Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kiến Pháp Tràng ư xứ xứ

16/01/202115:04(Xem: 8235)
Kiến Pháp Tràng ư xứ xứ
chua vien minh-thuy sy

Kiến Pháp Tràng ư xứ xứ

Bài viết: HT Thích Như Điển
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh

Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước



Vào mỗi thời tụng Kinh Lăng Nghiêm của mỗi buổi sáng tại các chùa ở trong cũng như ngoài nước Việt Nam, chư Tăng Ni thường hay trì tụng bài Sám Quy Mạng với âm Hán Việt. Đôi khi tụng bài tiếng Việt của Thiền Sư Nhất Hạnh dịch, hay bài dịch ra Việt ngữ hoàn toàn của Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải, trong đó có câu là:”Kiến Pháp tràng ư xứ xứ, phá nghi võng ư trùng trùng. Hàng phục chúng ma, thiệu long Tam Bảo….”mà Thiền Sư Nhất Hạnh dịch là: Pháp Tràng dựng khắp nơi nơi, lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không. Tà ma hàng phục đến cùng, truyền đăng Phật Pháp nối dòng vô chung…” Còn Ni Trưởng Trí Hải dịch là:” Khai đàn tràng hiển chơn phá vọng, dẹp tan muôn trùng sóng hoài nghi. Quần ma úy phục theo về. Ba ngôi báu thịnh như kỳ Tượng Sơ…”. Đây là một bài sám rất hay thâm trầm, ý vị mà người xuất gia nào cũng không phải là không có cơ duyên để trì tụng đến.

Năm 2021 Thượng Tọa Thích Như Tú đương kim Trụ Trì chùa Viên Minh tại Nebikon Thụy Sĩ cùng chư Phật Tử tại đó dự định làm lễ khánh thành ngôi chùa đã được tân trang xong và mong tôi có một bài viết đóng góp về việc trọng đại nầy; nên hôm nay tôi sẽ viết vài điều mà tôi đã biết sau hơn 30 năm có duyên với Phật Giáo Việt Nam tại Thụy Sĩ. Phải nói rằng đất nước Thụy Sĩ là một Thiên Đàng nơi hạ giới rất đúng nghĩa. Vì lẽ giữa dân chúng và chính quyền luôn luôn hòa hợp với nhau; nghĩa là bất cứ vấn đề gì của Quốc Gia, chính quyền Thụy Sĩ cũng đều trưng cầu ý kiến của dân. Ví dụ như chính phủ muốn làm một xa lộ xuyên qua núi nào đó. Thế là trưng cầu ý kiến của dân. Một người ngoại quốc nhập tịch Thụy Sĩ, phải được sự đồng ý của tất cả những người trong làng…..và còn không biết bao nhiêu là việc tương tự Dân Chủ như thế nữa đã đương và sẽ xảy ra với quê hương Thụy Sĩ đầy t mộng nhưng cũng không kém những việc nhiêu khê như vậy.

Từ đó việc xây dựng một ngôi chùa ở Thụy Sĩ không phải là việc dễ dàng để làm nơi nương tựa tâm linh cho người con Phật khi sống xa quê hương như người Phật Tử Việt Nam của chúng ta ngày nay. Ai cũng biết rằng: an cư rồi mới lạc nghiệp; nhưng dẫu cho có ở yên với đời sống cá nhân; nhưng Đoàn Thể và Tổ Chức Tôn Giáo thì phải có những điều lệ khác nữa. Ví dụ như không được tụ tập đông người; không làm ồn hàng xóm vào ngày chủ nhật v.v…trong khi đó Việt Nam chúng ta mỗi khi gặp nhau là tay bắt mặt mừng, nói chuyện lớn tiếng tỉnh bơ, xem như không có người nào bên cạnh cả. Ngày chủ nhật là ngày nghỉ của Tây Phương, còn chùa chiền Việt Nam chúng ta từ sáng sớm đến chiều tối ngày chủ nhật đều có nhiều tiếng động lớn từ mõ, chuông, tiếng tụng Kinh hay tiếng nói chuyện. Do vậy mà đi tìm một nơi để làm chùa được ở Thụy Sĩ không phải là vấn đề dễ dàng so với những nơi khác tại Âu Châu nầy.

Cách đây chừng hơn 25 năm Chùa Phật Tổ Thích Ca mua lại một ngôi nhà cũ để làm chùa tại Emmenbrecke. Chùa có 4 tầng, biệt lập; nhưng quá cũ kỹ cũng như không có phòng ốc lớn để làm Chánh Điện. Quý Phật Tử đã cải gia vi tự, biến từng trên cùng rộng ra để thờ Phật, thờ linh và có chỗ ngồi tụng Kinh đủ cho chừng 30 Phật Tử. Trong khi đó Quý Phật Tử cũng đã dự định đi tìm một cơ sở khả dĩ hơn để tạo thành một mái chùa Việt Nam thật s tại xứ người. Có lẽ thời gian ít nhất là 2 năm mới tìm ra cơ sở trong hiện tại. Điều thuận duyên là Phật Tử tại Emmenbruecke và Luzern thuở đó đã bảo lãnh được Thượng Tọa Thích Như Tú vừa xong văn bằng Tiến Sĩ Phật Học tại Ấn Độ, qua đây làm lãnh đạo tinh thần và Trụ Trì ngôi chùa Phật Tổ Thích Ca thuở ấy.

Đến khi tìm ra được một nhà hàng cũ tại vùng Nebikon thì Thầy Trụ Trì muốn đổi lại tên là chùa Viên Minh khi Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và tôi có cơ duyên sang đó hoằng pháp. Chùa nầy cũng thuộc loại cải”nhà hàng làm chùa”; nhưng có rất nhiều điều thuận lợi. Đó là việc di chuyển bằng xe lửa rất gần, chỉ cần đi bộ độ chừng 3 phút là tới nhà gare rồi. Vùng nầy thuộc vùng kỹ nghệ; nên hãng xưởng nghỉ vào dịp cuối tuần, chúng ta có thể mượn thêm bãi đậu xe để đậu khi chùa có lễ lớn. Nguyên thủy là một nhà hàng; nên có độ 36 bãi đậu xe chung quanh và là nơi sinh hoạt công cộng đã được công nhận từ lâu rồi; nên khi nơi đây biến thành ngôi chùa thì người địa phương cũng không có gì quan tâm đến tiếng ồn mấy. Chỉ có điều là mình mang một Tôn Giáo khác từ Á Châu đến trồng, cấy vào xã hội Tin Lành và Thiên Chúa giáo tại Tây Phương không phải là chuyện đơn thuần tí nào cả. Không biết rằng đến thế hệ thứ mấy thì mới có người Thụy Sĩ đi xuất gia; chứ thế hệ thứ nhất nhìn tới nhìn lui vẫn chưa thấy được người địa phương phát tâm dõng mãnh nầy. Hy vọng sẽ có một ngày và ngày ấy sẽ không xa….

Thầy, trò, đệ tử cùng những người quen biết thay phiên nhau vào những cuối tuần dỡ cái cũ bỏ ra, lp cái mới vào, đục đục, đẽo đẽo, cưa cưa,ráp ráp v.v… và cuối cùng đã hoàn thành từ trong ra ngoài từ trên xuống dưới. Nơi nào cũng sạch sẽ gọn gàng như người Thụy Sĩ vậy. Từng dưới cùng làm phòng sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử. Tầng một hay tầng trệt làm Chánh Điện, phòng thờ Tổ, phòng ăn, văn phòng, nhà bếp. Tng hai có thư viện, phòng nghỉ lại cho Phật Tử ở xa về hay dùng chỗ ở lại cho những vị thọ Bát Quan Trai vào cuối tuần. Tầng thứ ba dùng để làm phòng ở cho vị Trụ Trì và khách Tăng. Tầng chót cũng có thể làm chỗ sinh hoạt hay chỗ nghỉ lại cho giới trẻ. Ngần ấy phương tiện, ngần ấy điều kiện đủ để cho chùa Viên Minh hoạt động trong vòng chừng 20 năm. Nếu từ đây đến 20 năm sau nữa có nhiều Phật Tử hỗ trợ thì chắc rằng Thầy Trụ Trì sẽ phát tâm xây một ngôi chùa Việt Nam thật sự với hình ảnh có mái cong bốn góc và đầy đủ cổng tam quan thì chắc rằng đây cũng là nguyn vọng của nhiều người vậy.

Nay chùa sẽ khánh thành, có nghĩa là chùa sẽ đi vào hoạt động chính thức và hy vọng với khả năng hiện có của Thầy Trụ Trì cùng sự chung tay góp sức của các Phật Tử địa phương như lâu nay thì tôi hy vọng rằng niềm ước mơ trên sẽ trở thành sự thật, như trước đây Quý Phật Tử tại địa phương đã ước gì là có chùa và có Thầy Trụ Trì. Điều ấy nay Quý Vị đã có đủ và từ đây xây dựng thành một tổ chức Tôn Giáo quy cũ hơn để người Phật Tử Việt Nam và Phật Tử địa phương có một cái nhìn đích thực về Phật Giáo là như thế đó.

Xin nguyện cầu cho Thầy Trụ Trì cùng Quý Đạo Hữu Phật Tử tại Nebikon nói riêng và tại Thụy Sĩ nói chung được mọi điều như nguyện khi phát tâm xây dựng Đạo Tràng để cho mọi người cùng tu và cùng học.

Viết xong vào ngày 13 tháng 12 năm 2020 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 15923)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
26/06/2021(Xem: 9801)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
26/06/2021(Xem: 15495)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
19/06/2021(Xem: 16230)
MỤC LỤC Lời đầu sách 2 TÌM HIỂU GIÁO LÝ PHẬT GIÁO 9 ĐỨC PHẬT 12 GIÁO PHÁP 36 TĂNG ĐOÀN 119 PHÁI TỲ NI ĐA LƯU CHI. 136 PHÁI VÔ NGÔN THÔNG.. 137 PHÁI THẢO ĐƯỜNG.. 139 HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 154 TIỂU SỬ ĐỨC TĂNG THỐNG GHPGVNTN.. 165 TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA.. 177
19/06/2021(Xem: 12940)
Mục Lục - Lời vào sách 4-13 CHƯƠNG MỘT 14-35 Sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo VNTN CHƯƠNG HAI 36-102 Bản nội quy của Giáo Hội PGVNTN Âu Châu và thành phần Ban Điều hành của Giáo Hội CHƯƠNG BA 103-167 Giải đáp những thắc mắc CHƯƠNG BỐN 168-294 Khóa Giáo Lý Âu Châu Kỳ 9 Kinh Hoa Nghiêm Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 LỜI KẾT 295-299 HÌNH ẢNH 300-344
18/06/2021(Xem: 12008)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
16/06/2021(Xem: 18186)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
12/06/2021(Xem: 14810)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
12/06/2021(Xem: 11441)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
11/06/2021(Xem: 11347)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]