÁO PHÁP 36 TĂNG ĐOÀN 119 PHÁI TỲ NI ĐA LƯU CHI. 136 PHÁI VÔ NGÔN THÔNG.. 137 PHÁI THẢO ĐƯỜNG.. 139 HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 154 TIỂU SỬ ĐỨC TĂNG THỐNG GHPGVNTN.. 165 TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA.. 177
19/06/2021(Xem: 11126)
Mục Lục - Lời vào sách 4-13 CHƯƠNG MỘT 14-35 Sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo VNTN CHƯƠNG HAI 36-102 Bản nội quy của Giáo Hội PGVNTN Âu Châu và thành phần Ban Điều hành của Giáo Hội CHƯƠNG BA 103-167 Giải đáp những thắc mắc CHƯƠNG BỐN 168-294 Khóa Giáo Lý Âu Châu Kỳ 9 Kinh Hoa Nghiêm Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 LỜI KẾT 295-299 HÌNH ẢNH 300-344
18/06/2021(Xem: 9405)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
16/06/2021(Xem: 13080)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
12/06/2021(Xem: 11529)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
12/06/2021(Xem: 9067)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
11/06/2021(Xem: 9021)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
09/06/2021(Xem: 18365)
LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT - Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648. Hán văn từ trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển. - Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa) còn gọi là Đại Quang tạo luận nầy và vào đời nhà Lương được Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala) nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. - Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ ba tại đây. Bắt đầu dịch luận nầy vào ngày 10 tháng 12 năm 2005.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567